Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đồng nghĩa trái nghĩa và vấn đề dạy nghĩa của từ trong mối quan hệ đồng nghĩa ...

Tài liệu đồng nghĩa trái nghĩa và vấn đề dạy nghĩa của từ trong mối quan hệ đồng nghĩa trái nghĩa ở tiểu học (2014)

.PDF
63
233
69

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC ĐỖ THỊ HÀ ĐỒNG NGHĨA - TRÁI NGHĨA VÀ VẤN ĐỀ DẠY NGHĨA CỦA TỪ TRONG MỐI QUAN HỆ ĐỒNG NGHĨA - TRÁI NGHĨA Ở TIỂU HỌC KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC C N ô HÀ NỘI - 2014 ữ TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC ĐỖ THỊ HÀ ĐỒNG NGHĨA - TRÁI NGHĨA VÀ VẤN ĐỀ DẠY NGHĨA CỦA TỪ TRONG MỐI QUAN HỆ ĐỒNG NGHĨA - TRÁI NGHĨA Ở TIỂU HỌC KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC C N ô ữ N ười ướng dẫn khoa học TS. GVC ĐỖ THỊ THU HƯƠNG HÀ NỘI - 2014 LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình tới TS.GVC Đỗ Thị Thu Hƣơng, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận này. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu nhà trường, Ban Chủ nhiệm khoa, các thầy cô trong tổ Ngôn ngữ, khoa Ngữ văn - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện tốt nhất cho em được học tập và nghiên cứu tại trường. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 5 năm 2014 Tác giả khóa luận Đỗ Thị Hà LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của TS. GVC Đỗ Thị Thu Hƣơng. Khóa luận với đề tài Đồng nghĩa - trái nghĩa và vấn đề dạy nghĩa của từ trong mối quan hệ đồng nghĩa - trái nghĩa ở Tiểu học chưa từng được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào khác. Nếu có gì sai phạm, người viết sẽ chịu mọi hình thức kỉ luật theo đúng quy định của việc nghiên cứu khoa học. Hà Nội, tháng 5 năm 2014 Tác giả khóa luận Đỗ Thị Hà MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài......................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu.................................................................................. 3 4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 4 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 4 6. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 4 7. Bố cục khóa luận ........................................................................................ 5 Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ NGHĨA CỦA TỪ .................................. 6 1.1. Nghĩa của từ ............................................................................................ 6 1.1.1. Khái niệm về nghĩa của từ ................................................................ 6 1.1.2. Các thành phần nghĩa từ vựng của từ .............................................. 7 1.1.2.1. Nghĩa biểu vật ............................................................................. 7 1.1.2.2. Nghĩa biểu niệm.......................................................................... 8 1.1.2.3. Nghĩa biểu thái ............................................................................ 8 1.2. Các quan hệ ngữ nghĩa trong hệ thống từ vựng ...................................... 9 1.2.1. Đồng nghĩa........................................................................................ 9 1.2.1.1. Một số quan điểm về từ đồng nghĩa ........................................... 9 1.2.1.2. Phân loại từ đồng nghĩa ............................................................ 13 1.2.1.2.1. Đồng nghĩa hoàn toàn ........................................................ 13 1.2.1.2.2. Đồng nghĩa không hoàn toàn (đồng nghĩa khác nhau về sắc thái nghĩa)........................................................................................... 13 1.2.2. Trái nghĩa ........................................................................................... 17 1.2.2.1. Khái niệm.................................................................................. 17 1.2.2.2. Phân loại từ trái nghĩa ............................................................... 20 1.2.2.2.1. Trái nghĩa tuyệt đối ............................................................ 20 1.2.3. Quan hệ bao gồm - nằm trong ........................................................ 21 1.2.4. Quan hệ toàn thể - bộ phận ............................................................ 21 1.3. Quan niệm về từ đồng nghĩa, trái nghĩa trong SGK Tiếng Việt Tiểu học22 Chƣơng 2. VẤN ĐỀ DẠY NGHĨA CỦA TỪ TRONG MỐI QUAN HỆ ĐỒNG NGHĨA - TRÁI NGHĨA Ở TIỂU HỌC ......................................... 24 2.1. Số lượng bài .......................................................................................... 24 2.2. Cấu trúc bài ........................................................................................... 25 2.2.1. Cấu trúc bài lý thuyết...................................................................... 25 2.2.2. Cấu trúc bài thực hành ................................................................... 25 2.3. Dạy nghĩa của từ trong mối quan hệ đồng nghĩa - trái nghĩa ở Tiểu học . 26 2.3.1. Dạy kiểu bài mở rộng vốn từ trong mối quan hệ đồng nghĩa - trái nghĩa ......................................................................................................... 26 2.3.1.1. Dạng cấu trúc của kiểu bài về mở rộng vốn từ trong mối quan hệ đồng nghĩa - trái nghĩa ...................................................................... 26 2.3.1.2. Một số dạng bài tập thực hành.................................................. 31 2.3.2. Dạy từ đồng nghĩa, trái nghĩa ........................................................ 36 2.3.2.1. Cấu trúc bài dạy về từ đồng nghĩa ............................................ 36 2.3.2.2. Cấu trúc dạy bài trái nghĩa........................................................ 41 2.3.2.3. Một số dạng bài tập sử dụng từ đồng nghĩa, trái nghĩa ............ 45 KẾT LUẬN .................................................................................................... 55 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 57 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Ngữ nghĩa là một bình diện của ngôn ngữ bên cạnh những bình diện khác như ngữ pháp, ngữ âm, phong cách,... Dạy nghĩa của từ là một hoạt động không thể thiếu trong chương trình tiếng Việt ở phổ thông nói chung và chương trình Tiếng Việt bậc Tiểu học nói riêng. Mục tiêu đầu tiên của môn Tiếng Việt trong chương trình mới (sau năm 2000) là: “Hình thành và phát triển ở học sinh những kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong môi trường hoạt động lứa tuổi”.[7, 9] Điều này có nghĩa là chương trình Tiếng Việt giúp các em mở rộng và phát triển vốn từ, làm cho các em hiểu được nghĩa của từ, từ đó vận dụng vào giao tiếp và học tập. Về từ ngữ, các tác giả cuốn “Phương pháp dạy học Tiếng Việt” khẳng định: “Từ vựng là một trong các bộ phận của hệ thống ngôn ngữ, thiếu từ vựng thì không có bất cứ ngôn ngữ nào”.[1] Điều này lí giải tại sao việc dạy nghĩa của từ được coi là nhiệm vụ quan trọng trong chương trình dạy học Tiếng Việt tiểu học, lí giải tại sao việc mở rộng và phát triển vốn từ cho học sinh được chú trọng ngay từ bậc Tiểu học. Nghĩa của từ rất quan trọng, trong giao tiếp thông thường cả người phát (nói, viết) và người nhận (nghe, đọc) đều phải nắm được, hiểu được nghĩa của từ thì mới sử dụng từ một cách chuẩn xác, từ đó giao tiếp mới có hiệu quả. Dạy từ mà không cho học sinh hiểu từ, nắm được nghĩa của từ thì sẽ là một việc vô bổ vì như thế học sinh không biết dùng từ đã cung cấp. Hơn nữa môn Tiếng Việt đóng vai trò hết sức quan trọng, giúp trẻ chiếm lĩnh tri thức mới, hình thành và phát triển năng lực sử dụng tiếng Việt trong học tập và giao tiếp. Ngay từ bậc tiểu học, học sinh đã được chú trọng dạy từ, trong đó dạy nghĩa của từ, quan hệ ngữ nghĩa là nhiệm vụ rất là quan trọng. Đồng nghĩa trái nghĩa được đưa vào chương trình học của học sinh tiểu học nhằm giúp các em hiểu nghĩa của từ, xác định được từ đồng nghĩa, từ trái 1 nghĩa. Từ đó giúp các em sử dụng tốt ngôn ngữ dân tộc, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Với lí do thiết thực trên chúng tôi quyết định thực hiện đề tài “Đồng nghĩa - trái nghĩa và vấn đề dạy nghĩa của từ trong mối quan hệ đồng nghĩa trái nghĩa ở Tiểu học.” 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Về từ đồng nghĩa, trái nghĩa đã có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu. Ở đây chúng tôi xin điểm qua một vài công trình nghiên cứu trong nước về hiện tượng này. Tác giả Nguyễn Văn Tu khi nói về “Nghĩa của từ” ông đã dành hơn một trăm trang để bàn về đồng nghĩa và trái nghĩa. Theo tác giả: “từ đồng nghĩa là từ có những nghĩa giống nhau, đó là những tên khác nhau của cùng một hiện tượng...Những từ đồng nghĩa có một chỗ chung là việc định danh”, [11, 9] bàn về từ trái nghĩa tác giả nhất trí với khái niệm: “Từ trái nghĩa những từ có ý nghĩa đối lập nhau”. [11, 9] Trong cuốn: “Từ điển đồng nghĩa Tiếng Việt” Nguyễn Văn Tu đưa ra khái niệm đồng nghĩa một cách cụ thể: “Từ đồng nghĩa là những từ có ý nghĩa biểu đạt giống nhau hoặc gần giống nhau, có thể thay thế cho nhau trong một số ngữ cảnh. Nói rộng ra chúng là những từ chỉ cùng một khái niệm”.[ 12, 14] Thống nhất với quan điểm của những nhà nghiên cứu khác nhóm tác giả Dương Kỳ Đức (chủ biên), Nguyễn Văn Dự, Vũ Quang Hào cũng khẳng định bản chất của trái nghĩa là đối lập nhưng “Trái nghĩa là đối lập trong cùng một bản chất”. [8] Tác giả Đỗ Hữu Châu được coi là người có khám phá mới mẻ khi bàn về từ đồng nghĩa, trái nghĩa của Tiếng Việt. Ông đã kế thừa những thành quả nghiên cứu của những nhà nghiên cứu trước, đồng thời phát triển và khắc 2 phục những hạn chế còn tồn tại theo quan điểm truyền thống thành những khái niệm có cơ sở lí luận chặt chẽ và có tính thực tế cao. Theo ông: “Đồng nghĩa có phạm vi rộng khắp trong toàn bộ từ vựng và trước tiên những từ đồng nghĩa phải có chung ít nhất một nét nghĩa, hay chúng phải cùng một trường nghĩa”, ông khẳng định: “Một nét nghĩa rộng có thể được phân hóa một cách cực đoan thành hai cực ta có những từ trái nghĩa”.[2, 196, 215] Nhóm tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệm,... cũng bàn về đồng nghĩa, trái nghĩa. Khi bàn về vấn đề này, tác giả khẳng định: “Từ đồng nghĩa là từ tương đồng về nghĩa, khác nhau về sắc thái âm thanh và có đặc biệt với nhau về một vài sắc thái ngữ nghĩa hoặc sắc thái phong cách nào đó”. “Từ trái nghĩa là những từ có nghĩa đối lập nhau trong quan hệ tương liên”. [6, 195] Không đi sâu vào nghiên cứu từ đồng nghĩa, trái nghĩa trong Tiếng Việt nhưng nhóm tác giả Phan Thiều, Lê Hữu Tỉnh cũng đã đưa ra những khái niệm đồng nghĩa, trái nghĩa một cách khái quát trên cơ sở thống nhất với những ý kiến đi trước. Bên cạnh đó, các tác giả còn đưa ra một số lưu ý hướng dẫn học sinh làm bài tập về đồng nghĩa, trái nghĩa. Trong những công trình nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy hầu hết các công trình nghiên cứu này đều đã nghiên cứu trực tiếp về từ đồng nghĩa, trái nghĩa và đưa ra khái niệm về từ loại này. Xét về cơ bản chưa công trình nào nghiên cứu vấn đề đồng nghĩa - trái nghĩa và vấn đề dạy nghĩa của từ trong mối quan hệ của từ đồng nghĩa - trái nghĩa ở Tiểu học. Vì vậy chúng tôi có thể khẳng định rằng đề tài nghiên cứu của chúng tôi là một đề tài mới mẻ và cần thiết. 3. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở tìm hiểu nghĩa của từ trong mối quan hệ đồng nghĩa - trái nghĩa, đề tài nhằm mục đích đề xuất một số phương pháp dạy nghĩa của từ cho học sinh bậc Tiểu học. 3 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên khóa luận phải thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau: - Tổng hợp những vấn đề lý thuyết và thực tiễn để xây dựng được cơ sở lý luận cho đề tài. - Tìm các biện pháp dạy nghĩa của từ trong mối quan hệ đồng nghĩa - trái nghĩa ở Tiểu học. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động dạy nghĩa của từ trong mối quan hệ đồng nghĩa - trái nghĩa cho học sinh lớp 4, 5. 5.2. Phạm vi nghiên cứu hoạt động dạy học nghĩa của từ được giới hạn theo chuẩn kiến thức cần đạt được cho học sinh lớp 4, lớp 5 và hoạt động dạy học nghĩa của từ chỉ được tiến hành ở phạm vi các lớp từ đồng nghĩa, trái nghĩa. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Quá trình nghiên cứu đề tài này chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau: - Phương pháp thống kê: Tập hợp, thống kê kết quả các bài dạy về nghĩa của từ. - Phương pháp hệ thống: Chúng tôi sử dụng để hệ thống các từ đồng nghĩa, trái nghĩa, các bài dạy về nghĩa của từ. - Phương pháp phân tích - tổng hợp: + Phương pháp tổng hợp những tài liệu khoa học cần thiết để làm cơ sở lý thuyết cho đề tài. + Từ số liệu thống kê, tiến hành phân tích sơ liệu và đưa ra những nhận định, đánh giá và kết luận. Phân tích các tài liệu khoa học rồi hợp lại thành cơ sở lí luận của đề tài. 4 7. Bố cục khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khóa luận này gồm 2 chương cơ bản sau: Chương 1. Những vấn đề về nghĩa của từ. Chương 2. Vấn đề dạt nghĩa của từ trong mối quan hệ đồng nghĩa - trái nghĩa ở Tiểu học 5 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ NGHĨA CỦA TỪ 1.1. Nghĩa của từ 1.1.1. Khái niệm về nghĩa của từ Để trả lời câu hỏi “nghĩa của từ là gì ?”, trước hết phải trở lại với bản chất tín hiệu của từ. Từ tín hiệu, nó phải “nói lên”, phải đại diện cho, phải được người sử dụng quy chiếu về một cái gì đó. Mỗi khi học nghĩa của một từ, chúng ta đều học bằng cách liên hệ với những cái mà từ đó chỉ ra (trước hết là sự vật, hiện tượng, hành động hoặc thuộc tính... mà từ đó làm tên gọi cho nó). Mặt khác nghĩa của từ cũng được học thông qua hoặc liên quan tới vô vàn tình huống giao tiếp ngôn ngữ mà từ đó sử dụng. Nghĩa của từ là toàn bộ nội dung tinh thần mà một từ (hay một ngữ cố định) gợi ra khi chúng ta tiếp xúc với từ đó. Nhờ nghĩa của từ mà chúng ta kết hợp từ với từ để tạo nên nghĩa của câu và nhờ nghĩa của từ trong một câu mà chúng ta hiểu được câu đó. Trong một đơn vị từ vựng người ta phân chia thành hai lớp nghĩa: Lớp nghĩa bên ngoài (nghĩa liên hội) và lớp nghĩa bên trong (nghĩa cấu trúc, nghĩa ngữ pháp). Lớp nghĩa bên ngoài được hình thành trong mối quan hệ với xã hội, lịch sử, dân tộc, thời đại và cá nhân người sử dụng ngôn ngữ. Cụ thể mỗi từ khi đưa vào sử dụng thì trong quá trình sử dụng ấy đã hình thành một lớp nghĩa bao quanh mỗi từ. Nhờ có lớp nghĩa này mà từ mới thực sự trở thành cụ thể sinh động. Mỗi dân tộc hầu như có một ngôn ngữ, tính chất cư trú trên những vị trí địa lí khác nhau, phong tục tập quán khác nhau... Tất cả những cái khác nhau ấy tạo nên ý nghĩa bên ngoài của từ khác nhau. Ý nghĩa bên ngoài ấy lại có thể thay đổi theo từng thời đại và cũng có thể được mỗi cá nhân sử dụng với ý nghĩa khác nhau do vốn ngôn ngữ khác nhau. 6 Nghĩa bên trong: đây là lớp nghĩa đối lập với lớp nghĩa bên ngoài, lớp nghĩa này có tính bền vững, ít thay đổi, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Lớp nghĩa bên trong gồm hai loại, đó là nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp. Ý nghĩa từ vựng là ý nghĩa riêng của từng từ, không lặp lại ở từ khác. Nghĩa từ vựng bao gồm nghĩa biểu niệm, nghĩa biểu vật, nghĩa biểu thái. Nghĩa ngữ pháp là ý nghĩa chung cho nhiều từ cùng loại và liên quan đến chức năng tạo câu. Nghĩa này có thể quy về các phạm trù như: giống, số, cách, ngôi, thời, thể, thức hay các phạm trù: danh, tính, số từ… Như vậy, muốn hiểu được nghĩa của từ phải đối chiếu từ với các hoạt động giao tiếp, với các chức năng tín hiệu học của từ, phải nắm được ý nghĩa riêng của từ đó là nghĩa từ vựng và ý nghĩa chung của từ đó là nghĩa ngữ pháp. Trong phần nghiên cứu này ta chỉ đi tìm hiểu ý nghĩa riêng của từ. Vì vậy trong phần này chúng tôi chỉ đề cập đền phần ý nghĩa từ vựng. 1.1.2. Các thành phần nghĩa từ vựng của từ 1.1.2.1. Nghĩa biểu vật Ý nghĩa biểu vật bắt nguồn từ chức năng biểu vật của từ. Nghĩa biểu vật là nghĩa gọi tên các loại sự vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất, hoạt động, … theo lối tổng hợp tính, nghĩa là gọi tên không lý do. Khi nghiên cứu nghĩa biểu vật của từ phải đặt từ vào mối liên hệ với thực tế khách quan. Bởi vì đó là những “mẩu”, những “mảnh”, những “đoạn cắt” của thực tế nhưng không hoàn toàn trùng với thực tế khách quan, giữa từ với thực tế khách quan ít có sự tương ứng 1 - 1, cùng với một sự vật nhưng có rất nhiều tên gọi hoặc cùng một từ nhưng chỉ nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau. Các từ trong Tiếng Việt có ý nghĩa biểu vật rộng, có từ có ý nghĩa biểu vật hẹp. Những từ có ý nghĩa biểu vật rộng là những từ có ý nghĩa khái quát và có thể gọi tên được nhiều sự vật, hiện tượng đó là những từ đơn âm tiết, từ 7 ghép (nhà cửa, ruộng nương...), láy cá thể (máy móc, chim chóc, tiệc tùng,...). Những từ mang ý nghĩa biểu vật hẹp là những từ chỉ gọi tên được một hay một số ít các sự vật, hiện tượng, đó là các từ ghép phân nghĩa (xe đạp, xe máy,...) láy sắc thái hóa (xanh xao, vàng vọt,...) 1.1.2.2. Nghĩa biểu niệm Nghĩa biểu niệm là liên hệ giữa từ với ý (hoặc ý nghĩa, ý niệm). Cái ý đó người ta gọi là cái biểu niệm (sự phản ánh các thuộc tính của biểu niệm và ý thức của con người). Nghĩa biểu niệm bắt nguồn từ chức năng biểu niệm của từ. Nghĩa biểu niệm là nghĩa biểu thị khái niệm về sự vật, hiện tượng của thực tế khách quan. Mỗi sự vật, hiện tượng được nhận thức bằng tư duy thông qua những dấu hiệu của nó và được phản ánh bằng ngôn ngữ thành các ý nghĩa biểu vật (được gọi tên), từ ý nghĩa biểu vật sẽ có một ý nghĩa biểu niệm tương ứng. Khi nghiên cứu ý nghĩa biểu niệm phải đặt trong mối quan hệ với các dấu hiệu của khái niệm. Như vậy gọi tên theo lối biểu niệm là gọi tên có lí do. Ví dụ: Sự vật có mặt phẳng, làm bằng nguyên liệu rắn, có chân, dùng để viết: là cái bàn. 1.1.2.3. Nghĩa biểu thái Ngoài hai thành phần nghĩa biểu vật và nghĩa biểu niệm, khi xác định nghĩa của từ người ta còn phân biệt một thành phần nghĩa nữa, đó là nghĩa ngữ dụng hay còn gọi là nghĩa biểu thái, nghĩa hàm chỉ. Nghĩa biểu thái (nghĩa ngữ dụng, nghĩa hàm chỉ) bắt nguồn từ chức năng biểu thái của từ, nó biểu thị thái độ, tình cảm, cách đánh giá của người sử dụng ngôn ngữ đối với sự vật được gọi tên. Như vậy, nghiên cứu nghĩa biểu thái, nó đặt trong mối quan hệ với người sử dụng ngôn ngữ, biểu hiện thái độ: người ta ứng xử thế nào trước một sự vật gọi tên; ở các cung bậc tình cảm: vui, buồn, yêu, ghét, lo, sầu,...; ở trong cách 8 đánh giá: con người đánh giá như thế nào trước một sự vật hiện tượng trong thực tế khách quan. Trong hệ thống từ vựng, nghĩa biểu thái của từ cũng biểu hiện không đồng đều giữa các từ: những từ có ý nghĩa biểu thái cao nhất là các từ cảm, các trợ từ: ái, ối, ôi, a, chao ôi, khiếp,...; những từ có ý nghĩa biểu thái thấp hơn các nhóm từ vừa có ý nghĩa định danh vừa có ý nghĩa biểu thái, đó là những từ ghép, láy sắc thái hóa và một số từ đơn có ý nghĩa biểu thái, Ví dụ: lom khom, tập tễnh, khấp khiểng, đỏ lòm,... Nhóm từ có ý nghĩa sắc thái hóa thấp nhất là nhóm từ có nghĩa định danh thông thường. Muốn tìm hiểu ý nghĩa sắc thái hóa của những từ định danh thông thường thì phải đặt nó trong mối quan hệ với dãy đồng nghĩa để ta so sánh từ này với từ kia, xét nó ở mức độ nào. Ví dụ: dãy đồng nghĩa: đi, chuồn, phắn, lặn,... Như vậy, nghĩa của từ có ba thành phần nghĩa: nghĩa biểu vật gọi tên sự vật bên ngoài (khách quan), cụ thể; nghĩa biểu niệm chỉ khái niệm bên trong (bản chất), trừu tượng; nghĩa biểu thái chỉ ý nghĩa đi kèm thái độ, cảm xúc của người dùng. Cả ba nghĩa đều quan trọng, không có nghĩa nào quan trọng hơn cả, nó là ba mặt của một vấn đề, có vai trò như nhau và liên hệ với nhau. 1.2. Các quan hệ ngữ nghĩa trong hệ thống từ vựng 1.2.1. Đồng nghĩa Đồng nghĩa trước hết là một loại quan hệ giữa các từ trong trường nghĩa như quan hệ cấp loại, quan hệ toàn thể - bộ phận. Các đơn vị từ vựng trong một trường nghĩa có những nét nghĩa đồng nhất, chủ yếu là nét nghĩa biểu niệm, thì có quan hệ đồng nghĩa với nhau. 1.2.1.1. Một số quan điểm về từ đồng nghĩa Đồng nghĩa là một hiện tượng diễn ra phổ biến trong các ngôn ngữ nói chung và trong tiếng Việt nói riêng. Tuy nhiên cho đến nay quan niệm về hiện tượng này chưa phải đã thống nhất. 9 * Quan niệm về từ đồng nghĩa của các nhà ngôn ngữ học trên thế giới P.A.Budagov đã đưa ra quan điểm của mình: “Từ đồng nghĩa là những từ gần về nghĩa, nhưng khác nhau về âm thanh, biểu thị các sắc thái của một khái niệm” [9]. N. Ibragimốp đã đưa ra quan niệm về từ đồng nghĩa như sau: “Các tên gọi của cùng một sự vật ở những quan hệ khác nhau của nó - chính là các từ có ý nghĩa chung với nhau và riêng cho từng từ” [14] Ibragimốp đã coi các từ đồng nghĩa là bằng chứng về sự phong phú của ngôn ngữ, là phương tiện để tránh sự trùng lặp, sự diễn đạt được thi vận, để cải tiến về lối văn và và sự khu biệt về phong cách. Như vậy, các nhà nghiên cứu đã đưa ra một quan niệm thống nhất về từ đồng nghĩa: Các từ đồng nghĩa được định nghĩa là các từ gần gũi nhưng không đồng nhất về ý nghĩa. Các học giả cũng xác định rằng các từ đồng nghĩa là chỉ tố về tính chất đã phát triển của một ngôn ngữ, là chỉ tố về sự phong phú, uyển chuyển của nó và các từ đồng nghĩa là để phục vụ cho sự đa dạng hóa trong cách biểu hiện tư tưởng. Đồng thời nó còn là sự khu biệt về mặt phong cách, về mức độ đặc trưng, về khả năng kết hợp với phạm vi từ nào đó, và những từ đồng nghĩa là những từ có ý nghĩa trừu tượng. Các từ đồng nghĩa cũng được xem là những từ biểu thị cùng một hiện tượng của một hiện thực khách quan, nhưng khác nhau về sắc thái ý nghĩa, thuộc tính phong cách...Theo đó có một số quan điểm tiêu biểu như sau: Cũng bàn về từ đồng nghĩa V.N.Kliueva định nghĩa là “Các từ - khái niệm phản ánh bản chất của một hiện tượng của hiện thực khác quan, khu biệt bởi những sắc thái ý nghĩa bổ sung và phục vụ không chỉ cho việc thay thế nhau mà còn để chính xác hóa tư tưởng, thái độ của chúng ta đối với ngôn ngữ” [14]. 10 E.M. Gankina - Fêđôrúc đã định nghĩa từ đồng nghĩa là “Các từ có âm khác nhau, gọi tên cùng một đối tượng, được thống nhất bằng khái niệm chung, nhưng có sắc thái ý nghĩa nhất định” [14]. Nói tóm lại, các quan điểm trên về từ đồng nghĩa đã cho thấy được sự đa dạng của các quan niệm, các định nghĩa về từ đồng nghĩa trong các công trình, các tài liệu, bài viết.... Trong đó, tập trung vào hai quan niệm cơ bản. Quan niệm thứ nhất: các từ đồng nghĩa là những từ có âm khác nhau, gần gũi nhưng không đồng nhất về ý nghĩa của chúng. Quan niệm thứ hai: các từ đồng nghĩa là những từ biểu thị cùng một hiện tượng của một hiện thực khách quan nhưng khác nhau về sắc thái ý nghĩa, thuộc tính phong cách.... * Quan niệm về từ đồng nghĩa của các nhà Việt ngữ học Cho đến nay, không chỉ trong các sách ngôn ngữ học ở nước ngoài, mà trong các tài liệu Việt ngữ học cũng đưa ra rất nhiều những quan niệm khác nhau về từ đồng nghĩa. Theo tác giả Đỗ Hữu Châu: “Trong vốn từ học của bất cứ một ngôn ngữ nào cũng thường có những từ mặc dù hình thức ngữ âm hoàn toàn khác nhau nhưng từ nghĩa lại giống nhau do đó trong nhiều hoàn cảnh ngôn ngữ cụ thể có thể thay thế cho nhau được. Những từ này là những từ đồng nghĩa” [3, 63]. Ở định nghĩa này tác giả đã nêu ra những đặc điểm của từ đồng nghĩa: hình thức ngữ âm khác nhau, từ nghĩa giống nhau, có thể thay thế cho nhau trong nhiều hoàn cảnh. Tuy nhiên tác giả lại chưa nói rõ sự giống nhau về ý nghĩa của các từ đến mức nào thì mới được gọi là đồng nghĩa. Trên cơ sở đó, Đỗ Hữu Châu đã đưa ra quan niệm mới: “Hiện tượng đồng nghĩa là hiên tượng có nhiều mức độ tùy theo số lượng các nét nghĩa chung trong các từ. Mức độ đồng nghĩa thấp nhất khi các từ ngữ có chung một nét nghĩa chung (nét nghĩa phạm trù). Số lượng các nét nghĩa đồng nhất tăng lên thì từ càng 11 đồng nghĩa với nhau. Mức độ đồng nghĩa cao nhất xảy ra khi các từ đã có tất cả các nét nghĩa hoặc đại bộ phận các nét nghĩa trùng nhau, chỉ khác nhau ở một hoặc một vài nét cụ thể nào đó”. [4, 184] Phó Giáo sư Nguyễn Văn Tu đã đưa ra một định nghĩa và quan niệm của mình về đồng nghĩa: “Những từ đồng nghĩa là những từ có nghĩa giống nhau. Đó là nhiều từ khác nhau cùng chỉ một sự vật, một đặc tính, một hành động nào đó. Đó là những tên khác nhau của một hiện tượng. Những từ đồng nghĩa có một chỗ chung là định danh”. [13, 95] Về sau, tác giả Nguyễn Văn Tu đã nêu cụ thể và mở rộng hơn quan niệm của mình về từ đồng nghĩa: “Thực ra những từ đồng nghĩa là những từ của một thứ tiếng có nghĩa biểu đạt giống nhau hoặc gần giống nhau, có thể thay thế cho nhau trong một số ngữ cảnh nhất định nhưng có khác nhau về sắc thái tình cảm, về giá trị gợi cảm, về phong cách, phạm vi sử dụng...Đó là những từ khác nhau cùng chỉ một sự vật, một đặc tính, một hành động nào đó. Đó là những tên khác nhau cùng của một hiện tượng. Những từ này có điểm chung về chức năng định danh. Nói rộng ra, những từ đồng nghĩa là những từ cùng chỉ một khái niệm”. [12, 13, 14] Nguyễn Thiện Giáp đã đưa ra quan niệm của mình về hiện tượng đồng nghĩa dựa trên định nghĩa của P.A.Buđagốp như sau: “Trong hệ thống ngôn ngữ, nói đến hiện tượng đồng nghĩa là phải nói đến sự giống nhau của các nghĩa sở biểu. Vì vậy, chúng tôi tán thành quan niệm cho từ đồng nghĩa là những từ gần nhau về nghĩa, về âm thanh, biểu thị các sắc thái của một khái niệm”. [10, 222] Trên đây là một số quan niêm tiêu biểu của các tác giả khi nghiên cứu về hiện tượng đồng nghĩa. Những ý kiến xác đáng này là cơ sở để chúng tôi có thể lựa chọn được một định nghĩa đúng đắn nhất về từ đồng nghĩa. 12 1.2.1.2. Phân loại từ đồng nghĩa Dựa vào mức độ giống nhau về nét nghĩa giữa các từ đồng nghĩa, có thể chia đồng nghĩa ra thành các loại: 1.2.1.2.1. Đồng nghĩa hoàn toàn Là những từ đồng nghĩa đồng nhất về ý nghĩa biểu vật, ý nghĩa biểu niệm và cả nghĩa biểu thái cũng như phạm vi sử dụng của chúng mặc dù chúng có thể khác nhau về phương ngữ. Ví dụ: (máy bay, phi cơ, trực thăng lên thẳng; xe lửa, xe hỏa, (gọi) điện thoại, phone)... là những từ đồng nghĩa hoàn toàn trong tiếng Việt nói chung. Lợn, heo; lạc, đậu phộng; mũ, nón; bát, chén; có chửa, có nghén, có mang, có bầu (mang bầu); túi, bịch, rẽ, quẹo; ngã, té; bắt chước, nhái...là những cặp từ ngữ đồng nghĩa hoàn toàn, khác nhau về tính địa phương. Ðây là hiện tượng đồng nghĩa giữa các từ do sự song tồn giữa: - Từ cũ và từ mới. (Trăng - nguyệt - chị hằng - gương nga ; trực thăng máy bay lên thẳng; xe lửa - tàu hỏa - hoả xa; phi cơ - máy bay;…) - Từ địa phương và từ toàn dân. (Cha - bố - tiá; mẹ - me - má - u; thấy chộ; xa - ngái; cô- ả - o;…) - Từ thuần Việt và từ vay mượn (người bệnh - bệnh nhân; dùng - sử dụng). -Thuật ngữ và từ thường. (trần bì - vỏ quýt; lưu huỳnh - diêm sinh , phốt pho - lân, …) 1.2.1.2.2. Đồng nghĩa không hoàn toàn (đồng nghĩa khác nhau về sắc thái nghĩa) Từ đồng nghĩa sắc thái. Đây là hiện tượng đồng nghĩa giữa các từ khác nhau nhiều hay ít ngay trong các thành phần ý nghĩa của chúng. Chúng có thể khác nhau về sắc thái, biểu thái. Dưới đây là ví dụ về các từ có sắc thái biểu thái khác nhau. Trong mỗi nhóm, các từ được sắp xếp theo trật tự từ trái qua phải, phản ánh các mức độ biểu thái tích cực đến tiêu cựu qua các từ trung hòa về biểu thái. 13 Hi sinh, từ trần, tạ thế, trăm tuổi, khuất núi, về với tổ tiên, qua đời, mất đi, nhắm mắt, tắt nghỉ, tắt thở, chết, thiệt mạng, bỏ mạng, bỏ xác, toi mạng, toi xác, mất mạng, ngoẻo, củ từ, ăn đất, ngủ với giun,... Trình, bẩm, trình bày, bày tỏ, phát biểu, nói, mở miệng, khua lưỡi, múa lưỡi, múa miệng, múa mép, ba hoa thiên đế, ba hoa, tán,... Lập luận, lí luận, lí lẽ lời lẽ - luận điệu, giọng điệu, giọng lưỡi, miệng lưỡi, mồm mép,... Thấp kém, tồi, tồi tệ, xấu, đê hèn, hèn hạ, ti tiện, bỉ ổi,... Nên chú ý phân biệt những từ đồng nghĩa biểu thái chân thực, tức là những từ tự chúng đã mang một sắc thái biểu đạt nào đấy với những từ mang sắc thái biểu thái tạm thời, do chuyển hóa chức năng biểu thái trong ngôn cảnh. Từ đồng nghĩa biểu niệm Đây là những từ đồng nghĩa khác nhau ở một hoặc một vài nét nghĩa nào đó. Như đã nói, các từ đồng nghĩa biểu niệm thường khác nhau về ý nghĩa biểu vật. Một vấn đề rất lớn là làm thế nào để phân biệt được những sự đối lập về nghĩa trong các từ đồng nghĩa này. Nếu đã dựa vào các trường nghĩa để xác định các hiện tượng đồng nghĩa thì có thể đưa ra những gợi ý bước đầu như sau: a) Đặt cho đúng các từ vào các trường (hoặc trường nhỏ, hoặc nhóm nghĩa trong trường nhỏ) thích đáng. Các cấu trúc biểu niệm chung cho trường hay cho nhóm nghĩa là những gợi ý giúp ta thấy được sự khác nhau căn bản giữa hai từ. Ví dụ: Với các cấu trúc biểu niệm “tính chất của trí tuệ”, “tính chất của vẻ bề ngoài biểu hiện tính chất, trạng thái,... tâm lý”, chúng ta có thể thấy ngay được sự khác nhau giữa sáng suốt và sáng sủa. Sáng suốt là từ thuộc 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất