Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Kỹ thuật - Công nghệ đói nghèo, di dân và đô thị hóa đời sống thường ngày của một phường ngoài đê sô...

Tài liệu đói nghèo, di dân và đô thị hóa đời sống thường ngày của một phường ngoài đê sông hồng, hà nội

.PDF
135
10
110

Mô tả:

: KHOA – 2009 : : : 60 22 70 - 2009 BẢNG BIỂU Trang 4/2009 28 30 4/2009 32 34 2) m 34 ở 40 ng 7 85 8 88 ) Trang Sơ đồ cấu trúc m , một Sơ đồ c một ) bình dân (Mô hình 42 Sơ đồ c một ) bình dân (Mô hình nhà 44 (Mô hình 42 ) (theo tháng) ở 45 á Sơ đồ bình dân (theo ngày) Sơ đồ nhà (mô hình 46 47 ) Sơ đồ cấu trúc m mùa vụ Sơ đồ H tạm của dân di cư theo của dân sở tại (mô hình ) Sơ đồ cấu trúc nhà một ngôi 48 57 của dân sở tại (mô hình 58 u trúc mặt bằng một ngôi nhà của dân sở tại (mô hình 60 Trang 1 18 18 1954 1.2. Phúc Xá dưới thời bao cấp và đêm trước của Đổi mới (1954 – 1990) 21 24 ) và 35 37 37 53 2.3. Ứng xử 2.4. Thế giới ngầm 61 71 76 2.5. Tiểu kết 79 – 3.2. Cuộc sống của người lao động ngoại tỉnh 79 92 101 103 107 DẪN LUẬN 1. khoa học và thực tiễn của đề tài Đô thị hoá, di dân tự do và đô thị . Quan niệm cho rằng phát triển kinh tế và đô thị hóa sẽ giảm nghèo đói đô thị và ổn định dòng dân di trú khi mà trên thực tế, cùng với phát triển kinh tế và đô thị hoá là sự gia tăng của nghèo đói và dòng di dân nông thôn về các đô thị. Hiện trạng thập niên 80 trở về đây khi tiến hành chính sách phát triển một nền kinh tế mở hơn và năng động hơn. nghèo Trước Đổi mới (1986) . Những nhà hoạch định chính sách những năm 1960-1980 đã cố gắng giảm thiểu sự khác biệt giữa thị dân và nông hạn chế dòng dân số về các thành phố và hướng dòng di dân tới các khu công nghiệp và các làng kinh tế mới ở miền núi và hải đảo. Vì vậy quá trình đô thị hoá ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng phát triển chậm chạp. Tỷ lệ dân đô thị năm 1960 là 15%, đến trước năm 1986, tỷ lệ này mới chỉ đạt 19% [Viện Xã hội học, 2003]. Sau năm 1986, Việt Nam phát triển nền kinh tế thị trường. Như là hệ quả của sự phát triển, Việt Nam chứng kiến sự mở rộng nhanh chóng của các đô thị, quá t dòng người từ các vùng nông thôn đổ về các thành phố một giải pháp cho chiến lược sinh tồn của . Hà Nội, với vai trò thủ đô và là đầu tầu kinh tế các tỉnh phía bắc, đã bắt đầu một thời kỳ đô thị hóa nhanh và mạnh. hóa ở Hà Nội thời hiện đại không diễn ra đồ . Ngược lại, quá trình này đang diễn ra dưới những hình thức, mức độ và quy mô khác nhau. Có thể khái quát hóa ở Hà Nội hiện nay theo bốn mô hình chính: 1) Sự hình thành của các khu công nghiệp ở các vùng ngoại vi; 2) Sự phát triển các khu đô thị mới theo quy hoạch; 3) Quá trình mở rộng thành phố lên các làng cổ truyền và sự bao gồm các làng ven đô vào khu vực nội thị; 4) Sự xuất hiện và tồn tại của các xóm liều, xóm ma, xóm nhảy dù, gọi chung là các khu cư trú bất hợp pháp của dân di cư nghèo từ vùng n về Hà Nội. Mỗi mô hình đô thị hóa 2 có những đặc điểm riêng về dân số học, kiến trúc, cơ sở hạ tầng, mức sống, văn hóa tiêu dùng và cách ứng xử khác nhau. Hiện nay Hà Nội có 11 khu công nghiệp và chế xuất. Theo quyết định của thủ tướng chính phủ ký tháng 1/2009, trong tương lai Hà Nội sẽ có 30 khu công nghiệp - chế xuất chủ yếu nằm ở vùng ven đô, ngoại thành. Các khu vực này là điểm thu hút dân cư từ các vùng nông thôn ven Hà Nội và các tỉnh lân cận. Dân cư chủ yếu là trẻ, gồm 2 nhóm chính: công nhân trực tiếp làm việc trong khu công nghiệp và những người làm dịch vụ, hình thành xung quanh Hà Nội các khu công nghiệp – đô thị. Mặc dù cơ cấu kinh tế của khu vực này chủ yếu là công nghiệp và dịch vụ nhưng lối sống lại mang nhiều đặc điểm nông thôn bởi cư dân ở đây chủ yếu là những người lao động từ nông thôn. Hiện nay nhiều vấn đề quan ngại đang được đặt ra ở khu vực này như vấn đề về điều kiện sống, về môi trường, về vệ sinh, và tệ nạn xã hội. Đặc biệt nhiều nghiên cứu đang chú ý đến các nguy cơ lạm dụng tình dục các nữ công nhân và vấn đề nhiễm HIV đang gia tăng ở khu vực này. , Hà Nội sau Đổi mới trở thành trung tâm đầu tư kinh tế của nhà nước cũng như là địa bàn thu hút vốn đầu tư nước ngoài cao. Các doanh nghiệp nhà và hàng loạt công ty mới được thành lập đã thu hút một đội ngũ đông đảo lao động trí thức có trình độ học vấn và chuyên môn. Nhà ở cho tầng lớp này trở thành vấn đề cấp bách. Chính quyền thành phố đưa ra giải pháp xây dựng các khu đô thị mới trên phần đất của các khu tập thể cũ từ thập niên 60 – 70 hoặc trên các khu đất trống, đất ruộng trước đây của thành phố. Phải kể đến khu đô thị mới Bắc Thăng Long, khu Mỹ Đình, khu Định Công... Cư dân của khu vực này chủ yếu là cán bộ, công nhân viên chức có công việc ổn định với mức thu nhập tương đối so với mặt bằng chung của xã hội. Họ là tầng lớp trung lưu trong xã hội, có ảnh hưởng lớn trong việc định hướng xu thế văn hoá, tư tưởng và lối sống đô thị. Bên cạnh đó, đặc biệt là thập niên gần đây, Hà Nội chứng kiến sự mở rộng nhanh chóng về quy mô diện tích. Các làng truyền thống vùng ven bỗng chốc được bao gồm vào khu vực nội thị như làng Phú Mỹ, làng Mễ Trì, làng Vòng, Quảng Bá... Dân cư của khu vực này chủ yếu trước đây làm nông nghiệp. Khi chính quyền thành phố lấy đất xây dựng các khu công nghiệp hay các khu đô thị mới, họ được hưởng một khoản tiền đền bù lớn nhưng lại không còn đất để sản xuất. Một nghịch lý là mặc dù sống trong những ngôi 3 nhà cao tầng giàu có xây từ tiền đền bù đất, nhưng người dân lại không có việc làm. iệc làm chuyển đổi trở thành vấn đề bức xúc. Việc chuyển đổi “từ làng lên phố” đã kéo theo nhiều biến đổi về lối sống, đặc biệt là nhiều hệ luỵ về văn hoá, xã hội. Một đô thị hoá đ Hà Nội hiện nay là sự hình thành các khu cư trú tự phát của người lao động di dân từ nông thôn ra Hà Nội kiếm sống và một bộ phận những thị dân nghèo. Hà Nội, vốn đã là trung tâm gắn kết đô thị và các làng nông nghiệp của khu vực đồng bằng Bắc bộ, dưới tác động của kinh tế thị trường và chính sách nới lỏng quản lý dân cư theo hộ khẩu, đã trở thành trung tâm thu hút lao động nông thôn từ các tỉnh đồng bằng Bắc bộ. Theo khảo sát của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, từ sau năm 1986, bình quân Hà Nội mỗi năm tăng 55 ngàn người, trong đó tăng do dân nhập cư chiếm 22 ngàn người. Số người nhập cư vào Hà Nội cao hơn số xuất cư 5 lần. [Trung tâm Dân số và Nguồn lao động, 1997: 2]. Song song với đó là sự gia tăng của nghèo đói đô thị. Cũng theo Bộ Lao động, khoảng 3% đến 5% số hộ gia đình ở khu vực Hà Nội sống dưới mức nghèo đói (dưới 250.000đ/người/tháng). Tuy nhiên, tỷ lệ này không bao gồm nhóm những người di dân không đăng ký hộ khẩu ở thành phố và một số lượng đông đảo những hộ gia đình được xếp vào diện “có thu nhập thấp” [Viện Xã hội học, 2003]. Những người này thường tìm đến những khu đất bỏ hoang, bến sông, gầm cầu làm nơi cư trú. Trong vòng hơn hai thập kỷ gần đây hàng loạt khu cư trú nghèo khổ như vậy ra đời và mở rộng trên địa bàn Hà Nội, mà các phương tiện thông tin đại chúng thường gọi là “xóm liều”. Người dân “xóm liều” bị coi là những người sống bất chấp pháp luật, sống trong những ngôi nhà tồi tàn và tạm bợ; bị hạn chế tiếp cận với các dịch vụ xã hội tối thiểu. Theo cách hiểu này, xóm liều ở Hà Nội thường tìm thấy ở các khu vực ven sông Hồng, gầm cầu Long Biên, “bãi rác” Thanh Nhàn, Thành Công và những khu vực khác ở ngoại ô quận Thanh Xuân, Hoàng Mai, Cầu Giấy [Nguyễn Văn Chính, 2009: 247]. Mặc dù, lâu dần các khu vực này tạo thành các phường đô thị và được chấp nhận trên thực tế nhưng chúng vẫn bị coi là nơi tụ cư của đói nghèo, của di dân và các vấn đề xã hội phức tạp. Như vậy, tìm hiểu đời sống của “xóm liều” t sẽ giúp ta có cái nhìn sâu hơn về mối quan hệ của đói nghèo, đô thị hoá và di dân trên địa bàn Hà Nội hiện nay. un 4 bi 36 ph - . Năm 2010, Thăng Lon - - ? : .”1 1 http://vietnamnet.vn/chinhtri/201001/Tam-tru-5-nam-moi-mong-thanh-nguoi-Thu-do-889934/ 5 .B , công luận .2 . 3 4 2 .net :“ , http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Xa-hoi/2010/01/3BA18258/?p=5 , http://www.sgtt.com.vn/Detail33.aspx?ColumnId=33&newsid=61948&fld=HTMG/2010/0117/61948 3 http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%AA_s%C3%B4ng_H%E1%BB%93ng 4 : http://www.vnexpress.net/GL/Kinh-doanh/Bat-Dong-san/2009/09/3BA13A08/ . 6 . này trên cơ sở nghiên cứu về mạng lưới kinh tế - xã hội của chợ đô thị trường hợp chợ Long Biên - Hà Nội năm 2005. Nghiên cứu khám phá kinh tế, giao lưu hàng hoá và mạng lưới xã hội đa dạng và nhiều chiều của chợ đô thị trong đó đặc biệt là vai trò cầu nối kinh tế, văn hoá, và xã hội giữa nông thôn với thành thị, giữa các đô thị nhỏ và đô thị trung tâm chợ đô thị. Đặc biệt rằng tham góp vào hoạt động kinh tế và mạng lưới xã hội của chợ có vai trò rất lớn của những người lao động di cư từ nông thôn. Họ làm những công việc thuộc khu vực phi chính thức xung quanh chợ như buôn bán các mặt hàng ăn uống, dịch vụ cho cư dân chợ, vận chuyển hàng hoá ra vào chợ, bán hàng rong xung quanh khu vực chợ có vai trò rất lớn duy trì đời sống sôi động của chợ đầu mối hàng nông sản lớn nhất miền Bắc Việt Nam. Những người lao động này sống chủ yếu ở khu vực gầm cầu Long Biên thuộc phường Phúc Xá - nơi vẫn bị coi là khu vực nghèo khổ nhất Hà Nội với những khu nhà ổ chuột, cơ sở hạ tầng và hệ thống dịch vụ thấp kém. Những người lao động ở đây được chính quyền t KT4 . Họ không có hộ khẩu, không được hưởng các dịch vụ y tế, bảo hiểm xã hội, con cái không được đi học, và nói chung họ bị loại ra khỏi các hoạt động văn hoá, xã hội, chính trị của . Tuy nhiên, người lao động ở đây không thụ động chấp nhận nghèo đói, họ có những chiến lược tự cải thiện đời sống, tạo ra bảo hiểm dự trữ bằng việc xây dựng mạng lưới xã hội theo nghề nghiệp, hoàn cảnh, quê quán và thân tộc. có một mối liên hệ giữa nghèo khổ ở Hà Nội với dòng di dân từ nông thôn ra thành phố kiếm sống và thực trạng đô thị hoá đang diễn ra hiện nay ở Hà Nội. 7 đói nghèo, di dân và đô thị hoá . Nghiên cứu là một mô tả dân tộc học về đời sống của phường Phúc Xá, một phường nằm ở ngoài đê sông Hồng, nơi vẫn bị coi là điểm nóng ma tuý, tệ nạn xã hội và nghèo đói. Nghiên cứu lấy “phường” làm bối cảnh nghiên cứu bởi phường là đơn vị hành chính nhỏ nhất của đô thị. Đây có thể coi là cấp trung gian giữa nhà nước và người dân nơi đô thị. Bởi vậy, „„phường‟‟ đồng thời cũng là một không gian xã hội đặc trưng của một thành phố. Khi nghiên cứu nông thôn, các nhà nghiên cứu tập trung tìm hiểu “làng” như một hạt nhân để hiểu đời sống kinh tế, văn hoá và các ... và các đặc trưng văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần của làng, cũng như những Nam thời hiện đại. Tiếc rằng, đặt trong so sánh với “làng”, với nông thôn, các nghiên , luận văn . 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Trong những năm gần đây, tốc độ đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ cùng với việc gia tăng không ngừng về số lượng và tác động của di dân nông thôn - đô thị và nghèo đô thị đã được quan tâm nhiều trong giới khoa học i. Những nước đang phát triển thu hút sự chú ý đặc biệt của các nhà khoa học. nông thôn . Ý nghĩa, tác động của di dân đến đói nghèo đô thị chìa khoá để hiểu bản chất của mối quan hệ giữa di dân từ nông thôn và đói nghèo đô thị. Xoay quanh vấn đề này tồn tại hai ý kiến trái ngược nhau: một số 8 người cho rằng di dân là nguồn gốc của nghèo đói đô thị; một số khác lại cho di dân góp phần giảm nghèo đói ở cả đô thị và nông thôn. Theo quan điểm thứ nhất, trên cơ sở của mô hình hành vi kinh tế, Todaro [1976] cho rằng di dân từ nông thôn ra đô thị phản ánh tư tưởng mong muốn cá nhân, nó ngụ ý là dòng di cư này “bị mù tương đối” và vì thế người nông dân dễ lâm vào tình cảnh thất nghiệp mới, tăng tỷ lệ thất nghiệp của đô thị. Lập luận kinh điển của ông là: đói nghèo được đưa từ nông thôn đến thành thị thông qua dòng di dân. Cùng quan điểm này, khi xét tác động của di dân đến đời sống đô thị, Jone [1985] cho rằng những cộng đồng ở nơi đến có thể phải chịu một số tác động xấu của di cư như là sự thiếu hụt các dịch vụ xã hội, sự tăng lương chậm bởi lao động tràn ngập thị thành, tệ nạn tội phạm và các vấn đề xã hội cũng tăng theo - những biểu hiện của tình trạng tăng của nghèo đói đô thị. Mitra [1992] dựa trên số liệu từ cấp độ tiểu bang từ các bảng dữ liệu được công bố trong cuộc điều tra dân số Ấn Độ, Điều tra mẫu quốc gia (NSS) và điều tra kinh tế đã kết luận rằng: Đói nghèo nông thôn có xu hướng làm tăng sự di dân nông thôn để tìm việc làm, điều này làm tăng quy mô tương đối của khu vực phi chính thức đô thị và làm giảm mức chi tiêu cho tiêu dùng trên đầu người, qua đó làm tăng đói nghèo đô thị. Cũng trên cơ sở điều tra mẫu quốc gia Malaysia về đói nghèo, Ragayah Haji Mat Zin [?] thảo luận rằng có một thực tế đầy lo lắng khi có sự lưu chuyển lao động trong hai nhóm nghề nghiệp thấp nhất và chỉ ra rằng tỉ lệ di dân nông thôn - đô thị quá tải, đặc biệt là những mạng lưới di dân của những nhóm thu nhập thấp từ nông thôn có thể là nguyên nhân làm tăng đói nghèo đô thị. Những lập luận này đã có ảnh hưởng lớn trong tư tưởng của giới học thuật và trong tư duy của các cơ quan quyền lực nhà nước. Nó kéo theo tư duy khoá hay hạn chế di cư nông thôn - đô thị để chống lại nghèo đói cụ thể là nạn thất nghiệp và các vấn đề môi trường khác. Nhiều quốc gia châu Á như Trung Quốc, Việt Nam thi hành chính sách kiểm soát dân cư di chuyển (đặc biệt là di cư nông thôn - đô thị) nhờ hệ thống đăng ký hộ khẩu, giấy phép làm việc tạm thời, hệ thống tem phiếu mua lương thực…Cũng giống như vậy, Indonesia cố gắng điều khiểu tăng trưởng tại vùng thành phố lớn Jakarta thông qua chính sách “thành phố đóng” nổi tiếng có hiệu lực năm 1970 để hạn chế di cư vào. Hầu hết các chính sách này đều trở nên bất cập và thất bại trên thực tế, nó chứng tỏ sự lung lay của cơ sở lý thuyết m . 9 thôn không những không làm gia tăng nghèo đói đô thị mà còn góp phần làm giảm đói nghèo ở cả đô thị và nông thôn. Hugo trong khảo sát của mình ở Java, Indonesia [1985] đã khẳng định rằng làn sóng di cư tới đô thị là một đóng góp cho phát triển vì giá nhân công rẻ sẽ làm hạ giá sản phẩm, các công việc nặng nhọc thường bị các cư dân đô thị từ chối nay đã có người gánh vác. Như vậy nghĩa là di dân làm tăng trưởng kinh tế đô thị, hạn chế nghèo đói đô thị. Dân di cư thường được quan niệm là có đóng góp cho việc giảm nghèo đô thị thông qua khu vực phi chính thức - khu vực mà Armstrong và McGee [1968] chỉ ra như là một miếng bọt biển luôn hấp dẫn lao động, cung cấp việc làm và tận dụng năng suất biên của lao động. Vì vậy, điểm căn bản là hầu hết di dân nông thôn - đô thị ở các nước đang phát triển đóng góp vào cơ sở kinh tế - xã hội của đô thị; họ không nhất thiết thúc đẩy đói nghèo ở đô thị. Hơn thế, được cho phép và tạo điều kiện, những người nhập cư có thể tự giúp mình tìm kiếm việc làm trong những điều kiện tạo việc làm, tổ chức vận chuyển, sắp xếp an ninh và xây dựng nhà cửa như là những phương cách tác động có giá trị nhất cải thiện điều kiện sống trong môi trường đô thị lớn ở thế giới đang phát triển. Ông còn lập luận: tìm kiếm cách thức giảm tệ quan liêu và ủng hộ những người di dân thay vì hạn chế những công việc và nơi ở phi chính thức chứng tỏ cách tiếp cận có hiệu quả hơn. Do đó, nếu như người dân di cư từ nông thôn được cung cấp một môi trường mà ở đó họ được phép sử dụng năng lượng và kĩ năng của họ, họ sẽ không bị bần cùng hoá. Ý tưởng này cũng được triển khai đầy thuyết phục trong một tác phẩm quan trọng của de Soto [1989], và tư tưởng của ông cũng được khảo sát ở c nghiên cứu của Chickering và Salahdine [1991]. Chia sẻ cùng lập luận, Ronald Skeldon [1997] nhận thấy có một sự mâu thuẫn căn bản giữa việc cố gắng kiểm soát dòng di dân từ nông thôn đến đô thị và việc giảm nghèo ở cả khu vực nông thôn và đô thị. Bởi vậy các chính sách cần xem xét sự thật này, có thể không phải là tích cực thúc đẩy di dân đến đô thị, dù điều này không thể tránh khỏi, mà là đối xử một cách thích đáng hơn, công bằng hơn những tác độ gắng thúc đẩy hoạt động ở khu vực phi chính thức ở cả nông thôn và đô thị đặt nền tảng trên cơ sở thu nhập gửi về của người di chuyển có thể tiến xa hơn trong việc giảm nghèo ở cả nông thôn và thành thị hơn là những cố gắng hạn chế di dân hoặc giới hạn khu vực phi chính thức. Dễ nhận thấy quan điểm khá phổ biến trong giới học thuật Việt Nam là di dân từ nông thôn là một nguyên nhân tạo nên tình trạng thất nghiệp, sức ép 10 dân số và ô nhiễm môi trường cũng như tệ nạn xã hội. Hoàng Văn Chức [2004] nhìn nhận vai trò đáp ứng nhu cầu về lao động thô sơ ở thành phố của lực lượng lao động từ nông thôn, nhưng cũng khẳng định về lâu dài, lực lượng này sẽ làm gia tăng tình trạng thất nghiệp ở đô thị. Di dân ồ ạt vào Hà Nội còn làm quá tải sức sử dụng và làm xuống cấp cơ sở hạ tầng và dịch vụ sinh hoạt trong đô thị. Đặc biệt di dân làm tăng vẻ nghèo đói, sự hỗn độn và vô trật tự của đô thị với những khu nhà tạm bợ [Nga My, 1997]. Hơn thế, theo tác giả, di dân tự do từ nông thôn còn “biến đổi lối sống đô thị, biến đổi môi trường đô thị, tạo ra những bức xúc, đặc biệt ở nơi có người di cư tập trung”[Hoàng Văn Chức, 2004: 151]. Nghiêm trọng hơn, những người di cư tự do từ nông thôn còn là một nguy cơ tiềm tàng gây mất trật tự trị an và tệ nạn xã hội đô thị [Hà Phương Tiến và Hà Quang Ngọc, 2000: 83]... Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có những cái nhìn tích cực hơn. rong “Báo cáo về kết quả dự án di dân nội địa năm 1998” đã kết luận: Di dân không gây ra sự nghèo khổ cho thành phố. Trái lại, giảm bớt tình trạng nghèo khổ của một lượng đáng kể các gia đình nghèo tại các đô thị [Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, 1998: 18]. Nhiều nhà nghiên cứu khác (Đặng Nguyên Anh, Cecilia Tacoli, Hoàng Xuân Thanh [2003]; Cù Chí Lợi [2005]…) cũng khẳng định người di dân từ nông thôn đáp ứng nhu cầu lao động phổ thông đang thiếu thốn ở thành thị. Người dân di cư đảm nhận những công việc thủ công, chân tay, ít kỹ năng mà người thành phố không muốn làm như: cửa vạn, buôn bán rong, giúp việc, đánh giày vv. Như vậy, họ đã góp phần đáng kể phát triển kinh tế đô thị. cứu trên chủ yếu tranh luận về mối quan hệ di dân nông thôn - đô thị, nghèo đô thị và đô thị hoá trên cơ sở chứng minh di dân có tác động tích cực hay tiêu cực lên đô thị và nghèo đô thị. Tuy nhiên chiều nghịch của mối quan hệ này chưa được khám phá. Liệu môi trường đô thị có ảnh hưởng như thế nào đến tình cảnh nghèo của dân di cư? Câu hỏi này vẫn là một vấn đề bỏ ngỏ. Hơn thế, các tác giả xét ảnh hưởng của di dân đô thị thông qua việc xem xét bản chất và vai trò của khu vực phi chính thức, liệu đây là khu vực có tính chất ký sinh, năng suất thấp và bất lợi hay ngược lại là khu vực có tính năng động, hiệu quả và không bất lợi; nghĩa là mới xem xét đến khía cạnh kinh tế, vật chất của mối quan hệ này. Khu vực phi chính thức là chìa khoá quan trọng nhưng chưa đủ để khám phá mối quan hệ đa diện giữa di dân, nghèo đô thị và đô thị hoá bởi tình cảnh nghèo của dân nhập cư không chỉ là nghèo về tiền, cở sở hạ tầng và khả năng tiếp cận vốn và việc làm mà 11 nó còn liên quan đến yếu tố tâm lý nghèo, tính dễ bị tổn thương và đến những đặc trưng văn hóa của cả đô thị và nông thôn. Dù công nhận vai trò tích cực của di dân đến sự phát triển của đô thị, chúng ta cũng không thể làm ngơ trước những khu nhà “ổ chuột”- nơi phần lớn là dân di cư sinh sống - đang có xu hướng mở rộng ở các th . Bên cạnh tiếp cận vấn đề nghèo đói, di dân và đô thị hoá từ vai trò kinh tế của khu vực phi chính thức, một số nhà nghiên cứu cũng khám phá vấn đề từ góc nhìn không gian đô thị. , Whyte (1943) nhằm khám phá đời sống ở khu ổ chuột của cộng đồng người Ý trong thành phố Boston. Whyte phát hiện ra rằng đằng sau cái vẻ bề ngoài của một khu phố đáng sợ và nguy hiểm, thậm chí huyền bí, xã hội góc phố Cornerville được điều chỉnh bằng một mạng lưới và những quan hệ riêng. Mạng lưới này hiện hữu ở nhiều mức độ khác nhau, tạo cho cộng đồng ở đây một hệ thống xã hội có tổ chức cao và thống nhất. Đến những thập niên 1960, Oscar Lewis nghiên cứu cộng đồng di dân Tepoztecan trong thành phố Mexico và khám phá ra rằng đô thị hoá không làm giảm những gắn bó họ tộc, thiếu tổ chức xã hội và thay đổi niềm tin tôn giáo hay sự ghét bỏ [Oscar Lewis, 2002: 345]. Những luận điểm chính của Lewis sau đó đã được phát triển bởi các nghiên cứu của Janet Abu Lughod (1962) về những người di dân ở Cairo, những người đã thích ứng với thành phố và chỉ thay đổi một chút truyền thống cũ. Quan điểm này đã phản bác lại ý kiến cho rằng dòng di dân từ nông thôn sẽ bị “vỡ”, gây ra sự lộn xộn, xung đột văn hoá, thậm chí là tình trạng vô tổ chức (sự phá vỡ các quy định của thành thị) và bị ghét bỏ. Cuối những năm 1980 của kỷ 20, nghiên cứu của Philippe Bourgois (1995), Kiếm tìm lòng tôn trọng - Bán chất trắng ở El Barrio (In Search of Respect: Selling Crack in El Barrio), khám phá cộng đồng người di cư từ Mỹ Latinh, Ý và châu Phi ở khu Đông Harlem, New York cũng đã gây được sự chú ý đặc biệt. Bourgois bằng việc phân tích và mô tả cuộc sống hàng ngày của những người buôn bán ma tuý, đã đưa ra được nhiều điểm sáng và thông điệp về các mối quan hệ gia đình, quan hệ nhóm và vai trò của chính thể diễn ra trong cộng đồng Puerto Reco ở New York. Ông cũng đưa ra lý do của sự mất cân bằng trong cộng đồng xã hội này là những chính sách áp dụng tại đây. 12 Ở Việt Nam, câu hỏi về những động thái di dân, nghèo đói và đô thị hoá diễn ra như thế nào trong những không gian đặc thù nơi đô thị như trên chưa thực sự được chú ý. Tiếp cận trên bình diện không gian, các nhà nghiên cứu Việt Nam chủ yếu tập trung vào khía cạnh vật chất của kiến trúc đô thị phục vụ cho các chính sách quy hoạch không gian. Nghiên cứu về không gian đô thị Hà Nội, các nhà nghiên cứu tập trung nhiều đến kiến trúc của các khu phố Tây, khu 36 phố phường - những khu vực vẫn đựơc coi là nét văn hoá của Hà Nội, chỉ có một số nghiên cứu ít ỏi đề cập đến những không gian tương phản trong quá trình đô thị hoá mạnh mẽ - nơi cùng lúc tồn tại nhiều mảng màu kiến trúc và văn hoá của cả đô thị và nông thôn, của giàu có và đói nghèo. Nguyễn Văn Chính đã mô tả đời sống của người di cư tự do trong không gian đô thị thông qua phân tích trường hợp một xóm liều ở bãi rác Thành Công, Hà Nội. Ông đã chỉ ra rằng: „„Xóm liều đô thị là hệ quả tất yếu của quá trình đô thị hoá, phân tầng xã hội và tình trạng gia tăng dòng di dân tự do đến đô thị. Những người di cư tự do sống trong các xóm liều luôn ở trong tình trạng „„lưỡng nan‟‟ của thân phận. Một mặt họ tìm thấy ở đây một thế giới riêng mà thân phận nghèo hèn của họ có thể hoà tan vào trong cộng đồng cùng cảnh ngộ để được chia sẻ và an ủi. Họ dường như cảm thấy được „„an toàn‟‟ và „„bình đẳng‟‟ hơn trong cái thế giới riêng tồi tàn và đầy bất trắc này. Nhưng mặt khác, họ lại ở vào vị thế yếu đuối mong manh do bị „„dán nhãn‟‟ bởi một cách nhìn quản lý, và không được thụ hưởng các dịch vụ an sinh xã hội tối thiểu cho người nghèo‟‟ [Nguyễn Văn Chính, 2009: 242]. Trịnh Duy Luân và Hans Schenk [2000] tìm hiểu về Nơi ở và cuộc sống của cư dân Hà Nội, trong đó đề cập đến nhà ở bình dân của những cư dân nghèo Hà Nội. Nghiên cứu đã đề cập đến phường Phúc Tân như là một nơi tập trung các khu nhà nghèo nàn của dân nghèo và dân di cư. Tuy nhiên, góc độ văn hoá không gian và lối sống của một khu vực đô thị ngoài đê tiếc rằng chưa được đề cập tới. Nguyễn Thị Hiền [2008] quan tâm đến không gian công cộng của khu dân cư nghèo Thượng Đình, nơi các không gian công cộng bị thu hẹp bởi sự hạn chế về quỹ đất và những vấn đề về chính sách đối với người nghèo. Điều này đã làm tác động xấu đến sức khoẻ người dân cũng như đẩy trẻ em tìm kiếm những hình thức vui chơi giải trí khác, dễ rơi vào tệ nạn xã hội. 13 Kế thừa những nghiên cứu trên, trong luận văn này tôi cố gắng tìm hiểu tình trạng nghèo đói, di dân và đô thị hoá trong bối cảnh không gian của phường Phúc Xá, Ba Đình, Hà Nội. Khu vực ngoài đê sông Hồng, Hà Nội vốn từ thời thuộc Pháp đã là chốn tụ cư của người nghèo, của những người nông dân tha hương kiếm sống nơi đô thành, của những thân phận kéo xe, người ở, gái mại dâm, của cờ bạc, thuốc phiện và tội phạm [Tam Lang, 2000 ; Vũ Trọng Phụng, 2000 ; v.v]. Bộ mặt của khu vực này hiện nay đã có nhiều thay đổi đáng kể với tốc độ đô thị hóa nhanh chóng. Người ta thấy những biệt thự nhà vườn, những khu nhà cao tầng giàu có đua nhau mọc lên, nhưng bên cạnh đó vẫn tồn tại những khu nhà nghèo nàn, lụp xụp mà dư luận quen gọi là khu “xóm liều”, khu “ổ chuột” nơi sinh sống của ngày càng nhiều những người dân di cư từ nông thôn lên Hà Nội tìm kế sinh nhai, cũng là nơi ẩn mình của các đối tượng truy nã, của ma tuý, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác. Vấn đề đặt ra là trong một không gian đô thị đặc thù như vậy, mối quan hệ giữa nghèo đói, di dân và đô thị hoá biểu hiện như thế nào? Sự thay đổi của không gian và kiến trúc đô thị, năng động dân số và hoạt động kinh tế của người dân cũng như vai trò của chính quyền, người dân sở tại, người nhập cư, của thế giới ngầm trong việc định hình lối sống của khu vực là những câu hỏi mà luận văn cố gắng làm sáng tỏ. Với một mô tả dân tộc học không gian xã hội của một phường ngoài đê, chúng tôi mong muốn đưa đến một góc nhìn rộng hơn về đời sống đô thị của Hà Nội hiện nay. 3. Lý luận và phƣơng pháp tiếp cận 3.1. Khung lý thuyết Nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận về sự quá độ đô thị ở các nước đang phát triển với biểu hiện rõ ràng ở tốc độ đô thị hoá cao. Tuy nhiên, quá trình đô thị hoá diễn ra không đều giữa các vùng, cũng như giữa việc mở rộng sản xuất và dân cư nhanh chóng ở đô thị không đồng hành với việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong nội bộ đô thị. Điều này đã dẫn đến sự phân tầng xã hội giữa khu vực nông thôn và thành thị, và do đó đô thị được coi là đích đến tìm kiếm việc làm và thu nhập của những người nông dân, những người mà tính năng động xã hội được giải phóng nhờ kinh tế thị trường. Di dân đến đô thị như là giải pháp trong việc tìm kiếm kế sinh tồn của họ. Hơn thế, sự phát triển không đều của đô thị hoá còn dẫn đến sự phân tầng ngay trong nội bộ đô thị, sự phân 14 hoá giàu nghèo và những bối cảnh dễ bị tổn thương (bối cảnh dễ tạo nên nghèo đói) tăng lên nhanh chóng. Chính sự phân hoá này đã đẩy những cư dân vốn ít tiềm lực trong xã hội đô thị trở thành tầng lớp dân nghèo đô thị. Hơn thế, người nông dân di cư tham gia vào đời sống đô thị phải chịu cả hai sự phân tầng xã hội trên, họ ở trong tình cảnh dễ bị tổn thương và nguy cơ trở thành người nghèo đô thị cao. Cùng với lý thuyết về quá độ đô thị và phân tầng xã hội, nghiên cứu còn vận dụng lý thuyết về vốn xã hội để tìm hiểu những cố gắng tích cực của người di dân cũng như của người nghèo tại chỗ trong việc tận dụng mọi nguồn lực, đặc biệt là các mối quan hệ xã hội nhằm cải thiện tình cảnh nghèo trong môi trường đô thị hoá. 3.2. Khái niệm Khái niệm đô thị hoá theo Terry MacGee là sự phát triển hoặc giảm sút về mật độ dân số ở các khu vực được xác định là đô thị, sự gia tăng về ngành nghề phi nông nghiệp, sự mở rộng và tăng cường của môi trường và cuộc sống thành thị [Nguyễn Vũ Hoàng, 2008, 11]. Về khái niệm nghèo đói và nghèo đô thị: có nhiều cách định nghĩa khác nhau về nghèo đói. Trước hết nghèo đói được định nghĩa theo những căn cứ thống kê định lượng về thu nhập hay chi tiêu bất kể tính trên cơ sở đầu người hay hộ gia đình. Cách xác định đói nghèo theo hướng kinh tế đơn giản hoá vấn đề: việc chỉ có một phạm trù người nghèo có thể hàm ý chỉ có một nền tảng duy nhất dẫn đến sự nghèo khó. Phân tích dựa trên tiêu chí thu nhập hay chi tiêu có thể làm hiểu sai về tổng cơ sở tài sản của người được coi là nghèo, nghĩa là những gì họ có thể trông cậy vào đó để xác định sinh kế của họ và chúng ta căn cứ vào đó để xác định tình trạng nghèo khổ. Bằng cách tiếp cận về nhiều loại tài sản (tiền, lương thực, lao động, nhà ở, cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội, các mối quan hệ gia đình, và các hình thức của vốn xã hội), Caroline [1998] mang đến sự am hiểu tinh tế hơn về bản chất của đói nghèo thông qua mối tuơng quan giữa các loại vốn hay tài sản với các yếu tố cụ thể về khả năng dễ bị tổn thương. Nghiên cứu này muốn tiếp cận vấn đề đói nghèo dưới góc nhìn đa diện: nghèo về tiền (thu nhập), nghèo về khả năng tiếp cận (nhà ở, nghề nghiệp, tín dụng, các dịch vụ tối thiểu), nghèo về quyền lực (không có quyền tham gia, quyền cải thiện tình cảnh sống, yếu thế, dễ bị tổn thương…). Nghiên cứu đặc biệt nhấn mạnh khía cạnh định tính của nghèo 15 đói trong bối cảnh đô thị có nhiều phức tạp hơn so với nông thôn - ngụ ý sự đa dạng các điều kiện sống, nguy cơ dễ bị rủi ro, bị cô lập, bị phân biệt đối xử, thiếu tiếng nói, tham gia vào các hoạt động dễ bị tổn thương… Khái niệm di dân nông thôn - đô thị: nghiên cứu xác định giới hạn của không gian di chuyển là từ khu vực nông thôn đến các đô thị. Tuy nhiên, nghiên cứu không giới hạn thời gian di dân chỉ là những hành động di chuyển trong thời gian một năm trở lên, mà mở rộng đối tượng bao gồm những người di chuyển thường xuyên trong thời gian từ vài ngày đến vài tháng. Nghiên cứu cũng không đề cập đến di cư định cư và di cư vì mục đích học tập. 3.3. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu căn bản của luận văn là phương pháp điền dã dân tộc học trong đó nhà nghiên cứu tham dự vào đời sống của phường nhằm quan sát, phân tích và mô tả lối sống của người dân trong không gian đô thị trong đời sống thường ngày của họ. Những thông tin định tính, những câu chuyện cá nhân của người dân địa phương cũng được thu thập nhằm khám phá mối quan hệ và nhận thức về đói nghèo, di dân và đô thị hoá của thành phố. Bên cạnh các nguyên tắc tiếp cận nhân học, nghiên cứu cũng sử dụng một số phương pháp hỗ trợ khác bao gồm: - Phương pháp bản đồ học: giúp tìm hiểu không gian đô thị của phường, cũng như chỉ ra phân bố lãnh thổ xã hội trên một không gian cụ thể của đô thị. - Phương pháp dân số học: sử dụng các số liệu điều tra dân số của tổng điều tra dân số và nhà ở tháng 4 năm 2009 nhằm phân tích tình hình hộ khẩu và sự năng động dân số của phường Phúc Xá - Phương pháp điều tra xã hội học: sử dụng bảng câu hỏi xã hội học gồm các câu hỏi đóng và mở để tìm hiểu hiện trạng kinh tế và việc làm của cư dân phường. 3.4. Lựa chọn địa bàn nghiên cứu Nghiên cứu của tôi đặt phường trong bối cảnh chung của một thành phố đang thay đổi cả về cấu trúc vật chất và lối sống, nhưng quan sát sâu hơn vào một địa bàn cụ thể. Nghiên cứu lựa chọn địa hường Phúc
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan