Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án theo pháp luật việt nam...

Tài liệu Giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án theo pháp luật việt nam

.PDF
130
12
81

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ HƯỜNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG TẠI TÒA ÁN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ HƯỜNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG TẠI TÒA ÁN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Thị Hoài Thu HÀ NỘI - 2012 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các hình MỞ ĐẦU Chương 1: 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP 6 LAO ĐỘNG TẠI TÒA ÁN 1.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án 6 1.2. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án 18 1.3. Vai trò của việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án 31 Chương 2: 36 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG TẠI TÒA ÁN 2.1. Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp lao động 36 2.1.1. Thẩm quyền theo vụ việc 36 2.1.2. Thẩm quyền của tòa án theo các cấp 41 2.1.3. Thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ 43 2.2. Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án cấp sơ thẩm 46 2.2.1. Khởi kiện, thụ lý vụ án lao động 47 2.2.2. Chuẩn bị xét xử 53 2.2.3. Tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm 60 2.3. Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án cấp phúc thẩm 66 2.4. Thủ tục xét lại bản án, quyết định lao động đã có hiệu lực 72 pháp luật Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ 81 GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG TẠI TÒA ÁN 3.1. Nhận xét chung về thực trạng giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án 81 3.1.1. Tình hình thụ lý, giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án 81 3.1.2. Những ưu điểm và nhược điểm của việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án 85 3.1.3. Nguyên nhân giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án còn một số tồn tại 89 3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án 98 3.2.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án 98 3.2.2. Về hoàn thiện quy định pháp luật 100 3.2.3. Về tổ chức thực hiện 111 KẾT LUẬN 116 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 119 Danh môc c¸c b¶ng Sè hiÖu Tªn b¶ng Trang Số liệu thụ lý, giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án 83 b¶ng 3.1 theo thủ tục sơ thẩm từ năm 2005 - 2009 3.2 Số liệu thụ lý, giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án 83 theo thủ tục phúc thẩm từ năm 2005 - 2009 3.3 Số liệu thụ lý, giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án 84 theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm từ năm 2005 - 2009 3.4 Tổng hợp kết quả xét xử các vụ án lao động tại Tòa án từ 84 năm 2005 - 2009 Danh môc c¸c H×NH Sè hiÖu Tªn h×nh Trang Mô hình tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân khi xác định 87 h×nh 3.1 thẩm quyền giải quyết các tranh chấp lao động 3.2 Mô hình tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân được hoàn thiện 104 MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Trong cơ chế thị trƣờng sức lao động là hàng hóa đặc biệt quan trọng, đặc biệt vị thế yếu thƣờng thuộc về phía ngƣời lao động, để ngăn ngừa tình trạng lạm dụng quá đáng từ phía ngƣời sử dụng lao động, Luật lao động đã có những quy định để bảo vệ quyền và lợi ích của ngƣời lao động, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích của ngƣời sử dụng lao động. Một trong các quy định đó là các chế định về việc giải quyết các tranh chấp lao động tại Tòa án. Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án là nội dung cơ bản của pháp luật lao động, vì vậy Nhà nƣớc Việt Nam đã nhiều lần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Năm 2004 Bộ luật tố tụng dân sự đƣợc Quốc hội thông qua đã thay thế cho Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động đã đƣa ra một diện mạo mới đối với thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động. Năm 2002 Bộ luật lao động đƣợc sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất, đến năm 2006 Bộ luật lao động lại tiếp tục sửa đổi, bổ sung lần thứ hai trong đó đặc biệt sửa đổi toàn bộ Chƣơng về tranh chấp lao động. Năm 2010 Bộ luật Tố tụng dân sự đƣợc sửa đổi, bổ sung. Nhƣ vậy với sự phát triển, hoàn thiện của hệ thống pháp luật lao động việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án đã có nhiều thay đổi. Bên cạnh đó tình hình thực tiễn giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án trong thời gian gần đây cho thấy Tòa án là một trong những cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tranh chấp lao động tuy nhiên tuy các tranh chấp lao động xảy ra trong thực tế là nhiều, nhƣng số vụ việc đƣa đến tòa án thì rất hạn chế. Tình trạng này phát sinh do nhiều nguyên nhân nhƣ: thủ tục hòa giải tại cơ sở còn nhiều vƣớng mắc, sự hiểu biết pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp lao động của ngƣời lao động còn hạn chế, các tổ chức tƣ vấn 1 cho ngƣời lao động chƣa phát huy hiệu quả… hiệu quả giải quyết tranh chấp lao động còn một số mặt hạn chế, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của thực tế. Tỷ lệ các vụ án của tòa án cấp sơ thẩm phải cải sửa tƣơng đối cao, một số vụ án phải kéo dài, có vụ tới ba hoặc bốn năm do phải hủy để xét xử lại; quyền và lợi ích hợp pháp của các bên không đƣợc khôi phục kịp thời. Những hạn chế đó đã gây những tác động tiêu cực đến quan hệ lao động đặc biệt là trong cơ chế thị trƣờng hiện nay. Do vậy, nghiên cứu vấn đề "Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án theo pháp luật Việt Nam" là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn để hoàn thiện pháp luật phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế trong nƣớc và môi trƣờng kinh tế quốc tế. 2. Tình hình nghiên cứu Là một trong những vấn đề cơ bản của pháp luật lao động nói chung và pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động nói chung vấn đề này đã đƣợc các nhà khoa học, luật gia quan tâm nghiên cứu ở các mức độ khác nhau. Đã có những công trình, bài viết khoa học về giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án hoặc liên quan đến giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án đã đƣợc công bố nhƣ: Giáo trình Luật Lao động Việt Nam của Khoa luật, Đại học Xã hội và Nhân văn quốc gia, 2000; Giáo trình Luật lao động Việt Nam, của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, 2010; Thủ tục giải quyết các vụ án lao động theo Bộ luật Tố tụng dân sự, của Phạm Công Bảy, Nxb Chính trị quốc gia, 2006; Luận văn thạc sĩ Luật học: Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án nhân dân - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, do Vũ Thị Thu Huyền thực hiện năm 2002; Luận án tiến sĩ Luật học: Tài phán lao động theo quy định của pháp luật Việt Nam, do Lƣu Bình Nhƣỡng thực hiện năm 2002; các bài viết: Những điểm mới về tranh chấp lao động và giải quyết tranh chấp lao động theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật lao động năm 2006, của Nguyễn Thị Xuân Thu, Tạp chí Luật học, số 7/2007; Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án - 2 Một số bất cập và hướng hoàn thiện, của Lê Thị Hoài Thu; Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án nhân dân - từ pháp luật đến thực tiễn và một số kiến nghị, của Phạm Công Bảy, Tạp chí Luật học, số 9/2009... Tuy nhiên hệ thống pháp luật lao động từ năm 2002 đến nay đã có nhiều thay đổi, đặc biệt là việc ban hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2010 và Chƣơng về tranh chấp lao động của Bộ luật lao động đã đƣợc sửa đổi hoàn toàn năm 2006. Bên cạnh đó các bài viết và công trình nghiên cứu trên mới chỉ nghiên cứu việc giải quyết tranh chấp lao động nói chung hoặc nghiên cứu một trƣờng hợp tranh chấp lao động cụ thể chứ chƣa có công trình nào đề cập đến việc nghiên cứu sâu sắc, có hệ thống và toàn diện vấn đề giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án. Do đó, giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án vẫn là vấn đề cần nghiên cứu về lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Mục đích của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án, cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án theo quy định của pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng, từ đó chỉ ra những bất cập để đề xuất những kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án trên thực tế. Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án, cụ thể là: - Nghiên cứu khái quát chung về giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án. - Nghiên cứu thủ tục giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án theo quy định của pháp luật Việt Nam. - Nghiên cứu thực tiễn giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án ở Việt Nam hiện nay. 3 - Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiến giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án. 4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án dƣới góc độ của luật lao động đồng thời đề cập đến một số quy phạm của luật tố tụng dân sự nhằm hỗ trợ cho việc giải quyết mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. Luận văn nghiên cứu các quy phạm pháp luật và thực tiễn áp dụng giải quyết các tranh chấp lao động tại Tòa án trong giai đoạn từ năm 2005-2009. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng. Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, từ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về Nhà nƣớc và pháp luật, về quyền con ngƣời và quyền công dân trong xã hội, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học Việt Nam. Luận văn sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề tƣơng ứng, đó là các phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ: phƣơng pháp luận, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu…. 6. Những đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn Với mục đích nghiên cứu đã đề ra, luận văn đƣa ra những vấn đề mới sau đây: 4 - Nghiên cứu một cách có hệ thống về mặt lý luận và thực tiễn vận hành phƣơng thức giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án. - Luận văn chỉ ra những tồn tại của hệ thống các quy định và thực tiễn hoạt động giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án của Việt Nam trong thời gian qua. - Luận văn đƣa ra kiến nghị về một số biện pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, tăng cƣờng khâu tổ chức và hoạt động của giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án của nƣớc ta. Với những vấn đề nêu trên, tác giả của luận văn hy vọng đóng góp một phần nhỏ bé vào việc hoàn thiện hệ thống và tổ chức vận hành có hiệu quả các loại hình giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án nhằm đảm bảo quyền, lợi ích của các bên trong mối quan hệ pháp luật lao động, đảm bảo lợi ích Nhà nƣớc và xã hội, thực hiện tốt mục tiêu mà Đảng và Nhà nƣớc đã đề ra. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng: Chương 1: Khái quát chung về giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án. Chương 2: Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án. Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án. 5 Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG TẠI TÒA ÁN 1.1. KHÁI NIỆM GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG TẠI TÒA ÁN Trong nền kinh tế thị trƣờng với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế đã hình thành nhiều quan hệ lao động, các quan hệ lao động này ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp, đan xen lẫn nhau. Nội dung của quan hệ pháp luật lao động là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật lao động. Trong quan hệ pháp luật lao động, không có chủ thể nào chỉ có quyền hoặc chỉ có nghĩa vụ, quyền của chủ thể này bao giờ cũng tƣơng ứng với nghĩa vụ của chủ thể phía bên kia và ngƣợc lại tạo thành mối liên hệ pháp lý thống nhất trong một quan hệ pháp luật lao động. Ngoài ra, các bên còn phải thực hiện và tôn trọng các quyền, nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định để đảm bảo trật tự, lợi ích xã hội, bảo đảm môi trƣờng lao động và môi trƣờng sống. Trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ lao động, quan hệ giữa ngƣời lao động với ngƣời sử dụng lao động không phải lúc nào cũng diễn biến một cách ổn định bình thƣờng theo đúng những thỏa thuận. Giữa họ có thể sẽ xuất hiện những bất đồng về quyền và lợi ích trong lao động. Có những bất đồng đƣợc các bên thỏa thuận và giải quyết đƣợc song cũng có thể có những bất đồng mà sự thƣơng lƣợng của hai bên không thể giải quyết đƣợc. Những bất đồng, xung đột nếu đƣợc giải quyết tốt thì sẽ không trở thành mâu thuẫn, ngƣợc lại, nếu không đƣợc giải quyết thì dễ trở thành những mâu thuẫn gay gắt. Quá trình giải quyết tranh chấp lao động có thể trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, trong đó giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án là giai đoạn có tầm quan trọng đặc biệt. Tính đặc biệt đó thể hiện ở một số khía cạnh sau đây: 6 Thứ nhất: Việc giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án đƣợc thực hiện bởi tòa án với tƣ cách là cơ quan tài phán mang tính quyền lực nhà nƣớc và đƣợc tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ. Tranh chấp lao động có thể đƣợc giải quyết bởi nhiều cơ quan, tổ chức, các nhân khác nhau nhƣ: Hội đồng hòa giải lao động cơ sở, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Hội đồng trọng tài lao động hay Tòa án nhân dân. Tuy nhiên khác với Hội đồng hòa giải lao động cơ sở đƣợc thành lập ở các đơn vị sử dụng lao động có thành lập công đoàn với sự tham gia của đại diện tập thể lao động và ngƣời sử dụng lao động tại đơn vị sử dụng lao động, hay Hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh là cơ cấu hỗn hợp gồm đại diện các bên trong quan hệ lao động, đại diện cơ quan nhà nƣớc...thì Tòa án nhân dân là cơ quan tƣ pháp, nhân danh Nhà nƣớc giải quyết các tranh chấp nói chung và tranh chấp lao động nói riêng. Về tổ chức, trọng tài lao động đƣợc tổ chức đơn giản và gọn nhẹ gồm: chủ tịch, thƣ ký và các trọng tài viên. Sự gọn nhẹ trong tổ chức là điều kiện để thực hiện sự đơn giản, linh hoạt về thủ tục, sự giảm thiểu về thời gian, kinh phí cho các bên. Còn tòa án là cơ quan tƣ pháp, đƣợc tổ chức chặt chẽ theo ngành dọc theo hệ thống tòa án cấp huyện đến tòa án cấp tỉnh, thành phố và đến tòa án cấp tối cao, việc giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án phải tuân theo trình tự, thủ tục chặt chẽ, việc vi phạm thủ tục tố tụng sẽ dẫn đến bản án, quyết định của tòa án có thể hủy. Ngoài ra đƣơng sự có thể kháng cáo, yêu cầu tòa án xét xử lại, nếu thấy phán quyết của tòa án không thỏa đáng. Với cơ chế nhiều cấp xét xử, pháp luật cho phép đƣơng sự thực hiện quyền kháng cáo đối với những bản án, quyết định chƣa có hiệu lực pháp luật của cấp xét xử sơ thẩm. Ngay cả khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, đƣơng sự vẫn có quyền khiếu nại, ngƣời có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của tòa án theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Xét ở khía cạnh tích cực, trình tự xét xử nhiều cấp cho phép xem xét lại phán quyết của tòa án một cách chắc chắn trƣớc khi cho thi hành. Về lý thuyết, tòa 7 án là hình thức tài phán đáng tin cậy nhất; sự tin cậy của tài phán tòa án dựa trên tính khách quan và mức độ chính xác của hoạt động tố tụng. Sử dụng tòa án vào việc quyết định về các tranh chấp lao động và các cuộc đình công là một việc đƣợc sử dụng từ lâu. Tòa án đƣợc xác định là cơ quan xét xử của Nhà nƣớc. Quá trình xét xử của tòa án kết thúc bằng việc ra các bản án, quyết định về vụ tranh chấp hoặc về một vụ việc nào đó thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội nhằm góp phần bảo vệ pháp chế và lẽ phải. Ở một số nƣớc trên thế giới, tòa án lao động thuộc hệ thống các cơ quan tƣ pháp nhƣng không hẳn đƣợc đặt trong hệ thống dọc của tòa án thƣờng mà đƣợc tổ chức nhƣ là một loại tòa án đặc biệt ví dụ nhƣ: Vƣơng quốc Anh, Cộng hòa liên bang Đức, Thụy Điển, Cộng hòa Pháp, Thái Lan... Tuy nhiên, quyền hậu kiểm tối cao về mặt pháp lý đối với các tòa án lao động vẫn thuộc tòa án tối cao. Tại Cộng hòa Liên bang Đức, Tòa lao động là một hệ thống tòa án độc lập, có thẩm quyền giải quyết cả tranh chấp lao động các nhân và tranh chấp lao động tập thể. Tòa án lao động gồm 03 cấp: Tòa án lao động (cấp sơ thẩm), Tòa án lao động bang (cấp phúc thẩm), Tòa án lao động liên bang (cấp Giám độc thẩm, tái thẩm). Thẩm phán của Hội đồng xét xử tại Tòa án lao động (cấp sơ thẩm) và Tòa án lao động bang gồm 01 Thẩm phán chuyên nghiệp và 02 Thẩm phán danh dự (Thẩm phán không chuyên); tại Tòa án liên bang gồm 03 Thẩm phán chuyên nghiệp và 03 Thẩm phán danh dự, trong đó 01 Thẩm phán danh dự đại diện cho giới chủ và 01 đại diện cho giới thợ. Nhìn chung mô hình tổ chức của tòa án tƣ pháp ở các nƣớc theo hệ thống luật châu Âu lục địa thƣờng rất đa dạng. Hệ thống tòa án ở các nƣớc này đều có các cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và cấp tối cao (Tòa phá án). Tuy nhiên cũng có một số điểm khác. Ví dụ: tùy ở mỗi nƣớc có nhiều dạng tòa sơ thẩm theo tính chất vụ việc và tầm quan trọng của tranh chấp mà có thể thành lập hoặc không thành lập tòa dân sự đặc biệt (tòa án thƣơng mại, tòa án các vấn đề xã hội). 8 Khiếu nại phát sinh từ tranh chấp cá nhân về việc làm và pháp luật lao động (ví dụ sự tồn tại của điều khoản hoặc chấm dứt hợp đồng lao động) đƣợc xét xử bởi tòa án lao động chuyên ngành tại Ba Lan, Hungary và Slovenia. Hầu hết các chi phí thủ tục tòa án đó lao động đƣợc trả bởi nhà nƣớc, ngoại trừ trong trƣờng hợp một số nơi sử dụng lao động phải bảo đảm một phần chi phí, ví dụ Slovakia là một ngoại lệ tranh chấp lao động cá nhân đƣợc coi là vụ án dân sự và đƣợc xử lý bởi các tòa án dân sự. Trong khu vực Asian, những nƣớc có nền tài phán lao động phát triển phải kể đến là Philippin, Thái Lan, Malaixia, Indonesia, Singapore. Tại Thái Lan, tòa án lao động ở vƣơng quốc Thái Lan là loại tòa án đặc biệt và không nằm trong hệ thống tòa án thƣờng, độc lập với tòa án tối cao. Cơ quan chủ quản của tòa án lao động Thái Lan là Bộ Tƣ pháp Vƣơng quốc Thái Lan. Về mặt cơ cấu, theo luật tổ chức và hoạt động của tòa án lao động thì tòa án lao động Thái Lan đƣợc tổ chức theo ba cấp: tòa án lao động trung ƣơng, tòa án lao động vùng và tòa án lao động tỉnh. Tòa án lao động trung ƣơng đặt tại thủ đô Băngkok, có thẩm quyền bao trùm trong cả nƣớc và đồng thời có thẩm quyền trong toàn bộ thủ phủ Bangkok và một số địa bàn lân cận nhƣ: Samut Prakarn, Samut Sakhon, Nakhon Pathom, Nonthaburi và Pathum Thani. Việc thành lập tòa án lao động vùng và tòa án lao động tỉnh sẽ đƣợc quy định trong một đạo luật riêng. Hiện nay, tòa án lao động trung ƣơng có mƣời một chi nhánh đặt tại một số tỉnh là địa bàn trọng yếu về sản xuất công nghiệp, dịch vụ, có sử dụng nhiều nhân công và thƣờng xảy ra tranh chấp lao động. Giống với tòa án lao động của Philippin, tòa án lao động Thái Lan cũng thành lập bộ phận pháp chế để giúp đỡ ngƣời khởi kiện hoàn thiện hồ sơ tại tòa án. Tại Philippin, theo Bộ luật lao động Cộng hòa Philippin 1974, hệ thống tài phán lao động gồm hai loại hình bắt buộc và tự nguyện. Loại hình tự nguyện bao gồm các cơ cấu trọng tài tự nguyện do các bên lựa chọn. Loại hình bắt 9 buộc có ủy ban quốc gia về quan hệ lao động (NLRC, hay còn gọi là tòa án lao động - LC). Tòa án lao động Philippin có 14 chi nhánh đƣợc đặt ở 14 vùng mà không đặt theo tỉnh, trong đó bao gồm cả chi nhánh vùng thủ đô (Manila Metropolis). Tòa án lao động của Cộng hòa Philippin thực chất là cơ quan tòa án trọng tài bắt buộc đƣợc tổ chức chặt chẽ từ trung ƣơng xuống địa phƣơng có chức năng giải quyết các tranh chấp lao động (mà chủ yếu là các khiếu nại về tiền - money claims) và ra quyết định về các cuộc đình công. Chính vì có cơ chế giải quyết đơn giản và dễ vận dụng nêu trên nên việc thụ lý giải quyết các tranh chấp lao động ở Philippin thƣờng đạt đƣợc hiệu quả cao. Quá trình tố tụng đƣợc tiến hành từ khi thụ lý đến khi thi hành án đƣợc khép kín theo quy tắc tố tụng thống nhất. Giúp việc cho các thẩm phán, các phân ban và toàn thể ủy ban là các nhân viên thuộc các bộ phận pháp lý về thụ lý, tƣ vấn pháp luật, phòng máy tính, phòng thi hành án. Bên cạnh đó một số nƣớc vẫn sử dụng mô hình tòa lao động nằm trong hệ thống tòa án thƣờng, ví dụ: Trung Quốc, Việt Nam… Tại Trung Quốc, các hình thức sử dụng lao động đƣợc thực hiện thông qua hợp đồng lao động. Ngƣời lao động trên cơ sở hợp đồng lao động có quyền và nghĩa vụ riêng, các tranh chấp lao động ở doanh nghiệp đƣợc giải quyết thông qua Ủy ban hòa giải, thành phần gồm đại diện của công nhân, ngƣời lao động, ban quản lý doanh nghiệp và đại diện công nhân. Ở huyện, thành phố thuộc tỉnh, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng thành lập Ủy ban trọng tài để giải quyết tranh chấp lao động địa phƣơng. Các tranh chấp lao động trƣớc hết đƣợc giải quyết bởi Ủy ban hòa giải. Trƣờng hợp một trong hai bên không muốn Ủy ban hòa giải giải quyết, hoặc việc thƣơng lƣợng giữa các bên ở Ủy ban hòa giải không thành thì có thể yêu cầu Ủy ban trọng tài địa phƣơng xem xét. Trƣờng hợp đạt đƣợc thỏa hiệp, Ủy ban trọng tài lập biên bản hòa giải, nếu một trong các bên không tuân thủ quyết định của Ủy ban trọng tài thì tranh chấp sẽ đƣợc chuyển sang cho Tòa án giải quyết. 10 Hệ thống tòa án Trung Quốc gồm Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân địa phƣơng, các tòa án quân sự và các tòa án đặc biệt khác. Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất, giám đốc việc xét xử của các tòa án địa phƣơng và các tòa án đặc biệt khác. Tòa lao động thuộc Tòa án nhân dân trực tiếp giải quyết các vụ án lao động. Tại Việt Nam, từ chỗ mới chỉ tồn tại trong các quy định của Sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947, việc giải quyết các tranh chấp lao động đã đƣợc ghép vào thành một bộ phận của tố tụng dân sự. Trải qua 10 năm (từ 1985 đến 1994) tức là từ khi Hội đồng Bộ trƣởng ra Quyết định số 10/HĐBT chuyển một số tranh chấp lao động sang Tòa án nhân dân giải quyết đến trƣớc khi thông qua Bộ luật Lao động, ở Việt Nam, việc giải quyết các tranh chấp lao động tại Tòa án nhân dân đã thu đƣợc những kết quả đáng khích lệ. Với hàng ngàn vụ tranh chấp lao động đƣợc giải quyết tại Tòa án nhân dân, ngành tòa án thực sự có những kinh nghiệm không nhỏ trong lĩnh vực này. Việc tổng kết kinh nghiệm hàng năm đã đƣợc đề cập trong các báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân, trong đó có đánh giá cả những mặt ƣu điểm và những tồn tại cần uốn nắn, sửa chữa. Đó không chỉ là những kinh nghiệm quý báu cho ngành tòa án về công tác xét xử mà còn là những kinh nghiệm để xây dựng các quy định về tố tụng lao động tại Tòa án nhân dân, một hình thức tố tụng độc lập với tố tụng dân sự, một hình thức tố tụng mà trƣớc đây tố tụng lao động chỉ là một bộ phận không chính thức. Hệ thống Tòa án nhân dân đƣợc phân chia theo địa giới hành chính lãnh thổ tƣơng ứng với ba cấp thẩm quyền: Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân tối cao. Tòa lao động thuộc Tòa án nhân dân trực tiếp giải quyết các vụ án lao động. Cũng nhƣ tòa hình sự, dân sự… Tòa lao động là một tòa chuyên trách đƣợc tổ chức trong hệ thống Tòa án nhân dân. Hệ thống Tòa lao động gồm: Tòa lao động thuộc Tòa án nhân dân tối cao, Tòa lao động thuộc Tòa án nhân dân cấp tỉnh; các Thẩm phán 11 chuyên trách thuộc Tòa án nhân dân cấp huyện. Ngày 01/7/1996, Tòa lao động đƣợc thành lập trong hệ thống Tòa án nhân dân với tƣ cách là một tòa chuyên trách, có phân tòa từ cấp tỉnh trở lên. Theo mô hình hiện tại ở Việt Nam, Tòa án nhân dân cấp huyện không thành lập Tòa lao động nhƣng có các Thẩm phán chuyên trách giải quyết sơ thẩm các tranh chấp lao động. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có Tòa lao động giải quyết sơ thẩm các vụ việc lao động theo thẩm quyền và phúc thẩm các vụ án lao động do Tòa án nhân dân cấp huyện xét xử sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị; Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh giám đốc thẩm, tái thẩm quyết định, bản án lao động Tòa án nhân dân cấp huyện xét xử sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật. Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao giải quyết phúc thẩm các vụ án lao động Tòa án nhân dân cấp tỉnh xét xử sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị; Tòa lao động Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm, tái thẩm bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện và của Tòa lao động Tòa án nhân dân cấp tỉnh, bản án phúc thẩm của Tòa lao động Tòa án nhân dân cấp tỉnh, quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm tất cả các bản án, quyết định của Tòa án các cấp. Hiện nay, cùng với việc quy định chức năng giải quyết các tranh chấp lao động, các cuộc đình công, tòa án còn đƣợc cải tiến về tổ chức, hoạt động. Việc thành lập các tòa lao động ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng và tòa lao động thuộc Tòa án nhân dân tối cao với tƣ cách một phân tòa độc lập đã thể hiện một bƣớc đổi mới trong hoạt động cải cách nền tƣ pháp theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 15/6/2004 Quốc hội thông qua Bộ luật Tố tụng dân sự, có hiệu lực ngày 01/01/2005; ngày 29/3/2011 Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, có hiệu lực ngày 01/01/2012. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, tòa án giải quyết các vụ án lao động theo thủ 12 tục chung quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Sau nhiều năm thực hiện việc xét xử các vụ án lao động và giải quyết các cuộc đình công tại tòa án cho thấy những đóng góp quan trọng của tòa án đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức khi tham gia quan hệ lao động, góp phần ổn định và làm lành mạnh quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trƣờng, thúc đẩy sản xuất, ổn định đời sống xã hội, giữ gìn trật tự quản lý trong lĩnh vực lao động - xã hội. Thực tiễn xét xử các vụ án lao động những năm qua đã đem lại cho ngành tòa án nhiều kinh nghiệm bổ ích, bổ sung vào lý luận khoa học về xét xử đồng thời cung cấp những cơ sở thực tiễn cho quá trình hoàn thiện pháp luật lao động nói chung và pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động nói riêng. Thứ hai: Giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án là hoạt động giải quyết cuối cùng sau khi tranh chấp đã đƣợc giải quyết ở các giai đoạn khác mà không đạt kết quả (trừ một số trƣờng hợp nhất định). Tranh chấp lao động có thể đƣợc giải quyết bằng nhiều phƣơng thức khác nhau nhƣ: thƣơng lƣợng, hòa giải, trọng tài và tòa án. Mỗi biện pháp có những đặc trƣng, ƣu điểm, hạn chế riêng. Về nguyên tắc, giải quyết tranh chấp lao động thông qua thƣơng lƣợng đƣợc coi là bƣớc đầu tiên trƣớc khi các bên lựa chọn hoặc phải tham gia vào một phƣơng thức mới để giải quyết tranh chấp lao động. Khi hai bên không thƣơng lƣợng đƣợc về việc giải quyết vụ án có thể lựa chọn ngƣời thứ ba trung lập hòa giải tranh chấp. Theo quy định của Bộ luật Lao động Việt Nam thì ngƣời hòa giải có quyền đứng ra giải quyết tranh chấp lao động theo thủ tục hòa giải độc lập gồm: Hội đồng hòa giải lao động cơ sở và Hòa giải viên lao động do cơ quan lao động cấp huyện cử ra. Tuy nhiên, có trƣờng hợp hòa giải không thành công và hòa giải chỉ là thủ tục cần thiết để một trong các bên hoặc cả hai bên có thể sớm đƣa vụ việc ra trƣớc cơ quan tài phán để giải quyết vụ tranh chấp lao động đó. Việc giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án đƣợc tiến hành khi các biện pháp có tính chất mềm dẻo, ôn hòa và linh hoạt hơn nhƣ thỏa thuận, 13 thƣơng lƣợng, trọng tài ở các giai đoạn trƣớc đó đã đƣợc sử dụng nhƣng không đạt kết quả. Đối với đa số các tranh chấp lao động thì trƣớc khi khởi kiện ra tòa án thủ tục thƣơng lƣợng, hòa giải hay trọng tài là điều kiện cần thiết để thụ lý vụ án lao động tại tòa án. Chỉ khi không đạt đƣợc kết quả ở các giai đoạn này, tranh chấp lao động mới đƣợc đƣa ra giải quyết ở tòa án. Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp đặc biệt, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự nhanh chóng nhằm tiếp tục quan hệ lao động, các bên chủ thể có thể khởi kiện thẳng ra tòa án yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động dù chƣa qua thủ tục thƣơng lƣợng, hòa giải. Tại Việt Nam, từ năm 1945 đến cuối những năm 1980 các phƣơng thức giải quyết tranh chấp lao động nhƣ thƣơng lƣợng, hòa giải, trọng tài hầu nhƣ bị xem nhẹ, việc giải quyết tranh chấp lao động bằng con đƣờng hành chính và sử dụng tòa án đƣợc coi trọng hơn cả. Sở dĩ có tình trạng này là do thời kỳ đó phát triển hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Việc thƣơng lƣợng, hòa giải giải quyết tranh chấp lao động giữa nhà nƣớc và công nhân, viên chức nhà nƣớc đƣợc coi là vấn đề không thể tồn tại vì nhà nƣớc là ngƣời có quyền tuyển chọn, sử dụng, đảm bảo quyền lợi của công dân. Nhà nƣớc sẽ can thiệp vào các vụ việc do công nhân, viên chức khiếu nại, tố cáo để đảm bảo các quyền lợi cho họ chứ không thể là một bên tranh chấp đối với ngƣời lao động. Điều này đƣợc chứng minh bằng việc đề cao nguyên tắc thỏa thuận để giải quyết tranh chấp lao động giữa ngƣời lao động Việt Nam làm việc trong các xí nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam và tranh chấp lao động giữa ngƣời lao động làm việc theo hợp đồng lao động với các đơn vị sử dụng lao động trong nƣớc. Nhìn chung, quy định về việc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân cũng nhƣ tranh chấp lao động tập thể giai đoạn từ 1945 đến trƣớc khi có Bộ luật Lao động năm 1994 thì các phƣơng thức giải quyết tranh chấp lao động nhƣ thƣơng lƣợng, hòa giải, trọng tài rất hạn chế. Việc giải quyết tranh chấp 14 lao động thông qua phƣơng thức giải quyết khiếu nại, tố cáo và cuối cùng là tòa án nhân dân vẫn là chủ yếu. Tuy nhiên, từ khi có Pháp lệnh Hợp đồng lao động năm 1990 thì việc giải quyết tranh chấp lao động quy định trƣớc hết phải thông qua thƣơng lƣợng. Bộ luật Lao động đƣợc ban hành và sửa đổi, bổ sung quy định các phƣơng thức để giải quyết tranh chấp lao động đó là thƣợng lƣợng, hòa giải, trọng tài và tòa án, theo đó tranh chấp lao động đƣợc giải quyết tại tòa án khi các biện pháp khác là thƣợng lƣợng, hòa giải, trọng tài trƣớc đó không đạt kết quả. Thứ ba: Các phán quyết của tòa án về vụ án tranh chấp lao động đƣợc đảm bảo thi hành bằng các biện pháp cƣỡng chế nhà nƣớc thông qua cơ quan thi hành án. Mục đích hàng đầu của đƣơng sự khi khởi kiện là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Chính vì vậy, sự bảo đảm thi hành phán quyết của tòa án bằng sức mạnh cƣỡng chế nhà nƣớc đƣợc coi là một ƣu điểm, tạo ra sự khác biệt trong cơ chế thi hành phán quyết của các loại cơ quan tài phán. Biên bản hòa giải thành khi hòa giải tại Hội đồng hòa giải lao động cơ sở hay Hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh không đƣợc đảm bảo bằng các biện pháp cƣỡng chế nhà nƣớc mà do các bên đƣơng sự tự nguyện thực hiện chứ không đƣợc đảm bảo bằng biện pháp cƣỡng chế Nhà nƣớc. Nếu các bên không thực hiện thì bên kia không có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án ra quyết định cƣỡng chế thực hiện bởi đây không phải là cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự. Các bên không không thể yêu cầu tòa án giải quyết lại vụ tranh chấp về nội dung mà chỉ có thể yêu cầu tòa án xem xét lại vấn đề thủ tục để công nhận hay hủy bỏ quyết định trọng tài. Chính điều này làm cho quyết định trọng tài khó đƣợc thực hiện triệt để trên thực tế nếu thiếu cơ chế phối hợp giữa trọng tài lao động và tòa án nhân dân cũng nhƣ hệ thống cơ quan thi hành án. Nhƣng đối với các bản án, quyết định của tòa án thì các bên có nghĩa vụ phải thi hành, nếu các 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan