Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật đường lối cách mạng của đcsvn bài học kỳ quá trình đàm phán và ký kết hiệp định ...

Tài liệu đường lối cách mạng của đcsvn bài học kỳ quá trình đàm phán và ký kết hiệp định paris giữa việt nam và mỹ.

.DOCX
10
212
93

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU.........................................................................................................................1 NỘI DUNG.....................................................................................................................1 1. Hoàn cảnh lịch sử.....................................................................................................1 2. Quá trình đàm phán và ký kết Hiệp định Paris giữa Việt Nam và Mỹ (1973).........2 3. Kết quả và ý nghĩa của Hiệp định Paris(1973) giữa Việt Nam và Mỹ.....................4 KẾT LUẬN.....................................................................................................................8 0 MỞ ĐẦU Hội nghị Paris về Việt Nam kết thúc với việc ký kết Hiệp định Paris ngày 27/1/1973 đã buộc Mỹ phải rút khỏi Việt Nam và mở đường cho sự sụp đổ của Chính quyền Sài Gòn. Đây là kết quả của gần 5 năm đàm phán, với 201 phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng giữa Việt Nam và Mỹ, 500 buổi họp báo, gần 1.000 cuộc phỏng vấn và phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam trên khắp Thế giới. Hiệp định Paris chính là kết quả của sự phối hợp nhịp nhàng giữa các mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao, thể hiện đỉnh cao của nghệ thuật “vừa đánh, vừa đàm” do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, tạo ra bước ngoặt lịch sử để dân tộc ta quyết tâm chung sức đồng lòng “đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào”, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bài viết sau sẽ đi sâu tìm hiểu về “Quá trình đàm phán và ký kết hiệp định Paris giữa Việt Nam và Mỹ”. NỘI DUNG 1. Hoàn cảnh lịch sử Từ năm 1965, với những thắng lợi liên tiếp của nhân dân ta ở hai miền đất nước, chúng ta đẩy mạnh đấu tranh trên mặt trận ngoại giao, kết hợp song song với các cuộc đấu tranh trên quân sự và chính trị, để tố cáo tội ác của Mỹ, nâng cao tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè thế giới. Đảng ta đã tính đến kế hoạch đàm phán với Mỹ, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Tại Hội nghị lần thứ 13 (1-1967) Ban chấp hành Trung ương Đảng đã mở màn và chính thức coi ngoại giao cũng là mặt trận phải đấu tranh. Và từ đây, Đảng ta triển khai kế hoạch và quyết định đẩy mạnh đấu tranh quân sự trên cả hai miền, đồng thời đưa ngoại giao thành một mặt trận quan trọng để mở ra cục diện “vừa đánh, vừa đàm”. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “ngoại giao là rất quan trọng nhưng cái vốn chính là mình phải đánh thắng và mình phải có sức mạnh thì ngoại giao sẽ thắng.” Mỹ liên tiếp thất bại trên các chiến trường. Sau thất bại trong cuộc tấn công và nổi dậy tết Mậu Thân(1968), làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ”, giáng những đòn “sấm sét” tiến công liên tiếp lên quân Mỹ, làm thay đổi hẳn tình hình theo 1 hướng có lợi cho ta và làm giảm uy thế, sức mạnh quân sự và lung lay ý chí xâm lược của Mỹ. Phong trào phản đối chiến tranh diễn ra khắp nơi trên đất nước Mĩ cũng như ở Việt Nam. Lính Mĩ ngày càng sa sút về tinh thần cũng như thể chất trong cuộc chiến tranh này. Sau cuộc chiến Mậu Thân, Tổng thống L.B Johnson phải tuyên bố đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, không ra tranh cử Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ 2 và cử người đàm phán với đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Paris, McNamara từ chức. Thêm vào đó Nickson tham gia tranh cử, chính quyền Nickson đã sử dụng thủ đoạn “lùi trong thương lượng”, xuống thang phá hoại miền Bắc. Năm 1971 cuộc hành quân Hạ Lào thất bại, nhân dân Đông Dương hợp tác chống Mỹ mạnh mẽ. Năm 1972 Mỹ tiến hành chiến dịch đánh phá Miền Bắc buộc cộng sản đầu hàng. Cộng sản đã làm nên trận Điện Biên Phủ trên không lừng lẫy; trong trận chiến Quảng Trị 81 ngày đêm ta giành thế chủ động buộc Mỹ phải nhượng bộ, ngồi vào bàn đàm phán và ký kết với ta hiệp định Paris về việc trao trả hòa bình lại cho Việt Nam. Hành động của Mỹ không chỉ thừa nhận sự phá sản của chiến tranh phá hoại bằng không quân ở miền Bắc và chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam mà còn là bước khởi đầu của quá trình xuống thang chiến tranh của Mỹ, đánh dấu xu thế không thể đảo ngược là thế và lực của dân tộc Việt Nam ngày càng mạnh, Mỹ nguỵ ngày càng suy yếu và đi xuống. Thắng lợi quân sự đã mở cánh cửa cho đàm phán ngoại giao. 2. Quá trình đàm phán và ký kết Hiệp định Paris giữa Việt Nam và Mỹ (1973) Hiệp định Paris là một tổng thể bao gồm Hiệp định, 4 Nghị định thư, 8 bản Thỏa thuận sơ bộ, Định ước quốc tế, Tuyên bố chung và các văn thư trao đổi giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Cuộc đàm phán ký kết Hiệp định này diễn ra trong 4 năm 8 tháng 16 ngày là cuộc đàm phán dài nhất trong lịch sử ngoại giao Việt Nam với 202 phiên họp công khai diễn ra tại Trung tâm Hội nghị quốc tế Kléber từ ngày 13/5/1968 đến ngày 27/1/1973 và 45 phiên gặp riêng cấp cao tại nhiều địa điểm khác nhau ở Paris. Cuộc đàm phán được chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất từ ngày 13/5/1968 đến hết tháng 10/1968 gồm 28 phiên họp công khai là cuộc đàm phán hai bên giữa đoàn đàm phán Chính phủ Việt Nam Dân 2 chủ Cộng hòa do Bộ trưởng Xuân Thủy làm trưởng đoàn và đoàn đám phán Chính phủ Hoa Kỳ do Đại sứ Harriman làm trưởng đoàn. Ở giai đoạn 1, cuộc đàm phán diễn ra trong bối cảnh Hoa Kỳ buộc phải ngừng ném bom từ Ninh Bình trở ra phía Bắc và ngồi đàm phán với Việt Nam tại Paris sau thất bại Tết Mậu Thân năm 1968. Cuộc đàm phán chính thức bắt đầu ngày 15/3/1968 tại Trung tâm Hội nghị quốc tế ở đường Kléber, Paris, đánh dấu một giai đoạn mới của cuộc chiến tranh Việt Nam: vừa đọ sức trên mặt trận ngoại giao, mở ra cục diện “vừa đánh vừa đàm”. Nhiệm vụ của đối ngoại giai đoạn này là dùng đàm phán để tiến công cô lập địch; vạch trần âm mưu của địch kéo dài chiến tranh, tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh do Mỹ phát động; tranh thủ dư luận phục vụ cho cuộc đấu tranh quân sự, chính trị trên chiến trường; yêu cầu Mỹ chấm dứt ném bom không điều kiện miền Bắc Việt Nam. Kết thúc giai đoạn này, đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã buộc Mỹ phải tuyên bố chấm dứt không điều kiện ném bom miền Bắc và các hành động khác, chấp nhận ngồi nói chuyện trực tiếp với đại diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tại hội nghị 4 bên. Giai đoạn thứ 2 của cuộc đàm phán là các cuộc thương thảo giữa 4 bên: Đoàn đại biểu chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ và Việt Nam cộng hòa. Đặc trưng của đàm phán giai đoạn này là việc diễn ra đồng thời 2 diễn đàn: đàm phán công khai 4 bên và các cuộc gặp riêng giữa cố vấn Lê Đức Thọ và Cố vấn an ninh quốc gia Kissinger. Ngày 8/10/1972, Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ đưa ra dự thảo Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và dự thảo Thỏa thuận về quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam, trong đó tập trung giải quyết những vấn đề chính trị và quân sự liên quan đến Mỹ như yêu cầu Mỹ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, ngừng bắn, Mỹ rút quân… Đến ngày 20/10/1972, hai bên đã đạt được thỏa thuận, dự định ký Hiệp định vào ngày 31/10/1972. Với thỏa thuận này, Việt Nam đã đạt được các mục tiêu đề ra là Mỹ chấm dứt chiến tranh và rút hết quân khỏi miền Nam Việt Nam. Nhưng đến ngày 22/10/1972, phía Hoa Kỳ lật lọng, không giữ lời hứa, viện những lý do không chính đáng để liên tiếp thay đổi những điều thuộc nội dung Hiệp định và thời 3 gian đã thỏa thuận. Đến giữa tháng 12/1972, do không đạt được những đòi hỏi của mình, Hoa Kỳ ngừng cuộc đàm phán và mở cuộc tiến công 12 ngày đêm bằng máy bay B52 vào Hà Nội và miền Bắc. Tuy nhiên, chiến thắng oanh liệt “Điện Biên Phủ trên không” đã buộc Mỹ phải trở lại bàn đàm phán. Ngày 13/1/1973, Các bên hoàn thành văn bản của hiệp định. Kết thúc những đợt gặp riêng giữa cố vấn Lê Đức Thọ và cố vấn Henry Kissinger. Ngày 16/1/1973, Tổng thống Nixon gửi thư cho ông Nguyễn Văn Thiệu, coi chính quyền của ông Thiệu là hợp pháp duy nhất ở miền Nam Việt Nam. Ngày 23/1/1973, Mỹ chấp nhận ký hiệp định Paris không điều kiện. Cố vấn Lê Đức Thọ cùng cố vấn an ninh quốc gia Kissinger đã ký tắt văn bản Hiệp định. Ngày 27/1/1973, tại Trung tâm Hội nghị quốc tế Kléber, bốn bên chính thức ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và 4 nghị định thư liên quan. Tham gia lễ ký có đại diện của VNDCCH là Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh, đại diện Mỹ là Ngoại trưởng William P. Rogers, đại diện của MTDTGPMNVN là Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thị Bình và đại diện cho chính quyền Sài Gòn, Tổng trưởng Ngoại giao Nguyễn Văn Lắm. Hiệp định Paris về Việt Nam có 9 chương với 23 điều khoản. Đến ngày 28/1/1973, tiến hành ngừng bắn trên toàn miền Nam Việt Nam. Hiệp định Paris chính thức được thi hành. 3. Kết quả và ý nghĩa của Hiệp định Paris(1973) giữa Việt Nam và Mỹ Sau quá trình đấu trí căng go và không kém phần ác liệt trên bàn đám phán, hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được ký kết. Theo đó Hoa Kỳ và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; Hoa Kỳ rút hết quân viễn chinh và quân chư hầu, phá hết các căn cứ quân sự Mỹ, cam kết không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam; Các bên để cho nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của họ thông qua tổng tuyển cử tự do. Các bên công nhận thực tế miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị và Các bên ngừng bắn tại chỗ, trao trả cho nhau tù binh và dân thường bị bắt. 4 Hiệp định Pari 1973 về Việt Nam đã được Hội nghị 12 nước năm 1973 tại Pari công nhận về mặt pháp lý quốc tế. Ngày 2-3-1973, Hội nghị quốc tế về Việt Nam được triệu tập tại Paris gồm đại biểu của 12 nước là Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Pháp, bốn bên tham gia ký kết Hiệp định và bốn nước trong Uỷ ban giám sát và kiểm soát quốc tế (Ba Lan, Canada, Hungarie, Indonesia), với sự có mặt của ông Tổng thư ký Liên Hợp Quốc. Tất cả các nước tham dự Hội nghị đã ký vào bản Định ước gồm lời nói đầu và 9 điều khoản công nhận về mặt pháp lý quốc tế Hiệp định Paris về Việt Nam và đảm bảo cho Hiệp định được thi hành nghiêm chỉnh. Định ước được soạn bằng 5 ngôn ngữ (Việt, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc) bày tỏ sự tán thành, ủng hộ và ghi nhận tính pháp lý quốc tế của Hiệp định Paris 1973 và các nghị định thư kèm theo; công nhận và tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam. Định ước cũng quy định bốn bên ký hiệp định và hai bên miền Nam Việt Nam thông báo cho các bên ký định ước về tiến trình thi hành hiệp định. Trong trường hợp xảy ra vi phạm hiệp định, các bên ký hiệp định sẽ trao đổi với các bên cùng ký định ước để xác định các biện pháp giải quyết cần thiết. Đây có thể xem là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đây là bản Hiệp định có ý nghĩa hết sức to lớn: Thứ nhất, việc ký kết Hiệp định Paris là một bước ngoặt quyết định cho những sự kiện diễn ra sau đó. Hiệp định đã hội tụ đủ các điều kiện kể cả về chiến lược, quân sự, chính tri, lẫn ngoại giao cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1975. Thứ hai, việc ký kết Hiệp định Paris thể hiện rất rõ một quyết định đúng đắn về mặt chiến lược của Việt Nam. Đó là ta đã lựa chọn và thực hiện “chiến lược giành thắng lợi từng bước tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn” trên cả ba mặt trận: chính trị, quân sự và ngoại giao. Thứ ba, thể hiện sự thành công của nghệ thuật chiến lược quân sự “vừa đánh vừa đàm”, đây là một sự sáng tạo trong việc hoạch định chiến lược quân sự của ta. Chúng ta không thể đánh thắng Mỹ một cách tuyệt đối trên chiến trường. Vì vậy, chúng ta phải có cách đánh và cách thắng Mỹ phù hợp. Ngoại giao đã thể hiện được vai trò chủ động của mình, góp phần quan trọng tiến tới kết thúc cuộc chiến tranh một 5 cách thuận lợi nhất. Ngoại giao “không gây khó dễ” cho chiến trường và ngược lại, các hoạt động quân sự trên chiến trường không phá vỡ thế đàm phán trên bàn hội nghị. Hiệp định Paris còn có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng nữa. Đó là nó quy định các điều khoản liên quan đến chính trị, đến các lực lượng chính trị, tổng tuyển cử và việc thành lập cơ cấu chính quyền tại Miền Nam Việt Nam. Nói tóm lại, Hiệp định Paris đã tạo mọi tiền đề để chúng ta kết thúc cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc vào năm 1975. Hiệp định Paris buộc Mỹ và các nước phải công nhận chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam. Mỹ phải rút hết quân và cam kết chấm dứt mọi sự dính líu quân sự vào miền Nam Việt Nam. Lực lượng quân sự, chính trị ở miền Nam của ta vẫn được duy trì, bảo đảm điều kiện cho cách mạng ở miền Nam Việt Nam vững bước tiến lên. Với Hiệp định Paris, so sánh lực lượng của ta và địch trên chiến trường đã thay đổi căn bản, hoàn toàn có lợi cho ta. Đây là điều kiện quan trọng cho công cuộc giải phóng hoàn toàn miền Nam hơn hai năm sau. Trùng Hiệp định Paris là cột mốc đánh dấu thắng lợi to lớn, oanh liệt trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Mỹ âm mưu tiến hành áp đặt chủ nghĩa thực dân mới trên đất nước ta bằng cuộc chiến tranh phi nghĩa hòng đè bẹp ý chí đấu tranh giành độc lập, tự do của nhân dân. Xâm lược Việt Nam là sai lầm lịch sử lớn nhất của nước Mỹ trong hơn hai trăm năm tồn tại và Mỹ đã phải gánh chịu thất bại thảm hai nhất, đắt giá nhất cho sai lầm lịch sử đó. Chiến thắng này, đưa dân tộc Việt Nam ta lên hàng ngũ dân tộc tiên phong trên thế giới, đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ và mới, là ngọn cờ chiến đấu của phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ, hoà bình và chủ nghĩa xã hội. Hiệp định Paris khẳng định bản chất cách mạng, khoa học, sáng tạo và tầm vóc thời đại trong đường lối chiến lược, sách lược của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ký Hiệp định Paris là thắng lợi của Đảng ta trong việc nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đây cũng là thắng lợi của tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của cách mạng Việt Nam, kết hợp nhuần nhuyễn tinh thần quốc tế vô sản và đoàn kết các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. 6 4. Bài học rút ra cho công tác ngoại giao sau này Trước hết cuộc đấu tranh của chúng ta rất phức tạp. Tuy là giữa ta và Mỹ nhưng cũng là mối quan tâm của nhiều nước lớn trên thế giới. Nên bài học từ Hội nghị trước hết là phải giữ vững nguyên tắc về độc lập tự chủ, phải xuất phát từ lợi ích quốc gia, phải biết rõ lực lượng mình như thế nào, đối phương ra sao để quyết định từng bước đi và luôn luôn có sự kết hợp giữa chiến trường và trên mặt trận ngoại giao – đó là bài học về độc lập tự chủ. Bài học thứ 2 là chúng ta phải hết sức kiên định đối với lập trường nguyên tắc và mục tiêu chiến lược của mình, nhưng trong sách lược phải biết mềm dẻo. Ví dụ, lúc đầu chúng ta đặt ra mục tiêu trong cuộc đàm phán gồm 2 yêu cầu: yêu cầu quân sự là Mỹ phải rút quân hoàn toàn ra khỏi miền Nam Việt Nam. Yêu cầu thứ 2 là ở miền Nam Việt Nam phải bỏ chính quyền tay sai của Mỹ để nhân dân tự lựa chọn chính quyền của mình. Nhưng dựa trên tình hình thực tế, chúng ta đã tập trung vào 1 mục tiêu là Mỹ phải rút hoàn toàn khỏi miền Nam Việt Nam. Chúng ta biết nếu Mỹ rút khỏi và chấm dứt sự can thiệp vào miền Nam Việt Nam thì vấn đề miền Nam Việt Nam ta hoàn toàn có thể giải quyết được. Bài học lớn nữa là chúng ta biết kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Nghĩa là chúng ta phải trông vào sức mình; về mặt chính trị, quân sự chúng ta đã hết sức cố gắng để đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Ngoài ra, trong một cuộc đấu tranh hết sức quyết liệt với đối phương mạnh hơn nhiều lần, chúng ta đã biết tranh thủ sức mạnh đoàn kết quốc tế. Có thể nói, phong trào đoàn kết quốc tế ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của ta là phong trào đoàn kết quốc tế rộng lớn chưa từng có trong lịch sử. Đó chính là sức mạnh to lớn đã góp phần vào thắng lợi trong cuộc đấu tranh của dân tộc ta. KẾT LUẬN 40 năm sau ngày ký kết Hiệp định Paris, Việt Nam hiện nay đã có quan hệ ngoại giao với 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, là đối tác bình đẳng với nhiều nước lớn, là thành viên tích cực và có trách nhiệm của nhiều tổ chức hợp tác đa phương. Việt Nam và Mỹ cũng đã bình thường hóa quan hệ và đang tiến những bước dài trên con 7 đường hợp tác. Tuy nhiên những bài học về ý chí bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc và tinh thần đoàn kết quốc tế trên bàn đàm phán Hiệp định Paris năm nào vẫn còn nguyên giá trị thời sự, luôn được các thế hệ sau tiếp nối, phát huy, chắt lọc và hình thành tư tưởng ngoại giao hòa bình, hữu nghị trong điều kiện mới. 8 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009; 2. Hội đồng biên soạn giáo trình quốc gia các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2004; 3. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: văn kiện Đảng toàn tập, NxB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; 5. Bộ Ngoại giao, Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Paris về Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia -2004 tr 398-399. 6. Văn kiện Đảng toàn tập, tập 28, Nxb CTQG, H.2001. tr.174 7. websites: http://xaydungdang.org.vn/Home/Lyluan-ThuctienKinhnghiem/2013/5940/Hiep-dinh-Pari-Dinh-cao-nghe-thuat-vua-danh-vua-dam.aspx; http://www.baomoi.com/Vai-net-ve-qua-trinh-dam-phan-va-y-nghia-cua-Hiepdinh-Paris/119/10116883.epi; http://www.vietnamplus.vn/Home/Hiep-dinh-Paris-1973-la-bai-hoc-ve-doc-laptu-chu/20131/180618.vnplus; http://vietbao.vn/The-gioi/Dien-bien-chinh-cua-Hoi-nghi-Paris-ve-VietNam/10805061/162/; http://www.lichsuvietnam.vn/home.php? option=com_content&task=view&Itemid=33&id=392; http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%99i_ngh%E1%BB%8B_Paris,_m %E1%BA%B7t_tr%E1%BA%ADn_ngo%E1%BA%A1i_giao_n%C4%83m_1972. http://duongcachmenh.wordpress.com/2012/06/05/hiep-dinh-geneve-1954-hiepdinh-paris-1973/. 9
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan