ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐINH THỊ MINH THU
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRÊN BIỂN ĐÔNG NHÌN TỪ VỤ KIỆN
PHILIPPINES – TRUNG QUỐC
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐINH THỊ MINH THU
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRÊN BIỂN ĐÔNG NHÌN TỪ VỤ KIỆN
PHILIPPINES – TRUNG QUỐC
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 01 08
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. NGUYỄN BÁ DIẾN
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất
cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Đinh Thị Minh Thu
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữviết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ CÁC TRANH CHẤP TRÊN BIỂN ĐÔNG NÓI
CHUNG VÀ VỤ KIỆN PHILIPPINES – TRUNG QUỐC NÓI RIÊNG ............... 5
1.1.
Khái niệm, đặc điểm các tranh chấp trên Biển Đông ..................................... 5
1.2. Phân loại các tranh chấp trên Biển Đông ........................................................... 7
1.3. Các thiết chế tài phán quốc tế và việc giải quyết tranh chấp Biển Đông ......... 9
1.3.1. Tòa án Công lý quốc tế ...................................................................................... 10
1.3.2. Tòa án Quốc tế về Luật biển .............................................................................. 12
1.3.3. Tòa trọng tài thành lập theo Phụ lục VII UNCLOS........................................... 13
1.3.4. Tòa trọng tài thành lập theo Phụ lục VIII UNCLOS ......................................... 16
1.3.5. Tòa trọng tài thường trực ................................................................................... 17
1.4. Tổng quan về vụ kiện Philippines – Trung Quốc............................................. 20
1.4.1. Lược sử tranh chấp giữa Philippines và Trung Quốc trên Biển Đông............... 20
1.4.2. Cơ quan thụ lý Vụ kiện và thành phần tham gia xét xử ..................................... 23
Chương 2: TIẾN TRÌNH VỤ KIỆN PHILIPPINES – TRUNG QUỐC TẠI TÒA
TRỌNG TÀI PHỤ LỤC VII ..................................................................................... 27
2.1. Quan điểm của các bên trong Vụ kiện .............................................................. 27
2.1.1. Diễn biến Vụ kiện .............................................................................................. 27
2.1.2. Quan điểm của Philippines................................................................................. 30
2.1.3. Quan điểm của Trung Quốc ............................................................................... 34
2.2. Phán quyết của Tòa trọng tài ............................................................................. 36
2.2.1. Phán quyết của Tòa trọng tài về thẩm quyền và khả năng thụ lý ...................... 36
2.2.2. Phán quyết của Tòa trọng tài về nội dung vụ kiện ............................................. 42
Chương 3: TÁC ĐỘNG CỦA PHÁN QUYẾT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
CHO VIỆT NAM TRONG VẤN ĐỀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO ........ 53
3.1. Ý nghĩa và tác động của Phán quyết tới cục diện tranh chấp tại Biển Đông 53
3.1.1. Ý nghĩa của việc ban hành Phán quyết .............................................................. 53
3.1.2. Tác động của Phán quyết tới cục diện tranh chấp tại Biển Đông ...................... 53
3.2. Kinh nghiệm về việc lựa chọn thiết chế tài phán giải quyết tranh chấp biển,
đảo ............................................................................................................................ 62
3.2.1. Lựa chọn thiết chế tài phán giải quyết tranh chấp về chủ quyền biển, đảo ....... 62
3.2.2. Lựa chọn thiết chế tài phán giải quyết các tranh chấp biển, đảo khác ............... 65
3.3. Kinh nghiệm về việc chuẩn bị hệ thống tài liệu cần thiết cho thủ tục tố tụng ..
............................................................................................................................ 67
3.3.1. Kinh nghiệm trong xây dựng tài liệu tố tụng ..................................................... 67
3.3.2. Kinh nghiệm trong vấn đề lựa chọn và sử dụng chứng cứ tại Tòa .................... 70
3.4. Các kinh nghiệm khác trong quá trình chuẩn bị cho việc tố tụng tại thiết chế
tài phán ........................................................................................................................ 76
3.4.1. Về nhân sự .......................................................................................................... 76
3.4.2. Về tài chính ........................................................................................................ 79
3.4.3. Về các điều kiện đảm bảo khác .......................................................................... 81
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 85
PHỤ LỤC. DANH SÁCH CÁC VỤ VIỆC ĐƯỢC GIẢI QUYẾT TẠI TÒA
TRỌNG TÀI PHỤ LỤC VII……………………………………………………….94
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ICJ
Tòa án Công lý Quốc tế
ILC
Ủy ban Luật pháp Quốc tế
PCA
Tòa Trọng tài Thường trực
UNCLOS
Công ước Liên hợp Quốc về Luật Biển
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Biển Đông là vùng biển nửa kín có vị trí địa chính trị, kinh tế và quân sự đặc
biệt quan trọng đối với các quốc gia trong khu vực nói riêng và các quốc gia lớn trên
thế giới nói chung. Xuất phát từ vị trí địa chiến lược quan trọng như vậy, từ lâu Biển
Đông đã trở thành đối tượng của nhiều tranh chấp phức tạp và kéo dài hàng thập kỷ
giữa các quốc gia trong khu vực. Có thể khái quát tranh chấp tại Biển Đông thành các
loại chủ yếu sau đây: (i) Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ; (ii) Tranh chấp phân định
biên giới/ranh giới biển; (iii) Tranh chấp về thực hiện quyền và nghĩa vụ trong các
vùng biển theo quy định của Công ước Luật biển năm 1982; (iii) Tranh chấp phát
sinh do yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý của Trung Quốc chiếm trọn 80% diện tích
Biển Đông.
Các tranh chấp này đã và đang được giải quyếttheo các phương thức tài phán
và phi tài phán theo đúng những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế và các quy định
của Công ước về Luật biển năm 1982 của Liên hợp quốc. Tuy nhiên hiện nay, với
tham vọng bá chủ Biển Đông của Trung Quốc, các biện pháp phi tài phán đã tỏ ra
kém hiệu quả. Trước bối cảnh đó, Philippines đã thực hiện một bước đi tiên phong, là
quốc gia đầu tiên đệ trình vụ việc tranh chấp ra Tòa trọng tài được thành lập theo
đúng Phụ lục VII của Công ước Luật biển năm 1982 vào ngày 22 tháng 01 năm
2013.Mặc dù Trung Quốc cố tình phớt lờ không tham gia vụ kiện, song điều đó
không ảnh hưởng tới thẩm quyền và khả năng thụ lý vụ việc của Tòa trọng tài.
Phán quyết của Tòa trọng tài có tác động mạnh mẽ tới cục diện tranh chấp tại
Biển Đông, được coi là “quả búa tạ” vào tham vọng hiện thực hóa yêu sách “đường
lưỡi bò” phi lý của Trung Quốc, là động lực lớn lao thúc đẩy các quốc gia khác trong
khu vực đã tới lúc phải thực hiện những hành động mạnh mẽ và cứng rắn hơn trong
việc giải quyết các tranh chấp đang tồn đọng. Tuy nhiên, Phán quyết này cũng buộc
Việt Nam phải quan tâm xem xét vì đối tượng trong vụ kiện đồng thời thuộc chủ
quyền lãnh thổ không thể tranh cãi của Việt Nam.
1
Là một trong các bên trong tranh chấp tại Biển Đông, Việt Nam luôn nhất
quán khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa,
đồng thời nghiêm túc tuân thủ việc giải quyết các tranh chấp bằng các phương thức
hòa bình theo quy định của luật quốc tế. Trong bối cảnh hiện nay khi mà các biện
pháp đàm phán, thương lượng đã tỏ ra kém hiệu quả thì biện pháp tài phán là giải
pháp cần được tính đến. Để hiện thực hóa được điều này, đòi hỏi Việt Nam phải có
những nghiên cứu chuyên sâu về các thiết chế tài phán, đồng thời chuẩn bị hồ sơ
pháp lý hoàn chỉnh đi đôi với việc đào tạo đội ngũ nhân lực và các điều kiện đảm bảo
khác, thể hiện quyết tâm tổng lực tham gia vào đấu trường pháp lý quốc tế.
Vấn đề này đã được tính đến song chỉ thực sự trở nên cấp thiết khi Philippines
tiến hành kiện Trung Quốc và giành thắng lợi thông qua việc ban hành Phán quyết
của Tòa trọng tài. Tại Việt Nam, việc nghiên cứu vấn đề giải quyết tranh chấp, bảo vệ
chủ quyền biển, đảo tại các thiết chế tài phán quốc tế đã được thực hiện nhưng vẫn
còn ở mức độ hạn chế. Do vậy, nghiên cứu vụ kiện Philippines – Trung Quốc là việc
làm mang tính cấp thiết, từ đó rút ra được các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
trong việc chuẩn bị và hiện thực hóa giải pháp pháp lý nhằm giải quyết tranh chấp,
bảo vệ chủ quyền biển, đảo của quốc gia trên Biển Đông. Chính vì những lý do đó,
học viên xin chọn đề tài luận văn với nội dung “Giải quyết tranh chấp trên Biển
Đông nhìn từ vụ kiện Philippines – Trung Quốc”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Đóng góp những đề xuất nhằm giúp Việt Nam có thêm kinh nghiệm trong việc
chuẩn bị những điều kiện cần thiết để tiến hành khởi kiện Trung Quốc tại các thiết
chế tài phán quốc tế trên cơ sở bài học của Philippines trong vụ kiện.
2.2.Mục tiêu cụ thể
-
Tổng quan về tranh chấp Biển Đông và phương thức giải quyết tranh chấp
thông qua các thiết chế tài phán quốc tế;
2
-
Nghiên cứu tổng quan về vụ kiện Philippines – Trung Quốc và tác động
của phán quyết được ban hành bởi Tòa trọng tài tới cục diện tranh chấp tại Biển
Đông;
-
Nghiên cứu, đánh giá quan điểm và hành động của Philippines trong vụ
kiện, qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm và gợi ý cho Việt Nam.
3.Tính mới và những đóng góp của Luận văn
-
Xác định được những điểm mấu chốt trong Phán quyết và đánh giá được
tác động của vụ kiện tới cục diện tranh chấp tại Biển Đông;
-
Làm rõ được những bài học kinh nghiệm và những gợi mở cụ thể cho
Việt Nam trong việc chuẩn bị khởi kiện Trung Quốc tại các thiết chế tài phán quốc tế.
4. Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn trong việc nghiên cứu vụ kiện Philippines – Trung Quốc qua đó rút ra
những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam khi tiến hành khởi kiện tại các thiết chế tài
phán quốc tế.
+ Về không gian: Tranh chấp trong khu vực Biển Đông;
+ Về thời gian: Chủ yếu từ khi vụ kiện được đệ trình từ năm 2013 tới khi Phán
quyết được ban hành năm 2016.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu bao gồm:
- Thu thập tài liệu để nghiên cứu, phân tích và tham khảo thông tin, trên cơ sở
kế thừa các thành quả nghiên cứu trước đây;
- Sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, đối chiếu để làm sáng
tỏ vấn đề cần nghiên cứu;
- Bên cạnh đó, đề tài cũng được nghiên cứu thông qua phương pháp bình luận,
tổng hợp và so sánh khi
3
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được
cơ cấu thành 03 chương như sau:
Chương 1. Tổng quan về các tranh chấp trên Biển Đông nói chung và vụ kiện
Philippines – Trung Quốc nói riêng
Chương 2. Tiến trình vụ kiện Philippines – Trung Quốc tại Tòa trọng tài Phụ
lục VII
Chương 3. Tác động của Phán quyết và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
trong vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo
4
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ CÁC TRANH CHẤP TRÊN BIỂN ĐÔNG NÓI
CHUNG VÀ VỤ KIỆN PHILIPPINES – TRUNG QUỐC NÓI RIÊNG
1.1. Khái niệm, đặc điểm các tranh chấp trên Biển Đông
Biển Đông là vùng biển nửa kín có diện tích khoảng 3.5 triệu km2, bao bọc bởi
chín quốc gia là Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Brunei, Malaysia,
Singapore, Thái Lan, Campuchia và một vùng lãnh thổ là Đài Loan. Biển Đông là
một trong các khu vực có tầm quan trọng chiến lược đối với các nước trong khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương nói riêng và các quốc gia khác trên thế giới nói chung [2].
(i)Về kinh tế: Biển Đông có nguồn tài nguyên sinh vật và phi sinh vật vô cùng
phong phú và đa dạng với trữ lượng lớn, là tiềm năng to lớn để phát triển công –
thương nghiệp, đồng thời là nơi dự trữ sinh quyển quan trọng trên thế giới. Với vị trí
nối liền các vùng biển lớn giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, Biển Đông là yết
hầu cho giao lưu hàng hóa của nhiều nước châu Á và trở thành tuyến đường giao
thông huyết mạch nhộn nhịp thứ hai thế giới, thúc đẩy sự phát triển của vận tải biển
nói riêng, kinh tế biển nói chung.
(ii)Về chính trị và an ninh quốc phòng: Biển Đông là địa bàn chiến lược không
chỉ của các quốc gia trong khu vực mà còn gồm các quốc gia lớn như Hoa Kỳ,Hàn
Quốc, Nhật Bản,Nga, Ấn Độ…Đối với các quốc gia ven biển, Biển Đông có ý nghĩa
phòng thủ chiến lược. Các thực thể địa lý trong hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
là những nơi quan trọng có thể xây dựng các trạm dừng chân, trạm thông tin, cứu hộ,
tiếp nhiên liệu, là “cánh tay nối dài” khẳng định chủ quyền của quốc gia tại Biển
Đông. Việc bất cứ một quốc gia nào thực hiện những yêu sách thái quá, vi phạm các
quy định của luật quốc tế đều ảnh hưởng nghiêm trọng và trực tiếp tới chủ quyền,
quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia trong khu vực nói riêng và
quyền lợi chính đáng của các quốc gia khác nói chung.
Xuất phát từ những lợi ích mang tính chiến lược như vậy, Biển Đông trở thành
đối tượng yêu sách của các quốc gia trong khu vực, dẫn tới những tranh chấp phức
tạp kéo dài, gọi chung là “Tranh chấp Biển Đông”. Tranh chấp Biển Đông là một
5
dạng tranh chấp quốc tế, theo đó các chủ thể tham gia vào quan hệ quốc tế có những
quan điểm pháp lý và quyền lợi mâu thuẫn nhau. GS. Nguyễn Bá Diến – nhà nghiên
cứu giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực Luật biển, đã định nghĩa rất sát:
Tranh chấp quốc tế về biển, đảo là những mâu thuẫn, xung đột giữa các
quốc gia và các chủ thể của luật quốc tế nói chung về những vấn đề liên quan
tới việc giải thích hay áp dụng các quy định của các điều ước quốc tế, đặc biệt
là Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, hoặc bất kỳ vấn đề
khác liên quan đến lĩnh vực biển, đảo phát sinh trong quan hệ giữa các bên hữu
quan [9, tr.11].
Tranh chấp Biển Đông có một số đặc điểm như:
(i)Tranh chấp Biển Đông liên quan tới nhiều chủ thể của luật quốc tếnhư tranh
chấp giữa các quốc gia (Ví dụ: Tranh chấp đảo Pulau Ligitan và Pulau Sipadan giữa
Malaysia và Indonesia); tranh chấp giữa quốc gia với vùng lãnh thổ - chủ thể đặc biệt
của luật quốc tế (Ví dụ: Tranh chấp đảo Ba Bình trong quần đảo Trường Sa giữa Việt
Nam và vùng lãnh thổ Đài Loan). Đặc biệt, các nước trong khu vực tranh chấp đa số
đều là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Với sứ mệnh
của mình, ASEAN đã có nhiều đóng góp tích cực là cầu nối đối thoại giữa các bên
trong việc giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông, điển hình là việc ra Tuyên bố về
ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) năm 2002 và thúc đẩy các bên tiến đến ký
kết Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC).
(ii) Đối tượng tranh chấp Biển Đông bao gồm: Lãnh thổ, kinh tế và an ninh:
Như đã chỉ ra, xuất phát từ vị trí địa chiến lược, địa kinh tế và địa chính trị, do đó,
Biển Đông trở thành đối tượng tranh chấp của nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trong
khu vực. Xuy cho cùng, bản chất của tranh chấp Biển Đông xoay quanh câu chuyện
về lợi ích không thể dung hòa.
(iii)Các tranh chấp Biển Đông có tính chất phức tạp, khó giải quyết và bất cân
xứng.Tính phức tạp của xung đột này được quy định bởi sự đa dạng về đối tượng
tranh chấp, chủ thể tham gia và mức độ đối nghịch khác nhau trong từng loại hình
6
mâu thuẫn. Sự phức tạp của các mâu thuẫn này còn tăng lên bởi những yếu tố như
lịch sử và tâm lý. Lịch sử xung đột và chia rẽ kéo dài trong khu vực, ý thức chủ
quyền và tinh thần dân tộc mạnh mẽ, truyền thống đấu tranh lớn hơn hợp tác, sự thù
hằn lịch sử và định kiến dân tộc… đều đang làm xung đột thêm phần sâu sắc [4].
Không những thế, tính bất cân xứng thể hiện rõ khi một bên là các nước đang phát
triển với một bên là Trung Quốc – siêu cường mới của thế giới. Hơn nữa, do các mâu
thuẫn này đều liên quan đến lợi ích cơ bản của quốc gia nên rất khó điều hòa và rất
khó để giải quyết.
(iv)Tác động của các tranh chấp Biển Đông đã vượt ra khỏi phạm vi khu vực,
trở thành một trong những điểm nóng toàn cầu.Tuy tranh chấp Biển Đông chỉ diễn ra
giữa các nước trong khu vực nhưng không thể phủ nhận tác động mạnh mẽ của nó tới
các quốc gia khác trên thế giới. Điều này thể hiện rõ nét khi Trung Quốc công bố yêu
sách “đường lưỡi bò” và thực hiện một loạt các hành vi phi lý nhằm hiện thực hóa
yêu sách này, đã ảnh hưởng trực tiếp tới quyền tự do hàng hải và các hoạt động giao
thương trên biển của những quốc gia lớn như Nga, Hoa Kỳ…Hơn nữa, nếu xung đột
xảy ra, nơi đây sẽ trở thành điểm nóng đối với toàn cầu. Chính vì vậy, giải quyết hòa
bình tranh chấp Biển Đông là góp phần bảo vệ hòa bình và an ninh khu vực, qua đó
giảm thiểu nguy cơ xấu tới hòa bình thế giới.
1.2. Phân loại các tranh chấp trên Biển Đông
Tranh chấp Biển Đông hiện nay có thể chia thành các loại tranh chấp chủ yếu
như sau:
Thứ nhất, tranh chấp liên quan tới chủ quyền lãnh thổ. Trong đó, tồn tại hai
tranh chấp nổi cộm là: (i) Tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa của Việt Nam, cụ thể: Tranh chấp quần đảo Hoàng Sa với Trung Quốc và
Đài Loan; Tranh chấp quần đảo Trường Sa vớiTrung Quốc, Đài Loan, Philippines,
Malaysia và Brunei; (ii) Tranh chấp chủ quyền đối với bãi ngầm Hoàng Nham giữa
Philippines và Trung Quốc.
7
Thứ hai, tranh chấp liên quan đến các vùng biển chồng lấn, trong đó nổi lên
vấn đề phân định biên giới/ranh giới biển giữa Việt Nam và các nước trong khu vực
như:
(i)Phân định ranh giới biển với Trung Quốc khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ
có diện tích chồng lấn khoảng 1080 km2 [4, tr.385].
(ii)Phân định vùng đặc quyền kinh tế với Indonesia khu vực nam Biển Đông.
(iii)Phân định ranh giới Thềm lục địa và Vùng đặc quyền kinh tế với Malaysia
trong Vịnh Thái Lan trong khu vực chồng lấn khoảng 2800km2.
(iv)Phân định ranh giới Thềm lục địa chồng lấn 3 bên với Thái Lan – Malaysia
trong trong Vịnh Thái Lan.
(v)Phân định biên giới/ranh giới biển với Campuchia trong khu vực Vịnh Thái
Lan.
(vi) Phân định biên giới/ranh giới biển với Brunei
Thứ ba, tranh chấp về việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của
Công ước trong quá trình khai thác, quản lý và sử dụng biển như: Tranh chấp về khai
thác dầu mỏ, khí đốt; tranh chấp về nghề cá khi Trung Quốc tuyên bố đơn phương áp
đặt Lệnh cấm đánh bắt cá tại Biển Đông năm 1999; và các tranh chấp liên quan tới
quyền tự do hàng hải, hàng không.
Thứ tư, tranh chấp liên quan tới yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc
chiếm hơn 80% diện tích Biển Đông. Theo quan điểm của người viết, đây là tranh
chấp nổi cộm nhất hiện nay và có mối liên hệ nguyên nhân – kết quả tới các loại tranh
chấp khác trên Biển Đông. “Đường lưỡi bò” hay “đường chín đoạn” có thể được
Trung Quốc vin vào như một Tuyên bố chủ quyền nhằm kiểm soát tất cả các thực thể,
vùng đất, vùng nước và đáy biển bên trong“đường chín đoạn”. Bằng yêu sách phi
lý,mơ hồ và bất nhất này, Trung Quốc đã ngang nhiên tước đoạt chủ quyền và quyền
chủ quyền của các quốc gia trong khu vực Biển Đông, đặc biệt là khu vực hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Bên cạnh đó, nhằm hiện thực hóa yêu
8
sách ngông cuồng này, Trung Quốc đã tự cho mình cái quyền được thực hiện việc cải
tạo, xây dựng đảo nhân tạo, đơn phương ban hành lệnh cấm đánh bắt cá, bắt giữ trái
phép tàu thuyền của các quốc gia khác.... Chính những nguyên nhân đó đã dẫn đến
kết quả của việc hình thành và kéo dài các cuộc tranh chấp gay gắt liên quan tới việc
thực hiện các quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia ven biển theo quy
định của Công ước, đe dọa nghiêm trọng tới sự tự do và an ninh hàng hải.
Tranh chấp giữa Philippines và Trung Quốc cũng không phải là ngoại lệ. Từ
đó cho thấy việc giải quyết tranh chấp giữa Philippines và Trung Quốc thực chất là
xem xét tới tính pháp lý của yêu sách đường chín đoạn, từ đó là cơ sở quan trọng để
giải quyết các tranh chấp khác có liên quan.
Việc phân loại các tranh chấp này chỉ mang tính chất tương đối dựa trên đối
tượng tranh chấp, cho ta thấy một bức tranh toàn cảnh về cục diện tranh chấp tại Biển
Đông. Việc giải quyết một tranh chấp có hệ quả pháp lý liên đới và tác động mạnh
mẽ tới các tranh chấp còn lại trên Biển Đông.
1.3. Các thiết chế tài phán quốc tế và việc giải quyết tranh chấp Biển Đông
Giải quyết tranh chấp Biển Đông bằng các thiết chế tài phán quốc tế là một
trong những phương thức hòa bình giải quyết tranh chấp được quy định trong Điều
33 Hiến chương Liên hợp quốc và ghi nhận cụ thể tại Điều 287 Phần XV UNCLOS
1982. Các bên có thể cùng nhau thỏa thuận lựa chọn một thiết chế tài phán hoặc tuân
theo thủ tục bắt buộc đưa tranh chấp ra tòa án có thẩm quyền khi các bên không đạt
tới một cách giải quyết (Điều 281 Mục 1 và Điều 286 Mục 2 Phần XV). Các thiết chế
tài phán được quy định có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp biển, đảo bao gồm:
(i)Tòa án Công lý quốc tế
(ii)Tòa án quốc tế về Luật biển
(iii)Tòa trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII Công ước
(iv)Tòa trọng tài được thành lập theo Phụ lục VIII Công ước (Tòa trọng tài đặc
biệt)
9
Ngoài ra, một thiết chế tài phán khác tuy không nằm trong khuôn khổ của
UNCLOS, song với bề dày lịch sử và danh tiếng của mình, Tòa trọng tài thường trực
Lahay (PCA) đã có những đóng góp quan trọng vào việc phát triển của Luật biển
quốc tế hiện đại.
1.3.1. Tòa án Công lý quốc tế
Tòa án Công lý quốc tế (Inernational Court of Justice - ICJ) là cơ quan tư
pháp chính của Liên hợp quốc, hoạt động theo Hiến chương Liên hợp quốc 1945 với
tiền thân là Pháp viện thường trực Quốc tế, được ra đời và chính thức đi vào hoạt
động ngày 6 tháng 2 năm 1946. Các nước thành viên Liên hợp quốc ipso facto
(đương nhiên) là thành viên quy chế của Tòa, bên cạnh đó các nước không phải là
thành viên Liên hợp quốc cũng có thể trở thành thành viên của Quy chế này. Tại trụ
sở chính ở Lahaye, Tòa đã tiến hành các thủ tục tranh tụng giữa các bên và thủ tục
nghị án.
ICJ bao gồm 15 thẩm phán được Hội đồng Bảo an và Đại hội đồng bổ nhiệm
dựa trên danh sách được Tòa Trọng tài Thường trực tiến cử. Nhiệm kỳ của thẩm phán
là 9 năm và không hạn chế việc tái đắc cử. Tuy nhiên, một quy tắc quan trọng về việc
bổ nhiệm là phải đảm bảo không có hai thẩm phán cùng một quốc tịch. Cứ sau 3 năm,
một phần ba số thẩm phán của Tòa sẽ được bổ nhiệm lại. Năm nước thành viên
thường trực của Hội đồng Bảo an sẽ thường xuyên có đại diện của mình trong Tòa.
*Về thẩm quyền: Thẩm quyền của ICJ được xác định trong Quy chế Tòa – một
bộ phận hợp thành của Hiến chương Liên hợp quốc và Bộ Quy tắc tố tụng năm 1978.
Theo đó, ICJ có hai thẩm quyền chính là giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia
thành viên và đưa ra kết luận tư vấn theo yêu cầu của Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an
và các tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc, quyền này không dành cho các quốc
gia thành viên.
Chỉ có các quốc gia thành viên Liên hợp Quốc mới được đưa vụ việc ra giải
quyết tại ICJ. Đây là điểm khác biệt đối với các thiết chế tài phán khác như ITLOS
hay PCA khi mở rộng quyền cho các đối tượng như quốc gia không phải là thành
10
viên, thể nhân, pháp nhân. Trong mọi trường hợp xảy ra tranh chấp, thẩm quyền của
Tòa được xác định trên cơ sở ý chí của chủ thể tranh chấp và thẩm quyền này là độc
lập, dựa trên sự tự nguyện của các bên hữu quan mà không bị tác động bởi bất kỳ sức
ép chính trị, kinh tế nào. Cơ sở thẩm quyền giải quyết tranh chấp đó của Tòa là sự
thỏa thuận rõ ràng đồng ý thẩm quyền của Tòa. Thẩm quyền của Tòa có thể thiết lập
theo ba phương thức như:
(i)Quốc gia chấp nhận thẩm quyền của Tòa theo từng vụ việc;
(ii)Chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa trong các điều ước quốc tế;
(iii)Tuyên bố đơn phương chấp nhận thẩm quyền của Tòa.
Trong việc giải quyết tranh chấp biển, đảo giữa các quốc gia, theo quy định
của Hiến chương Liên hợp quốc cũng như Quy chế ICJ thì ICJ có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp liên quan tới vấn đề chủ quyền biển đảo.
*Về thực tiễn hoạt động: Từ năm 1946 cho tới nay, ICJ đã trở thành thiết chế
tài phán uy tín nhất trong việc giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia. Tính đến nay,
Tòa đã thụ lý 93 vụ việc xét xử về nội dung và 23 vụ việc xin kết luận tư vấn [19]. Xu
hướng cho thấy ngày càng có các nước đang phát triển và các quốc gia châu Á bảo vệ
quyền lợi của mình thông qua việc lựa chọn ICJ là thiết chế tài phán để giải quyết
tranh chấp của họ.
Các tranh chấp về biển đảo chiếm tỷ trọng đáng kể trong số các vụ việc được
ICJ giải quyết (31/93 vụ việc) [19]. Xét trong lĩnh vực này, ICJ đã có những đóng
góp tích cực và không thể phủ nhận vai trò quan trọng của thiết chế này tới sự hoàn
thiện và phát triển của Luật biển quốc tế hiện đại. Ví dụ như: Phán quyết của ICJ
trong vụ eo biển Corfu năm 1949 đã góp phần làm sáng tỏ khái niệm pháp lý “eo biển
quốc tế” và nguyên tắc qua lại không gây hại qua eo biển quốc tế, góp phần giải thích
và thúc đẩy pháp điển hóa Luật biển quốc tế. Hay như phán quyết của ICJ năm 1951
trong vụ Ngư trường Na Uy đã công nhận việc phân định của Na Uy dựa trên kỹ
thuật đường cơ sở thẳng “không trái với luật pháp quốc tế”. Điều này trở thành tiêu
11
chuẩn mới của Luật biển quốc tế hiện đại, được luật hóa tại Điều 4 Công ước Luật
biển 1958 và Điều 7 Công ước Luật biển 1982…
1.3.2. Tòa án Quốc tế về Luật biển
Tòa án quốc tế về luật biển (International Tribunal for the Law of the Sea ITLOS) có trụ sở tại Hamburg, được thành lập và hoạt động theo các quy định của
Công ước Luật biển 1982 và Quy chế của tòa quy định tại Phụ lục VI UNCLOS. Tòa
có 21 thẩm phán, đại diện cho các nhóm địa lý, các hệ thống pháp lý chủ yếu của Thế
giới, được tuyển chọn trong số các nhân vật nổi tiếng về công bằng và liêm khiết, có
năng lực rõ ràng trong lĩnh vực luật biển (Khoản 1 Điều 2 Quy chế Tòa án).
*Về thẩm quyền:Thẩm quyền của ITLOS được quy định tại Mục 5 Phần XI,
Phần XV của UNCLOS. Nhìn chung, cũng giống như ICJ, ITLOS có hai thẩm quyền
chính là xét xử và đưa ra ý kiến tư vấn, tuy nhiên, có những điểm đặc thù trong thẩm
quyền của ITLOS như sau:
(i)Chủ thể có quyền đưa vụ tranh chấp giải quyết tại ITLOS rộng hơn so với
ICJ.
Điều 20 Quy chế Tòa về Quyền được đưa vấn đề ra Tòa án quy định:
1. Tòaán được để ngỏ cho các quốc gia thành viên. 2. Tòa án được để
ngỏ cho các thực thể không phải là các quốc gia thành viên trong tất cả các
trường hợp đã được quy định rõ trong phần XI hay cho mọi tranh chấp được
đưa ra theo mọi thỏa thuận khác, giao cho Tòa án một thỏa quyền được tất cả
các bên trong vụ tranh chấp thỏa thuận.
Như vậy, quyền đưa vụ việc ra Tòa án gồm: Các quốc gia thành viên vàcác
quốc gia khác không phải là thành viên cũng như các chủ thể khác không phải là quốc
gia như thể nhân, pháp nhân, tổ chức quốc tế. Đây là điểm khác biệt so với ICJ khi
chỉ có quốc gia thành viên mới được đưa vụ việc ra giải quyết tại ICJ.
(ii)Thẩm quyền đưa ra các kết luận tư vấn thuộc về Viện giải quyết các tranh
chấp liên quan đến đáy biển theo yêu cầu của Đại hội đồng hay Hội đồng các cơ quan
12
quyền lực về những vấn đề pháp lý được đặt ra trong khuôn khổ hoạt động của họ
(Điều 191 UNCLOS 1982). Bên cạnh đó, ITLOS cũng có thể đưa ra các ý kiến tư vấn
về một vấn đề pháp lý trong trường hợp có một Điều ước quốc tế liên quan đến tôn
chỉ, mục đích của UNCLOS 1982 quy định cụ thể việc được đệ trình đơn lên Tòa án
để xin ý kiến tư vấn. Một điểm tương đồng với cơ chế ra ý kiến tư vấn của ICJ, đó là
các quốc gia không được trực tiếp xin ý kiến tư vấn của Tòa, việc xin ý kiến tư vấn
được thực hiện trung gian thông qua các cơ quan có thẩm quyền.
*Về thực tiễn hoạt động: Đến tháng 03 năm 2017, ITLOS đã thụ lý 25 vụ việc
và đưa ra ý kiến tư vấn đối với hai vụ việc số 17 và số 21 [22]. Trong đó bao gồm
những vụ việc liên quan tới: (i) Tranh chấp về phân định ranh giới biển giữa Gana và
Bờ biển Ngà (vụ việc số 23); giữa Bangladesh và Myanmar trong Vịnh Bengal (vụ
việc số 16); giữa Malaysia và Singapore liên quan đến eo biển Johor (vụ việc số 12);
(ii) Các tranh chấp khác liên quan tới việc giải thích và áp dụng Công ước nổi bật như
vụ Mox Plant tranh chấp về đặc quyền đánh cá trên quần đảo Falkland (vụ việc số 10)
[22].
Nhìn tổng thể, số lượng các vụ việc được ITLOS giải quyết ít hơn rất nhiều so
với ICJ. Hơn nữa, xét trên khía cạnh kinh nghiệm giải quyết các vụ việc liên quan tới
vấn đề phân định biển, ITLOS cũng còn rất hạn chế. Tuy nhiên, không thể phủ nhận
những đóng góp của ITLOS trong việc làm sáng tỏ và hoàn thiện hơn các quy định
của Luật biển quốc tế hiện đại.
1.3.3.Tòa trọng tài thành lập theo Phụ lục VII UNCLOS
Là thiết chế tài phán được thành lập trong khuôn khổ Công ước UNCLOS,Tòa
trọng tài thành lập theo Phụ lục VII UNCLOS (Tòa trọng tài Phụ lục VII) có thẩm
quyền giải quyết các vụ việc liên quan tới việc giải thích và áp dụng Công ước.
*Về điều kiện thụ lý vụ việc:Theo quy định của UNCLOS, điều kiện thụ lý vụ
việc của Tòa trọng tài Phụ lục VII rất đa dạng:
(i) Các bên cùng thỏa thuận đưa vụ việc ra giải quyết tại Tòa trọng tài thông
qua Thỏa thuận trọng tài; (ii) Cả hai quốc gia thành viên UNCLOS đều tuyên bố lựa
13
chọn Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp theo UNCLOS;(iii) Cả hai quốc
gia thành viên đều không chấp nhận cùng một thủ tục để giải quyết tranh chấp theo
khoản 4 Điều 287; (iv) Khi tuyên bố lựa chọn thiết chế tài phán tại khoản 1 Điều 287
hết hiệu lực thì cũng được xem là đã chấp nhận thủ tục trọng tài đã trù định ở phụ lục
VII theo khoản 5 Điều 287.
Cụ thể, khoản 1 Điều 287 quy định như sau:
1. Khi ký hay phê chuẩn Công ước hoặc tham gia Công ước, hay ở bất
kỳ thời điểm nào sau đó, một quốc gia được quyền tự do lựa chọn, hình thức
tuyên bố bằng văn bản, một hay nhiều biện pháp sau đây để giải quyết các
tranh chấp có liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước:
Tòa án Quốc tế về Luật biển được thành lập theo đúng Phụ lục VII; Tòa
án quốc tế;
Một tòa trọng tài được thành lập theo đúng Phụ lục VII;
Một tòa trọng tài đặc biệt được thành lập theo đúng Phụ lục VIII để giải
quyết một hay nhiều loại tranh chấp đã được quy định rõ trong đó [34].
Như vậy, Tòa trọng tài là cơ chế duy nhất mà một bên có thể đơn phương khởi
kiện, không cần sự chấp thuận của bên còn lại.
*Về chức năng, thẩm quyền của Tòa trọng tài Phụ lục VII: Tòa trọng tài sẽ
thực hiện các chức năng của mình theo đúng các điều khoản của UNCLOS 1982.
Điều này cho phép Tòa trọng tài có thẩm quyền giải quyết tất cả các tranh chấp liên
quan đến việc áp dụng và giải thích UNCLOS 1982. Hay nói cách khác, toàn bộ các
quy định của UNCLOS 1982 sẽ được Tòa áp dụng để giải quyết tranh chấp, đặc biệt
là các điều khoản được quy định tại Chương XV UNCLOS 1982.
*Về cơ cấu tổ chức của Tòa trọng tài: Theo quy định tại Phụ lục VI của
UNCLOS 1982, Tòa trọng tài gồm 5 thành viên, trong đó mỗi bên cử ra một thành
viên (có thể là công dân nước mình) trong số danh sách các Trọng tài viên đã được
các quốc gia đăng ký với Tổng thư ký Liên hợp quốc, trừ trường hợp các bên có thỏa
14
- Xem thêm -