MỤC LỤC
Trang
I.
Việc công ty V tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động với 13 thủy thủ đang
bị mất tích là trái pháp luật....................................................................................2
II.
Thời điểm kết thúc hợp đồng lao động với 13 người bị mất tích là ngày
Quyết định tuyên bố đã chết đối với 13 người lao động của Tòa án có hiệu lực
pháp luật, vì:..........................................................................................................4
1. Nguyên nhân chấm dứt hợp đồng lao động giữa 13 người lao động bị mất
tích và người sử dụng lao động là người lao động bị Tòa án tuyên bố đã chết. 5
2. Thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động với 13 thuyền viên mất tích là ngày
Quyết định tuyên bố đã chết đối với 13 người lao động này của Tòa án có hiệu
lực pháp luật.......................................................................................................7
III.
Giải quyết quyền lợi của 13 người lao động bị mất tích.............................9
1. Trường hợp 13 người lao động bị Tòa án tuyên bố chết sau một năm từ khi
chấm dứt tai nạn...............................................................................................10
2. Trường hợp 13 người lao động mất tích quay trở về...................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................15
1
Đề bài:
Ngày 16 tháng 11 năm 2010 tầu TP của Công ty V đi từ Hải Phòng vào
thành phố Hồ Chí Minh thì bị đắm. Thủy thủ đoàn trên tầu TP có tất cả 30 người
đều là NLĐ có ký hợp đồng lao động với Công ty V. Công ty đã tổ chức tìm
kiếm, cứu nạn cho đến ngày 25 tháng 12 năm 2010. Trong số 30 thủy thủ của
tàu TP, ®· cứu sống được 15 người, 2 người đã chết và đã tìm thấy thi thể, còn
lại 13 người không có tin tức gì. Ngày 10 tháng 3 năm 2011 Công ty V gửi đến
thân nhân của 13 người thủy thủ đang bị mất tích “quyết định tạm hoãn thực
hiện hợp đồng lao động”, và yêu cầu thân nhân của 13 thủy thủ chưa có tin tức
ký vào quyết định tạm hoãn thì công ty sẽ làm thủ tục ứng trước tiền bảo hiểm
của Bảo Việt và PJICO. Xem bản Hợp đồng lao động của các thủy thủ kí với
Công ty V thì thấy trên hợp đồng lao động không ghi cụ thể số tiền lương mà chỉ
ghi là: “lương theo thỏa thuận”. Sổ BHXH ghi tiền lương cơ bản để đóng bảo
hiểm xã hội là 2.000.000đ, trong bảng lương ngang tháng 10/2011 của các thủy
thủ đoàn thì tính trung bình số tiền mỗi người thủy thủ nhận mỗi tháng trong
thực tế là 20.000.000đ. Biên bản điều tra vụ tai nạn của cảng vụ Hải Phòng ghi:
“nguyên nhân đắm tầu là do sự cố bất khả kháng”.
Câu hỏi:
a. Công ty V tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động như vậy là đúng hay sai?
b.Thời điểm kết thúc hợp đồng lao động với 13 người bị mất tích là thời điểm
nào? Tại sao?
c. Quyền lợi của 13 người lao động bị mất tÝch nªu trªn được giải quyết như thế
nào?
2
BÀI LÀM
I. Việc công ty V tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động với 13 thủy thủ
đang bị mất tích là trái pháp luật
Theo Điều 35 Bộ luâ ̣t lao đô ̣ng 1994 sửa đổi, bổ sung thì: Hợp đồng lao
động được tạm hoãn thực hiện trong những trường hợp sau đây:
- Người lao động đi làm nghĩa vụ quân sự hoặc các nghĩa vụ công dân khác
do pháp luật quy định;
- Người lao động bị tạm giữ, tạm giam;
- Các trường hợp khác do hai bên thoả thuận
Bộ luật lao động 2012 đã bổ sung thêm các trường hợp tạm hoãn hợp
đồng lao động, cụ thể là:
- Người lao động phải chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào
trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.
- Lao động nữ mang thai theo quy định tại Điều 156 của Bộ luật lao động
2012.
Theo tình huống đưa ra, có thể thấy việc Công ty V tạm hoãn thực hiện
hợp đồng lao động với 13 thủy thủ bị mất tích không thuộc trường hợp nào theo
quy định của pháp luật. Lưu ý, trong trường hợp tạm hoãn thực hiện hợp đồng
lao động do thỏa thuận của hai bên phải là sự thống nhất ý chí của hai bên tham
gia quan hệ lao động cá nhân tức là người lao động và người sử dụng lao động.
Trong trường hợp này, thân nhân của 13 người lao động bị mất tích không thể tự
thỏa thuận với người sử dụng lao động về việc tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao
động của người lao động. Như vậy, việc ngày 10 tháng 3 năm 2011 Công ty V
gửi đến thân nhân của 13 người thủy thủ đang bị mất tích “quyết định tạm hoãn
thực hiện hợp đồng lao động”, và yêu cầu thân nhân của 13 thủy thủ chưa có tin
tức ký vào quyết định tạm hoãn là không phù hợp với các quy định pháp luật.
3
Có thể bàn thêm: việc không thể thực hiện công việc theo hợp đồng lao
động của 13 thủy thủ kể trên không thuộc trường hợp ngừng việc theo quy định
tại Điều 98 Bộ luật lao động 2012 hay Điều 62 Bộ luật lao động 1994 sửa đổi,
bổ sung. Tuy pháp luật không có quy định cụ thể về khái niệm ngừng việc
nhưng căn cứ vào các quy định hiện hành có thể hiểu ngừng việc là tình trạng
công việc của người lao động không thể thực hiện được do các nguyên nhân
xuất phát từ phía người sử dụng lao động hay người lao động, hoặc nguyên nhân
khách quan (sự cố điện, nước, thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, lí do kinh tế… tức
là những sự cố khách quan bất khả kháng) trong khi người lao động hoàn toàn
có khả năng tiếp tục thực hiện được công việc của mình. Việc 13 thủy thủ mất
tích do sự cố đắm tàu khiến công việc theo hợp đồng lao động không thể tiếp tục
được thực hiện tuy được xác định “nguyên nhân đắm tầu là do sự cố bất khả
kháng” nhưng không thuộc trường hợp ngừng việc quy định tại Điều 98 Bộ luật
lao động 2012.
Cũng cần xác định thêm, trong nhiều trường hợp do doanh nghiệp không
có đủ việc làm cho người lao động khiến người lao động phải dừng việc tạm
thời, căn cứ vào các quy định của pháp luật có thể xác định đây là trường hợp
ngừng việc và người lao động phải được trả lương. Tuy nhiên trong tình huống
này cần phân biệt:
- Thứ nhất, nguyên nhân của việc người lao động phải ngừng việc được
xác định là do lỗi của người sử dụng lao động 1 hay vì lí do kinh tế bởi những
nguyên nhân ngừng việc khác nhau sẽ ảnh hưởng tới tiền lương mà người lao
động được nhận trong thời gian ngừng việc. Theo ý kiến của nhóm, trường hợp
này có thể được xác định là nguyên nhân vì lí do kinh tế, bởi tình trạng thiếu
việc làm cho người lao động xảy ra ngoài mong muốn của người sử dụng lao
động và thường xuất phát từ tình hình kinh tế khó khăn, nó cũng sẽ làm ảnh
hưởng tới doanh thu của chính doanh nghiệp. Như vậy, nếu xác định ngừng việc
trong tình huống này là do lỗi của người sử dụng lao động thì sẽ ảnh hưởng tới
1
Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Báo Người lao động, ngày 27/10/2011.
4
quyền lợi của người sử dụng lao động và cũng có nhiều điểm chưa phù hợp với
thực tế.
- Thứ hai, trong nhiều trường hợp doanh nghiệp không có đủ việc làm cho
người lao động thì người sử dụng lao động thường đề nghị người lao động thỏa
thuận tạm hoãn hợp đồng lao động. Pháp luật không có quy định về tiền lương
trong thời gian tạm hoãn hợp đồng lao động, như vậy người sử dụng lao động có
thể không phải trả lương cho người lao động hoặc thỏa thuận trả lương người
lao động2 và mức lương này có thể sẽ thấp hơn mức lương nếu người lao động
phải ngừng việc vì lí do kinh tế. Do pháp luật hiện nay có quy định những
trường hợp tạm hoãn hợp đồng lao động theo thỏa thuận của hai bên nên thỏa
thuận tạm hoãn hợp đồng này có thể xem là không vi phạm pháp luật, nhưng nó
sẽ ảnh hưởng tới quyền lợi của người lao động.
II.
Thời điểm kết thúc hợp đồng lao động với 13 người bị mất tích là
ngày Quyết định tuyên bố đã chết đối với 13 người lao động của Tòa án có
hiệu lực pháp luật, vì:
1. Nguyên nhân chấm dứt hợp đồng lao động giữa 13 người lao động
bị mất tích và người sử dụng lao động là người lao động bị Tòa án tuyên bố
đã chết
Theo quy định tại Điều 36 Bộ luật lao động 2012, hợp đồng lao động
chấm dứt do các nguyên nhân:
Thứ nhất, hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người
lao động hoặc người sử dụng lao động.
Thứ hai, do sự thỏa thuận của hai bên tham gia quan hệ lao động cá nhân
về việc chấm dứt hợp đồng lao động.
Thứ ba, chấm dứt hợp đồng lao động là biện pháp chế tài của hình thức
kỷ luật lao động sa thải.
2
Công văn số 4294/LĐTBXH-LĐTL của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội v/v tiền lương khi tạm hoãn hợp
đồng lao động.
5
Thứ tư, hợp đồng lao động chấm dứt vì các nguyên nhân xuất phát từ nội
dung hợp đồng: Hết hạn hợp đồng, trừ trường hợp người lao động là cán bộ
công đoàn không chuyên trách đang trong nhiệm kỳ công đoàn mà hết hạn hợp
đồng lao động thì được gia hạn hợp đồng lao động đã giao kết đến hết nhiệm kỳ;
Đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động;
Thứ năm, các nguyên nhân chấm dứt hợp đồng lao động xuất phát từ
điều kiện chủ thể của hợp đồng, cụ thể là:
- Người lao động đủ điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội và tuổi
hưởng lương hưu theo quy định tại Điều 187 của Bộ luật lao động 2012;
- Người lao động bị kết án tù giam, tử hình hoặc bị cấm làm công việc ghi
trong hợp đồng lao động theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà
án;
- Người lao động chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự,
mất tích hoặc là đã chết;
- Người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Toà án tuyên bố mất năng
lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết; người sử dụng lao động không phải
là cá nhân chấm dứt hoạt động;
Trong trường hợp này, do 13 thuyền viên đang mất tích nên có thể thấy
nguyên nhân của việc chấm dứt hợp đồng lao động giữa những người lao động
này và người sử dụng lao động chính là việc Tòa án tuyên bố chết đối với 13
thuyền viên kể trên.
Lưu ý, việc 13 thủy thủ mất tích không thể là nguyên nhân của việc người
sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động vì căn cứ theo
Khoản 1 Điều 38 Bộ luật lao động 2012, các trường hợp mà người sử dụng lao
động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động cũng không thể áp
dụng trong tình huống đưa ra (người lao động thường xuyên không hoàn thành
công việc theo hợp đồng; do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng
khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện
pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc…).
6
Bàn thêm về các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định
tại Bộ luật lao động 2012 trong mối tương quan với Bộ luật lao động hiện hành,
có thể thấy Bộ luật lao động 2012 đã có những bổ sung và hệ thống hóa lại
tương đối đầy đủ về các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động. Một số trường
hợp mà theo quy định của pháp luật thì hợp đồng lao động sẽ chấm dứt nhưng
chưa được Bộ luật lao động 1994 sửa đổi, bổ sung liệt kê tại Điều 36 thì Bộ luật
lao động 2012 đã có sự sửa đổi, cụ thể như: Người lao động chết; người sử dụng
lao động là cá nhân chết hoặc bị tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự,
mất tích hoặc đã chết, người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt
hoạt động; người lao động bị kỷ luật dưới hình thức sa thải; người lao động
hoặc người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo qui
định của pháp luật…
Một trong những điểm mới đáng chú ý đối với các trường hợp chấm dứt
hợp đồng lao động trong Bộ luật lao động 2012 là: Đối với trường hợp hết hạn
hợp đồng lao động, thì theo nguyên tắc chung là hết thời hạn thực hiện hợp đồng
lao động mà 2 bên đã giao kết thì đều có thể chấm dứt hợp đồng lao động, riêng
đối với người lao động là cán bộ công đoàn không chuyên trách đang trong
nhiệm kỳ công đoàn mà hết hạn hợp đồng lao động thì được gia hạn hợp đồng
lao động đến hết nhiệm kỳ. Đây là sự quy định bổ sung tương thích với Luật
Công đoàn sửa đổi, với mục đích bảo vệ cán bộ công đoàn về việc làm. Theo đó,
cán bộ công đoàn không chuyên trách được gia hạn hợp đồng lao động, hợp
đồng làm việc theo nhiệm kỳ tham gia Ban chấp hành công đoàn cơ sở; đơn vị
sử dụng lao động không được tự ý chấm dứt hợp đồng hoặc thuyên chuyển công
tác cán bộ công đoàn không chuyên trách nếu không có sự thoả thuận của công
đoàn3.
Quy định này đã tạo hành lang pháp lý vững chắc hỗ trợ, đáp ứng yêu cầu
bảo vệ cán bộ công đoàn, mặt khác tạo thêm điều kiện, vị thế cho công đoàn
hoạt động tại cơ sở, hạn chế những hành vi độc quyền của đơn vị sử dụng lao
động trong tuyển dụng, sử dụng và chuyển công tác, buộc thôi việc, sa thải
3
Điều 25 Luật Công đoàn 2012.
7
những người lao động năng nổ, tích cực hoạt động công đoàn.
2. Thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động với 13 thuyền viên mất
tích là ngày Quyết định tuyên bố đã chết đối với 13 người lao động này của
Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Liên quan đến vấn đề xác định thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động
giữa người sử dụng lao động và 13 thuyền viên trên, có thể thấy Bộ luật lao
động 2012 cũng như Bộ luật lao động 1994 sửa đổi, bổ sung đều xác định việc
người lao động bị Tòa án tuyên bố đã chết là nguyên nhân làm chấm dứt hợp
đồng lao động nhưng lại không đưa ra cách xác định cụ thể thời điểm chấm dứt
hợp đồng lao động. Vì vậy, có những quan điểm khác nhau trong việc xác định
thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động ở trường hợp này:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, thời điểm kết thúc hợp đồng lao động là
ngày mà Tòa án xác định là ngày chết của người lao động, được nêu trong Quyết
định tuyên bố đã chết đối với người lao động (Điều 337 Bộ luật tố tụng dân sự
2004, sửa đổi, bổ sung năm 2009 – sau đây gọi tắt là Bộ luật tố tụng dân sự 2004
sửa đổi, bổ sung). Quan điểm này xuất phát từ cách lí giải, người lao động là chủ
thể của hợp đồng lao động, vì vậy thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động cần
được xác định căn cứ vào khả năng của người lao động không thể tiếp tục thực
hiện công việc đã xác định trong hợp đồng, tức là ngày mà Tòa án xác định là
người lao động đã chết.
Tuy nhiên, cách xác định này vẫn có điểm chưa thật hợp lý bởi sự kiện
pháp lý làm chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp này được xác định là
việc người lao động bị Tòa án tuyên bố là đã chết chứ không phải là việc người
lao động chết. Do đó, căn cứ vào ngày mà Tòa án xác định là ngày chết của
người lao động được nêu trong Quyết định tuyên bố đã chết là chưa phù hợp với
nguyên nhân làm chấm dứt hợp đồng lao động đã được xác định ở trên.
Quan điểm thứ hai cho rằng, thời điểm kết thúc hợp đồng lao động là
ngày Tòa án tuyên bố người lao động đã chết. Quan điểm này đã khắc phục
được hạn chế của quan điểm thứ nhất nêu trên, phù hợp với việc xác định sự
8
kiện pháp lý là nguyên nhân chấm dứt quan hệ lao động cá nhân giữa 13 người
lao động với người sử dụng lao động.
Tuy nhiên, còn có quan điểm thứ ba cho rằng, thời điểm kết thúc hợp
đồng lao động là ngày Quyết định tuyên bố đã chết của Tòa án đối với người lao
động chính thức có hiệu lực. Quan điểm này xuất phát từ cách giải thích, theo
Điều 82 Bộ luật dân sự 2005, kể từ ngày Quyết định của Tòa án tuyên bố một
người là đã chết có hiệu lực pháp luật thì “cái chết pháp lý” của người bị tuyên
bố chết mới chính thức được xác lập, và phát sinh hậu quả pháp lý là việc giải
quyết các quan hệ hôn nhân, gia đình cũng như các quan hệ khác về nhân thân
và tài sản của người được tuyên bố đã chết, trong đó có quan hệ lao động. Quan
điểm này cũng phù hợp với việc xác định sự kiện pháp lý làm chấm dứt hợp
đồng lao động là việc Tòa án tuyên bố người lao động đã chết.
Phân tích các quan điểm trên về xác định thời điểm chấm dứt hợp đồng
lao động của 13 thủy thủ bị mất tích, có thể thấy mỗi quan điểm đều có những
cách lí giải hợp lý nhưng quan điểm thứ ba là có nhiều điểm phù hợp với các
quy định của pháp luật dân sự cũng như pháp luật lao động. Tuy nhiên, việc
pháp luật không có quy định cụ thể trong trường hợp này sẽ khiến khó có thể có
một cách áp dụng thống nhất trong quá trình thực thi pháp luật. Trong khi đó,
thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động trong tình huống nêu ra có ý nghĩa vô
cùng quan trọng khi xác định các quyền lợi mà thân nhân người lao động được
hưởng cũng như những nghĩa vụ mà người sử dụng lao động và các cơ quan
Nhà nước phải thực hiện. Do đó, cần thiết có những quy định hướng dẫn cụ thể
làm căn cứ pháp lý xác định ngày chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp
người lao động bị Tòa án tuyên bố đã chết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người lao động và thân nhân người lao động.
Đồng thời, xem xét trường hợp cụ thể mà đề bài nêu ra có thể thấy, theo
điểm c Khoản 1 Điều 81 Bộ luật dân sự 2005, thời điểm mà người có quyền, lợi
ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố 13 người lao động
trên là đã chết là 1 năm kể từ ngày tai nạn chấm dứt mà không có tin tức xác
thực là còn sống. Sau khi có yêu cầu gửi đến Tòa án có thẩm quyền, việc Tòa án
9
xem xét và giải quyết đơn yêu cầu, sau đó ra Quyết định giải quyết việc dân sự
cũng phải tiến hành trong một khoảng thời gian luật định. Như vậy, kể từ lúc
người lao động bị tai nạn cho tới ngày chấm dứt hợp đồng lao động, tức là trong
khoảng thời gian trên 1 năm, quyền lợi của người lao động được giải quyết như
thế nào thì hiện nay pháp luật chưa có quy định cụ thể.
Như đã phân tích ở phần I, đây không phải trường hợp tạm hoãn hợp đồng
lao động, người sử dụng lao động có thể quyết định việc có hay không trả lương
người lao động, và nếu có trả lương mức trả có thể do người sử dụng lao động tự
xác định hoặc hai bên thỏa thuận. Trong trường hợp cụ thể của 13 thuyền viên
này, nếu Công ty P không trả lương cho người lao động thì có vi phạm pháp luật
không, vì thực tế là hợp đồng lao động tuy vẫn đang có hiệu lực nhưng không có
việc thực hiện công việc được thỏa thuận trong hợp đồng.
III.
Giải quyết quyền lợi của 13 người lao động bị mất tích
Căn cứ vào đề bài đưa ra, có thể xác định:
- Giả định quyền lợi của người lao động được tính vào thời điểm tháng 4
năm 2012.
- Theo Điều 16 BLLĐ 2012 quy định về hình thức hợp đồng lao động thì
hợp đồng lao động phải được giao kết bằng văn bản, các bên chỉ được giao kết
hợp đồng bằng lời nói đối với công việc tạm thời có thời hạn dưới 03 tháng.
Theo thông tin đề bài đưa ra: 13 người lao động trên có ký hợp đồng lao
động với công ty V, tức là hợp đồng lao động giữa 13 thủy thủ và công ty V
được xác lập dưới hình thức văn bản. Như vậy, đây là loại hợp đồng có thời hạn
trên 3 tháng.
Mặt khác căn cứ theo điểm a, khoản 1 Điều 2 Luật bảo hiểm xã hội hiện
hành thì người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp
đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên là đối tượng tham gia bảo hiểm
bắt buộc. Như vậy, 13 người lao động này là đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội
bắt buộc.
- Theo quy định tại Khoản 2 Điều 94 Luật Bảo hiểm xã hội 2006, đối với
người lao động đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do người sử dụng
10
lao động quyết định thì tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội là mức
tiền lương, tiền công ghi trong hợp đồng lao động. Lương của 13 người lao động
được ghi trong hợp đồng lao động là mức lương theo thỏa thuận, lương ghi trong
sổ bảo hiểm xã hội để đóng bảo hiểm là 2.000.000đ, mức lương thực nhận tính
trung bình theo bảng lương ngang là 20.000.000đ, như vậy có thể xác định mức
lương ghi theo hợp đồng lao động là 20.000.000đ khi tính toán các quyền lợi của
người lao động.
1. Trường hợp 13 người lao động bị Tòa án tuyên bố chết sau một
năm từ khi chấm dứt tai nạn
Như trên đã phân tích thì thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động với 13
thủy thủ trên là thời điểm Quyết định của Tòa án tuyên bố 13 người đó đã chết
chính thức có hiệu lực pháp luật. Sau thời điểm này, quyền lợi của 13 người lao
động đó được giải quyết như sau:
Trước hết, căn cứ theo khoản 1 Điều 142 BLLĐ: “Tai nạn lao động là tai
nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử
vong cho người lao động, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực
hiện công việc, nhiệm vụ lao động” có thể khẳng định tai nạn mà các thủy thủ
trên tàu TP gặp là tai nạn lao động. Như vậy, 13 thủy thủ sẽ được hưởng quyền
lợi đối với người bị tai nạn lao động.
Căn cứ vào Điều 144 - Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với
người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và Điều 145 - Quyền của người lao
động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp: “Người lao động tham gia bảo hiểm
xã hội bắt buộc được hưởng chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy
định của Luật bảo hiểm xã hội.”
Cụ thể, quyền lợi của 13 thủy thủ trong trường hợp này như sau:
Thứ nhất, theo quy định tại Điều 47 Luật BHXH thì người lao động đang
làm việc bị chết do tai nạn lao động thì thân nhân được hưởng trợ cấp một lần
bằng ba mươi sáu tháng lương tối thiểu chung. Như vậy, thân nhân của 13 thủy
thủ đã chết trong vụ chìm tàu sẽ được hưởng trợ cấp một lần bằng 36 tháng
11
lương tối thiểu chung. Vậy số tiền họ được trợ cấp một lần là: 1.050.000 đồng x
36 = 37.800.000 đồng.
Thứ hai, thân nhân của 13 người lao động trên còn được hưởng chế độ tử
tuất. Cụ thể như sau:
Một là, Thân nhân của 13 người lao động đã chết sẽ được hưởng trợ cấp
mai táng. Theo Điều 63 Luật bảo hiểm xã hội thì người làm việc theo hợp đồng
lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng
trở lên bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì thân nhân được hưởng trợ cấp mai táng,
trợ cấp mai táng bằng mười tháng lương tối thiểu chung. Như vậy tiền trợ cấp
mai táng được tính như sau: 1.050.000 x 10 = 10.500.000 triệu.
Hai là, Theo quy định tại Điều 64 Luật Bảo hiểm xã hội thì thân nhân của
13 người lao động trên còn có thể được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng nếu là các
đối tượng:
- Con chưa đủ mười lăm tuổi; con chưa đủ mười tám tuổi nếu còn đi học;
con từ đủ mười lăm tuổi trở lên nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở
lên;
- Vợ từ đủ năm mươi lăm tuổi trở lên hoặc chồng từ đủ sáu mươi tuổi trở
lên; vợ dưới năm mươi lăm tuổi, chồng dưới sáu mươi tuổi nếu bị suy giảm khả
năng lao động từ 81% trở lên;
- Cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ hoặc cha chồng, mẹ vợ hoặc mẹ chồng, người
khác mà đối tượng này có trách nhiệm nuôi dưỡng nếu từ đủ sáu mươi tuổi trở
lên đối với nam, từ đủ năm mươi lăm tuổi trở lên đối với nữ;
- Cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ hoặc cha chồng, mẹ vợ hoặc mẹ chồng, người
khác mà đối tượng này có trách nhiệm nuôi dưỡng nếu dưới sáu mươi tuổi đối
với nam, dưới năm mươi lăm tuổi đối với nữ và bị suy giảm khả năng lao động
từ 81% trở lên.
12
Tuy nhiên những thân nhân trên phải không có thu nhập hoặc có thu nhập
hằng tháng nhưng thấp hơn mức lương tối thiểu chung.
- Mức trợ cấp tuất hằng tháng:
Mức trợ cấp tuất hằng tháng đối với mỗi thân nhân bằng 50% mức lương
tối thiểu chung, tức là = 1.050.000 đồng x 50% = 525.000 đồng ; trường hợp
thân nhân không có người trực tiếp nuôi dưỡng thì mức trợ cấp tuất hằng tháng
bằng 70% mức lương tối thiểu chung, tức là = 1.050.000 đồng x 70% = 735.000
đồng.
Đối với một người lao động đã chết thì số thân nhân được hưởng trợ cấp
tuất hằng tháng không quá bốn người; Thời điểm hưởng trợ cấp tuất hằng tháng
được thực hiện kể từ tháng liền kề sau thời điểm mà người lao động được Tòa
án tuyên bố là đã chết.
Trong trường hợp 13 người lao động đã chết nêu trên mà không có thân
nhân hưởng tiền tuất hằng tháng quy định tại khoản 2 Điều 64 của Luật BHXH
thì thân nhân được hưởng trợ cấp tuất một lần: mức trợ cấp tuất một lần đối với
thân nhân của người lao động được tính theo số năm đã đóng bảo hiểm xã hội,
cứ mỗi năm tính bằng 1,5 tháng mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng
bảo hiểm xã hội; mức thấp nhất bằng ba tháng mức bình quân tiền lương, tiền
công tháng.
Thứ ba, 13 người lao động này có thể được hưởng trợ cấp thôi việc.
Theo quy định tại Khoản 6 Điều 139 và Khoản 1 Điều 140 Luật Bảo hiểm
xã hội 2006, Điều 48 Bộ luật lao động 2012: Nếu người lao động đã làm việc
thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên trong khoảng thời gian trước ngày 1/1/2009
thì trong trường hợp 13 người lao động bị Tòa án tuyên bố đã chết, hợp đồng lao
động chấm dứt và người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi
việc cho người lao động, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền
lương. Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp
13
đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc, tức là
20.000.000đ.
2. Trường hợp 13 người lao động mất tích quay trở về
Ngoài trường hợp 13 người lao động đã chết do vụ chìm tàu cũng có thể
xảy ra trường hợp người lao động chưa chết mà quay trở về sau đó nhưng bị
thương do vụ chìm tàu thì quyền lợi của họ sẽ được giải quyết như thế nào?
Quyền lợi của họ sẽ được giải quyết như sau:
Thứ nhất, theo quy định tại khoản 3 Điều 144 BLLĐ 2012 thì người bị
tai nạn lao động sẽ được nhận bồi thường từ phía người sử dụng lao động, mức
bồi thường cụ thể được quy định tại Điều 145. Theo đó người lao động bị tai nạn
lao động mà không do lỗi của người lao động (mà cụ thể ở đây là do sự cố bất
khả kháng) và bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên thì được công ty V
bồi thường với mức như sau:
- Ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động nếu bị suy
giảm từ 5,0% đến 10% khả năng lao động, có nghĩa là trong trường hợp này mỗi
người sẽ được trợ cấp 30 triệu (vì tiền lương theo hợp đồng là 20 triệu); sau đó
cứ tăng 1,0% được cộng thêm 0,4 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động tức 8
triệu nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 11% đến 80%;
- Ít nhất 30 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động nếu người lao động
bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người lao
động bị chết do tai nạn lao động. Như vậy, nếu người lao động trở về và bị suy
giảm khả năng lao động từ 81% trở lên do vụ chìm tàu thì được trợ cấp: 20 triệu
x 30 = 600 triệu.
Thứ hai, bên cạnh những quyền lợi được hưởng từ phía người sử dụng
lao động, người bị tai nạn lao động trở về còn được nhận trợ cấp theo quy định
của Luật BHXH sau khi giám định mức suy giảm khả năng lao động.
- Nếu người lao động tai nạn trở về bị suy giảm khả năng lao động từ 5%
đến 30% thì được hưởng trợ cấp một lần (khoản 1 Điều 42 Luật BHXH). Và
14
mức trợ cấp một lần người đó được hưởng như sau: suy giảm 5% khả năng lao
động thì được hưởng năm tháng lương tối thiểu chung, tức là = 1.050.000 đồng
x 5 = 5.250.000 đồng, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 0,5
tháng lương tối thiểu chung tức là 0,5 x 1.050.000 đồng = 525.000 đồng (điểm a
khoản 2 Điều 42 Luật BHXH).
Ngoài ra họ còn được hưởng thêm khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng
bảo hiểm xã hội, từ một năm trở xuống thì được tính bằng 0,5 tháng tiền lương,
tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị
tức là 0,5 x 2.000.000 đồng = 1.000.000 đồng, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng
bảo hiểm xã hội được tính thêm 0,3 tháng tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm
xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị tức là = 0,3 x 2.000.000
đồng = 600.000 đồng (điểm b khoản 2 Điều 42 Luật BHXH).
- Nếu các thủy thủ trở về sau vụ chìm tàu bị suy giảm khả năng lao động
từ 31% trở lên thì được hưởng trợ cấp hằng tháng (khoản 1 Điều 43 Luật
BHXH). Mức trợ cấp hằng tháng họ sẽ được hưởng như sau:
Suy giảm 31% khả năng lao động thì được hưởng bằng 30% mức lương
tối thiểu chung, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 2% mức
lương tối thiểu chung. Như vậy mỗi tháng họ được hưởng 30% x 1.050.00 đồng
= 315.000 đồng, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì hưởng thêm 2% x 1.050.000
đồng = 21.000đ/tháng (điểm a khoản 2 Điều 43 Luật BHXH).
Ngoài khoản trợ cấp trên, hằng tháng họ còn được hưởng thêm một khoản
trợ cấp tính theo số năm đã đóng bảo hiểm xã hội, từ một năm trở xuống được
tính bằng 0,5% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền
kề trước khi nghỉ việc để điều trị, tức là = 0,5% x 2.000.000 đồng = 10.000
đồng, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội được tính thêm 0,3% mức
tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc
để điều trị, tức là = 0,3% x 2.000.000 đồng = 6.000 đồng (điểm b khoản 2 Điều
43 Luật BHXH).
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật dân sự 2005;
2. Bộ luật lao động 2012;
3. Bộ luật tố tụng dân sự 2004, sửa đổi bổ sung năm 2009;
4. Luật Công đoàn 2012;
5. Luật Bảo hiểm xã hội 2006;
6. Công văn số 4294/LĐTBXH-LĐTL của Bộ Lao động – Thương binh và
Xã hội v/v tiền lương khi tạm hoãn hợp đồng lao động;
7. Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Báo Người lao động, ngày 27/10/2011.
16
- Xem thêm -