Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật đổi mới tổ chức và hoạt động hội đồng dân tộc của quốc hội luận văn ths. luật 5 ...

Tài liệu đổi mới tổ chức và hoạt động hội đồng dân tộc của quốc hội luận văn ths. luật 5 05 01

.PDF
94
8
115

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ MINH HẢI ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG HỘI ĐỒNG DÂN TỘC CỦA QUỐC HỘI LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2002 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ MINH HẢI ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG HỘI ĐỒNG DÂN TỘC CỦA QUỐC HỘI Chuyên ngành: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT Mã số: 5.05.01 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRẦN NGỌC ĐƯỜNG HÀ NỘI - 2002 1 NỘI DUNG PHẦN MỞ ĐẦU Chƣơng I TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC 1.1 TẦM QUAN TRỌNG CỦA VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NHÀ NƢỚC VIỆT NAM 1.2 HỘI ĐỒNG DÂN TỘC CỦA QUỐC HỘI - MỘT HÌNH THỨC TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG QUAN TRỌNG CỦA BỘ MÁY NHÀ NƢỚC TRONG LĨNH VỰC DÂN TỘC Chƣơng II THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG DÂN TỘC CỦA QUỐC HỘI HIỆN NAY 2.1 THỰC TRẠNG TỔ CHỨC CỦA HỘI ĐỒNG DÂN TỘC CỦA QUỐC HỘI 2.2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG DÂN TỘC CỦA QUỐC HỘI Chƣơng III PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG DÂN TỘC CỦA QUỐC HỘI 3.1 SỰ CẦN THIẾT TIẾP TỤC ĐỔI MỚI 3.2 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC ĐỔI MỚI KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 2 PHẦN MỞ ĐẦU 1.1 Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là quốc gia gồm 54 dân tộc cấu thành. Các vùng dân tộc thiểu số và miền núi của Việt Nam giữ vai trò quan trọng chiến lƣợc trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội, đặc biệt trong việc bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nƣớc. Hiểu rõ tầm quan trọng của vấn đề dân tộc, qua đó đánh giá đúng vai trò của Hội đồng dân tộc trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội là một việc làm mang tính cấp thiết nhằm bảo đảm trong các đạo luật, các quyết định quan trọng của đất nƣớc do Quốc hội ban hành phản ánh đƣợc ý chí và nguyện vọng của quốc gia Việt Nam nói chung và của từng dân tộc cấu thành quốc gia nói riêng. Tuy nhiên, tầm quan trọng của Hội đồng dân tộc trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội không phải lúc nào cũng đƣợc đánh giá một cách đúng mức, đã ảnh hƣởng đến việc tổ chức và thực hiện các hoạt động liên quan đến vấn đề dân tộc của một số các cơ quan nhà nƣớc từ trung ƣơng đến địa phƣơng. Việc nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của vấn đề dân tộc trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nƣớc nói chung, của Hội đồng dân tộc trong Quốc hội nói riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ trong việc giải quyết vấn đề dân tộc, mà còn vì sự tồn vong của đất nƣớc ta. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên xô trƣớc đây và các cuộc chiến tranh sắc tộc đang diễn ra trên thế giới hiện nay chứng minh sâu sắc điều đó. Ở nƣớc ta trong những năm qua, cùng với sự phát triển của Quốc hội, Hội đồng dân tộc thƣờng xuyên đƣợc đổi mới và hoàn thiện về tổ chức và hoạt động, góp phần xứng đáng vào việc nâng cao chất lƣợng hoạt động của Quốc hội. Hiện nay, việc nghiên cứu tổ chức và hoạt 3 động của Hội đồng dân tộc có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn trong việc tiếp tục cải cách bộ máy Nhà nƣớc nói chung, của Quốc hội nói riêng, theo định hƣớng xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa đang tiến hành ở nƣớc ta, góp phần tích cực trong việc thu hẹp, tiến tới xoá bỏ hoàn toàn sự chênh lệch về kinh tế - xã hội giữa các dân tộc, góp phần tăng cƣờng sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện: dân giầu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Do vậy, việc nghiên cứu tổ chức và hoạt động của Hội đồng dân tộc trong điều kiện hiện nay có ý nghĩa chính trị và pháp lý cấp thiết. 1.2 Phạm vi nghiên cứu Vấn đề dân tộc là vấn đề phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực và rất nhậy cảm. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ luật học, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu dƣới góc độ lý luận về nhà nƣớc và pháp luật vấn đề Hội đồng dân tộc trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội Việt Nam. 1.3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của luận văn là xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đề ra phƣơng hƣớng và giải pháp tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng dân tộc của Quốc hội nƣớc ta hiện nay. Với mục đích đó, luận văn có các nhiệm vụ sau đây: Một là, xây dựng cơ sở lý luận của việc tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng dân tộc. Để làm đƣợc điều đó, luận văn đi sâu làm rõ các vấn đề sau: - Tầm quan trọng của vấn đề dân tộc trong tổ chức và hoạt động của Nhà nƣớc Việt Nam. 4 - Hội đồng dân tộc của Quốc hội - một mô hình tổ chức và hoạt động quan trọng của bộ máy Nhà nƣớc trong lĩnh vực dân tộc. Hai là, phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội đồng dân tộc hiện nay nhằm xây dựng cơ sở thực tiễn đề ra phƣơng hƣớng và giải pháp tiếp tục hoàn thiện. Ba là, tìm kiếm phƣơng hƣớng và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động Hội đồng dân tộc của Quốc hội. 1.4 Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Dựa trên phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác -Lê nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và các quan điểm cũng nhƣ các chính sách dân tộc hiện nay của Đảng và Nhà nƣớc ta, luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học: tổng hợp, phân tích, so sánh để thực hiện mục đích và những nội dung cần nghiên cứu đã đƣợc trình bầy trên đây. 1.5 Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn Đây là luận văn đầu tiên nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng dân tộc của Quốc hội ở nƣớc ta. Vì thế, có thể nói luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sau đây: Luận văn đã xây dựng đƣợc một số luận điểm có tính lý luận nhằm nâng cao nhận thức về vấn đề dân tộc và giải quyết các vấn đề dân tộc bằng con đƣờng nhà nƣớc nhƣ: Quốc hội - hình thức tổ chức và hoạt động quan trọng của bộ máy nhà nƣớc trong lĩnh vực dân tộc; địa vị pháp lý của Hội đồng dân tộc - đây là những cơ sở lý luận để tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội nói chung, Hội đồng dân tộc nói riêng. 5 Luận văn đã phân tích một cách toàn diện thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội đồng dân tộc của Quốc hội nƣớc ta hiện nay, từ đó chỉ ra những mặt đƣợc và chƣa đƣợc làm cơ sở thực tiễn để đề xuất phƣơng hƣớng và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng dân tộc; Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đó, luận văn đã đề xuất các phƣơng hƣớng, giải pháp và kiến nghị có tính khả thi nhằm tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng dân tộc; Với nội dung trên, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các Đại biểu Quốc hội, cho những ngƣời hoạt động thực tiễn trong các cơ quan dân cử và nghiên cứu giảng dạy về Nhà nƣớc và Pháp luật; 1.6 Cơ cấu luận án Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, luận văn bao gồm 3 chƣơng: Chƣơng I: TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC Chƣơng II: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG DÂN TỘC CỦA QUỐC HỘI HIỆN NAY Chƣơng III: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG DÂN TỘC CỦA QUỐC HỘI 6 Chương I TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC 1.1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM Dân tộc là vấn đề rất phức tạp và nhạy cảm trong đời sống con người, dân tộc, quốc gia, quốc tế. Vấn đề dân tộc bao giờ cũng gắn chặt với tình hình chính trị của quốc gia, liên quan đến sự tồn tại, ổn định và phát triển cũng như sự sụp đổ của quốc gia. Chừng nào dân tộc còn tồn tại, vấn đề dân tộc còn là vấn đề thời sự của quốc gia. Đối với các quốc gia đa dân tộc, thì vấn đề dân tộc lại càng đặc biệt phức tạp. Những cuộc xung đột dân tộc dưới các hình thức và mức độ khác nhau trong thời gian qua và hiện nay ở khắp các châu lục đã chứng minh điều đó. Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, "... với sự tác động ngày càng tăng của yếu tố tộc người vào đời sống các dân tộc, số lượng và cường độ các cuộc đụng độ giữa các dân tộc ngày càng tăng ở nhiều vùng khác nhau trên thế giới. Trong số 120 cuộc xung đột vũ trang trên thế giới từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay có tới 86 cuộc tức là 72% mang tính chất tộc người. Tình hình xung đột giữa các tộc người do mâu thuẫn tộc người dữ dội đến mức có người cho đó là cuộc chiến tranh thế giới thứ ba không trông thấy... " [11-11.2, tr. 624]. Vậy dân tộc là gì? Tại sao vấn đề dân tộc lại có tầm quan trọng như vậy đối với sự tồn tại, ổn định, phát triển cũng như sự sụp đổ của quốc gia nói chung và đối với Việt Nam nói riêng? Theo Stalin, trong tác phẩm Chủ nghĩa Mác và vấn đề dân tộc, thì khái niệm dân tộc được hiểu là: " Dân tộc là một khối người cộng đồng ổn định, thành lập trong lịch sử, dựa trên cơ sở cộng đồng về tiếng nói, về lãnh thổ, về 7 sinh hoạt kinh tế và về hình thành tâm lý, biểu hiện trong cộng đồng về văn hoá " [13]. Từ trước tới nay, xung quanh nhận thức về dân tộc học, trên thế giới và trong nước ta, có hai loại ý kiến khác nhau: một ý kiến dựa chắc vào định nghĩa của Stalin; ý kiến khác vượt ra khỏi sự ràng buộc của định nghĩa nói trên và đề ra kiến giải mới một cách độc lập và sáng tạo. Bốn đặc trưng trong định nghĩa dân tộc của Stalin, tuy chưa hoàn toàn lỗi thời, nhưng cũng đòi hỏi phải có sự chỉnh lý. Đặc trưng về ngôn ngữ đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị; đặc trưng về lãnh thổ: lúc mới đầu hình thành dân tộc thì đặc trưng này là điều kiện bắt buộc, nhưng về sau, khi dân tộc bị xé lẻ, phân tán đi nhiều nơi, thì không còn là đặc trưng bắt buộc (trường hợp dân tộc Do Thái); đặc trưng về kinh tế thị trường chung có thể thay bằng đặc trưng về lợi ích chung (lợi ích kinh tế, chính trị..); đặc trưng về văn hoá là cần thiết nhưng nếu chỉ giới hạn trong khuôn khổ tâm lý thì quá hạn hẹp. Nên chăng, mở rộng ra thành đặc tính dân tộc. Về phong tục tập quán, mặc dù quan trọng, nhưng không nên tách ra thành một đặc trưng riêng, mà nên đặt nó trong nội dung đặc trưng văn hoá là hợp lý. Như vậy, dân tộc cần được hiểu là: - " Dân tộc - quốc gia, quốc tộc dưới các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau (từ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, đến tư sản và xã hội chủ nghĩa), chỉ tất cả các dân tộc: đa số và thiểu số, nằm trong một quốc gia (đối với quốc gia đa dân tộc) như Việt Nam, Nga, Mỹ, ấn độ.. , hoặc để chỉ dân tộc nằm trong một quốc gia đơn nhất thành phần dân tộc như dân tộc Triều tiên. - Dân tộc chưa đạt trình độ hình thành quốc gia; - Dân tộc đa số trong một quốc gia đa dân tộc; - Dân tộc thiểu số trong một quốc gia đa dân tộc" [11-11.1, tr. 24]. 8 Tuy vẫn còn ý kiến khác nhau cần làm sáng tỏ hơn nữa, nhưng đa số ý kiến thống nhất nhận định về cơ bản khái niệm dân tộc là để chỉ các dân tộc đa số và thiểu số cùng nằm trong một quốc gia hoặc để chỉ dân tộc trong một quốc gia đơn nhất thành phần dân tộc. Khái niệm dân tộc của Việt nam, được hiểu, theo truyền thống, là một quốc gia gồm tất cả các dân tộc, có quốc tịch Việt Nam, không phân biệt nguồn gốc, sống đoàn kết, thống nhất trên lãnh thổ Việt nam. Dân tộc Việt Nam hoặc cộng đồng các dân tộc Việt Nam được dùng để chỉ tất cả các dân tộc (gồm dân tộc đa số và các dân tộc thiểu số) cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Khái niệm này đồng nghĩa với quốc gia đa dân tộc hay còn gọi là quốc gia - dân tộc. Trong một quốc gia đa dân tộc, cộng đồng người đa số gọi là dân tộc đa số, các cộng đồng người thiểu số gọi là các dân tộc thiểu số. Như vậy, Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, thống nhất, gọi chung là dân tộc Việt Nam, gồm 54 dân tộc anh em, trong đó người Kinh là dân tộc đa số, còn lại là các dân tộc thiểu số. Dân tộc đa số là dân tộc có số người đông nhất trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Dân tộc thiểu số là những dân tộc có số người ít hơn so với dân tộc đa số. Cần nhấn mạnh rằng, thuật ngữ dân tộc thiểu số không đồng nghĩa với dân tộc chậm phát triển, càng không đồng nghĩa với dân tộc lạc hậu. Hiện nay các nước trên thế giới phần lớn là quốc gia đa dân tộc. Như trên đã phân tích, vấn đề dân tộc trong một quốc gia là một vấn đề phức tạp, có tính nóng bỏng đòi hỏi phải giải quyết lâu dài. Trong một quốc gia đa dân tộc, việc giải quyết không đúng đắn mối quan hệ giữa các dân tộc là nguyên nhân dẫn đến các cuộc xung đột dân tộc. Các cuộc xung đột dân tộc xẩy ra ".. là hệ quả lôgic của sự thức tỉnh ý thức dân tộc.." [11-11.2, tr. 630]. Với sự 9 hình thành và phát triển của ba dòng thác cách mạng, với sự trỗi dậy của phong trào giải phóng dân tộc thì ý thức dân tộc cũng được thức tỉnh. Trong báo cáo: Những cuộc xung đột vũ trang cuối thời kỳ chiến tranh lạnh 19881992 của Viện nghiên cứu quốc tế về hoà bình ở Ôxlô (Na Uy) đã công bố: ".. các cuộc chiến tranh nhỏ tăng lên tới 82 cuộc, liên quan ít nhất tới 64 quốc gia, .. Các cuộc xung đột dân tộc năm 1992 làm chết 70,000 người và năm 1993 chắc chắn con số không dưới 10 vạn người. Cơ quan Cao uỷ tị nạn Liên hiệp quốc HCR bị bất ngờ vì con số dân tị nạn tăng lên rất cao do các cuộc xung đột dân tộc tran lan khắp năm châu mấy năm gần đây. Nhân viên HCR trước kia là 2100 nay tăng lên đến 3700 vẫn không xuể việc; ngân sách trước kia là 444 triệu, nay vọt lên 1,3 tỷ đô la Mỹ mà vẫn thấp so với nhu cầu .." [11-11.2, tr. 640]. Các cuộc xung đột sắc tộc nổ ra liên tiếp trên thế giới mấy năm gần đây đã chứng minh điều đó. Ví dụ: Nam tư, từ một liên bang gồm nhiều dân tộc, nay chỉ còn hai dân tộc Secbia và Môngtênêgrô tham gia. Các mâu thuẫn dân tộc và tôn giáo đã phải dùng đến bom đạn và vũ khí hiện đại để giải quyết giữa ba phe: Bosnia, Croatia và Secbia. ở Liên Xô, một thời kỳ vấn đề dân tộc tưởng như đã giải quyết hoàn toàn và triệt để, thì nó bỗng trở nên găy gắt và là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự tan rã của Liên bang cộng hoà xã hội chủ nghĩa xô viết, đến sự thủ tiêu mọi thành tựu của cuộc Cách mạng tháng Mười vĩ đại. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Trong điều kiện các cuộc chiến tranh sắc tộc xẩy ra liên tiếp trên thế giới, với những đặc điểm đặc thù của các vùng dân tộc thiểu số và miền núi ở nước ta được trình bầy dưới đây, thì vấn đề dân tộc có tầm quan trọng sống còn đối với sự tồn tại, phát triển cũng như sự bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. 10 Hiện nay, Việt Nam là quốc gia gồm 54 dân tộc, ngoài người Kinh là dân tộc đa số, có 53 dân tộc thiểu số. Các dân tộc thiểu số cư trú chủ yếu ở miền núi, chiếm 3/4 diện tích của cả nước; cư trú trên toàn tuyến biên giới và vùng cao; cư trú phân tán, xen kẽ với nhau, không hình thành một vùng lãnh thổ riêng biệt. Đặc điểm cư trú trên đây có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và an ninh quốc phòng nước ta: - Trong lĩnh vực phát triển kinh tế: tiềm năng đất đai và rừng ở nước ta , tài nguyên khoáng sản, nguồn thuỷ năng, tiềm năng phát triển cây công nghiệp, chăn nuôi ... phần lớn đều tập trung ở miền núi; - Trong lĩnh vực an ninh quốc phòng: địa bàn cư trú của các dân tộc thiểu số có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của đất nước trong thời bình cũng như trong thời chiến. Nước ta có đường biên giới dài 3.200 km trên bộ, liền kề với 3 nước láng giềng (Trung quốc, Lào, Campuchia). Nước ta cũng có chung đường biên giới biển với Trung quốc (Vịnh Bắc bộ), với Campuchia (Vịnh Thái Lan). Các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều thuộc chủ quyền của ta. - Các dân tộc nước ta cư trú phân tán, xen kẽ: Yếu tố này nói lên sự hoà hợp cộng đồng dân cư, mặt tốt là tạo điều kiện học hỏi, giúp nhau cùng phát triển, nhưng mặt hạn chế là dễ va chạm dẫn đến mất đoàn kết. Vì vậy, vấn đề đoàn kết dân tộc luôn phải được chú ý ngay cộng đồng dân cư ở cơ sở: làng, xóm, ấp, bản đến xã, huyện, tỉnh, trên phạm vi cả nước; - Giữa các dân tộc ở nước ta có sự phát triển không đồng đều về mặt lịch sử. Hậu quả trực tiếp của sự phát triển không đồng đều của lịch sử và của chính sách dân tộc thời phong kiến và thực dân là đời sống các dân tộc gặp nhiều khó khăn. Trước 1945, nhiều dân tộc phải chịu nạn đói lưu niên. Tất cả các dân tộc đều có mức sống thấp, bệnh tật hoành hành, mê 11 tín dị đoan nặng nề, dân trí thấp. Hàng triệu người du canh du cư, cuộc sống nghèo khổ, không ổn định. Dưới chế độ mới, tuy đời sống có được cải thiện nhưng cuộc kháng chiến giành độc lập tự do kéo dài và khốc liệt trước đây không cho phép Nhà nước đầu tư nhiều để nâng cao mức sống của nhân dân các dân tộc. Hiện nay, đồng bào các dân tộc vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ vẫn còn trong tình trạng đói nghèo. Sự khác biệt giữa miền xuôi và miền núi, giữa dân tộc đa số và dân tộc thiểu số vẫn còn rõ nét. Trong lúc trên thế giới tình hình xung đột sắc tộc diễn ra găy gắt, thì tình hình dân tộc ở nước ta là ổn định. Đó là kết quả của chính sách dân tộc đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta từ khi thành lập đến nay. Với 4 nguyên tắc cơ bản: bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, sức mạnh truyền thống của khối đại đoàn kết của 54 dân tộc anh em vốn được hình thành từ bao đời nayđược phát triển, duy trì, củng cố, là yếu tố cơ bản đảm bảo mọi thắng lợi trong các giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam, tuy vậy, trong quan hệ giữa các dân tộc ở nước không phải đã mất đi hoàn toàn những nguy cơ tiểm ẩn. Dưới đây là những yếu tố có thể làm cho vấn đề dân tộc ở nước ta trở nên căng thẳng, nếu không có những biện pháp giải quyết kịp thời, thích hợp và có hiệu quả: - Vấn đề tư tưởng dân tộc lớn, tư tưởng dân tộc hẹp hòi, sự hoài nghi và thiếu tin cậy giữa các dân tộc .. . là những di sản do lịch sử để lại. Ví dụ: vấn đề dân tộc Chàm và dân tộc Khơme; chính sách chia để trị của thực dân trước đây (các vụ "xưng vua " của người Mông ở Hà Giang, các tổ chức bajaraka và Fulro trong thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ); 12 - Có những nguyên nhân do cán bộ ta không chấp hành đúng chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, vi phạm phong tục, tập quán của người dân tộc; - Có những nguyên nhân bắt nguồn từ tập tục khác nhau giữa các dân tộc như: tập tục ma lai, ma gà, ma cà rồng...; - Có những nguyên nhân khách quan như quy luật phát triển không đồng đều của lịch sử, làm cho đời sống kinh tế - xã hội giữa các dân tộc chênh lệch nhau, gây nên mặc cảm hoặc do tính chất phân tán và xen kẽ trong cư trú, tuy có góp phần tăng cường đoàn kết và hiểu biết lẫn nhau, nhưng lại dễ dàng nảy sinh va chạm trong quan hệ dân tộc. Nhiều dân tộc ở nước ta lại có đồng tộc ở các nước láng giềng, nên quan hệ dân tộc thường dễ dẫn đến quan hệ quốc gia và quốc tế; - Có những nguyên nhân do chính bản thân cuộc sống mới đặt ra. Ví dụ: (i) việc phát triển kinh tế miền núi không thể không ảnh hưởng đến tiến trình hoạt động kinh tế cổ truyền (hái lượm, săn bắn, nương rẫy..) của cư dân các dân tộc; (ii) việc đưa người Kinh lên mở mang kinh tế miền núi còn làm cho mối quan hệ dân tộc được mở rộng. Phải giải quyết thế nào cho tốt mối quan hệ đó khi đất đai, rừng núi, sông suối mà các dân tộc đã sử dụng từ bao đời nay bị thu hẹp lạI; (iii) phong tục tập quán của các dân tộc cũng khác nhau, khó tránh khỏi sự va chạm; (iv) Thực hiện chủ trương định canh định cư, một số dân tộc trước đây du canh du cư, nay xuống thấp, tiến hành cách làm ăn mới. Quan hệ dân tộc cũng có khi trở nên găy gắt do sự tác động của những tập quán cũ trong đời sống của các dân tộc chưa khắc phục được trong đời sống mới. Trong cuộc sống mới, các tập quán cũ không phải dễ dàng mất đi, mà có sức sống dai dẳng; 13 - Hiện nay Việt kiều định cư ở nước ngoài lên đến trên 2 triệu người, trong đó có một bộ phận thuộc các dân tộc thiểu số nước ta. Đại bộ phận Việt kiều là những người yêu nước, nhưng bên cạnh đó, một số ít còn nuôi giữ hận thù giai cấp đối với cách mạng và với chính quyền của nhân dân ta hiện nay, không tránh khỏi một bộ phận bị các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá cách mạng Việt Nam. - Hiện nay các thế lực thù địch đang lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta, thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình", vu khống Việt Nam vi phạm nhân quyền, vi phạm tư do tôn giáo ... - Các vấn đề liên quan đến biên giới trên đất liền (ví dụ: vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan) và trên biển giữa ta và các nước láng giềng đang trong quá trình giải quyết, có nhiều găy go phức tạp. Đặc biệt, quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa đang là vấn đề tranh chấp của nhiều nước ở Đông Nam á và Đông Bắc á, chứa đựng nhiều yếu tố căng thẳng trong quan hệ quốc tế ở Đông Nam á và khu vực biển Đông; - Trong khi đó, các thế lực thù địch không từ một âm mưu nào, thủ đoạn nào nhằm phá hoại những thành quả cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Mục đích của chúng là làm giảm sút lòng tin của đồng bào các dân tộc đối với Đảng và Nhà nước, gây chia rẽ giữa các dân tộc thiểu số với các dân tộc đa số, giữa các dân tộc thiểu số với nhau. Thủ đoạn thâm độc của chúng là truyền bá các luận điệu sai trái, xuyên tạc trắng trợn chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với đồng bào các dân tộc thiểu số. Chúng sử dụng mọi hình thức, lợi dụng triệt để những sơ hở của một số cán bộ, một số nơi chưa thực hiện tốt 14 chính sách dân tộc của Đảng để kích động, dụ dỗ, lừa gạt, lôi kéo đồng bào các dân tộc thiểu số. Mục đích của sự phân tích rõ ràng về khái niệm dân tộc nói chung, khái niệm dân tộc Việt Nam nói riêng; tầm quan trọng của các vùng dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt trong việc bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; tình hình các cuộc chiến tranh sắc tộc trên thế giới và những nguy cơ tiềm ẩn có thể làm cho quan hệ dân tộc ở nước ta trở nên căng thẳng ... là nhằm khẳng định vai trò quan trọng của vấn đề dân tộc trong mỗi quốc gia nói chung, của Hội đồng dân tộc nói riêng trong việc tham mưu cho Quốc hội quyết định những vấn đề về dân tộc, là cơ sở để luận văn kiến nghị tăng cường thẩm quyền cũng như kiện toàn bộ máy tổ chức của Hội đồng dân tộc trong Quốc hội trong các phần tiếp theo của luận văn. Do tính chất phức tạp của vấn đề dân tộc nên mỗi quốc gia, tuỳ theo tình hình và điều kiện của mình, có những hình thức giải quyết vấn đề dân tộc khác nhau. Hình thức và phương pháp giải quyết vấn đề dân tộc rất đa dạng. Sự đa dạng trong hình thức và phương pháp giải quyết vấn đề dân tộc thể hiện tính phức tạp, tính tế nhị và tính đa lĩnh vực của vấn đề dân tộc trong mỗi quốc gia. Trên thế giới, để giải quyết vấn đề dân tộc, có một số hình thức chủ yếu như sau: Thứ nhất, trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước trung ương đều phải giải quyết vấn đề dân tộc, mà trước hết là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Khi giải quyết vấn đề dân tộc, trong các quyết định của mình, đều phải tính đến quyền lợi của các dân tộc, đặc biệt là các văn bản hiến pháp và các đạo luật phải tính đến quyền lợi của các dân tộc khác nhau tạo thành quốc gia dân tộc; 15 Thứ hai, có nước thành lập ra quốc gia tự trị (Nhà nước tự trị), các đơn vị hành chính tự trị (tỉnh, khu, huyện tự trị). Theo cách thức tổ chức này, vấn đề chủ quyền, hay tính cách của chủ quyền dân tộc được thể hiện một cách rõ nét hơn. Cách thức tổ chức này phụ thuộc vào phạm vi, mức độ của vấn đề dân tộc. Cơ sở của việc thành lập ra các khu tự trị từ các đơn vị hành chính cho đến một nhà nước là các vùng dân tộc được hình thành một cách tự nhiên và tương đối thuần khiết. Điều này có nghĩa là các khu vực dân tộc phải hình thành một cách tự nhiên theo một khu vực lãnh thổ nhất định, có biên giới hành chính một cách rõ ràng, và kèm theo phải có một đời sống văn hoá đặc thù một cách đậm nét. Trong trường hợp này, quốc gia phải được tổ chức thành nhà nước liên bang. Một khi đã thành nhà nước liên bang thì các cơ quan Nhà nước trung ương liên bang vẫn phải tính đến quyền lợi của từng dân tộc cấu thành nhà nước liên bang. Thứ ba, có không ít các nước trong cơ cấu của cơ quan lập pháp có một tổ chức có trách nhiệm phản ánh và thể hiện ý chí của các dân tộc cấu thành quốc gia. Cách thức tổ chức này là rất cơ bản, vì rằng cho dù có tổ chức ra nhà nước hay các khu vực hành chính tự trị, thì các nhà nước trung ương vẫn phải bằng hình thức nào đó trong tổ chức và hoạt động của mình phải thể hiện được ý chí, quyền lợi khác nhau của các dân tộc khác nhau tạo thành quốc gia. Đây là một trong những cơ sở sinh ra Quốc hội hai viện của các nhà nước có chế độ chính trị tư bản. Viện thứ nhất của Quốc hội có trách nhiệm thể hiện ý chí chung của quốc gia không phân biệt ra các thành phần dân tộc khác nhau cấu thành quốc gia. Viện thứ hai có trách nhiệm thể hiện ý chí của từng dân tộc cấu thành quốc gia. Thứ tư, thành lập ra một tổ chức trong bộ máy của Quốc hội để thường xuyên giúp Quốc hội giải quyết vấn đề dân tộc. 16 Vậy trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước Việt Nam, vấn đề dân tộc được giải quyết như thế nào? Trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước Việt Nam, quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Như vậy, trong việc giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam, có sự phân công và phối hợp giữa 3 cành quyền lực: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình, cả 3 cành quyền lực đều phải phản ánh ý chí và nguyện vọng của các dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Sự phản ánh này là rất quan trọng. Có thể nói rằng đó là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. Ý chí dân tộc phải được thể hiện trước hết và căn bản nhất trong hoạt động của Quốc hội với chức năng lập pháp quan trọng của mình. Sở dĩ như vậy vì dân tộc là vấn đề thuộc tầm vĩ mô của mỗi quốc gia. Một khi đã thuộc tầm vĩ mô thì phải mang tính ổn định cao, mà đã là ổn định thì không thể nào khác hơn là được ban hành dưới dạng luật. Việt Nam là quốc gia gồm 54 dân tộc cấu thành, vì vậy, Quốc hội, ngoài việc phải thể hiện ý chí và nguyện vọng của toàn quốc gia, còn phải thể hiện ý chí và nguyện vọng của từng dân tộc cấu thành quốc gia đó trong các đạo luật, các chính sách, các quyết định quan trọng của đất nước do mình ban hành. Thậm chí phải có những văn bản pháp luật dành riêng cho vấn đề dân tộc. Sự thể hiện một cách bình đẳng ý chí và nguyện vọng của tất cả các dân tộc cấu thành quốc gia trong các đạo luật, các chính sách, các quyết định... không những là cơ sở quan trọng bảo đảm, duy trì và củng cố sức mạnh đoàn kết giữa các dân tộc cùng chung sống trên lãnh thổ Việt Nam, mà còn thể hiện tính ưu việt của Nhà nước Việt Nam nói chung, Quốc hội nói riêng trong việc giải quyết vấn đề dân tộc. Như vậy, 17 chức năng của Quốc hội là ban hành các đạo luật, các chính sách, các quyết định quan trọng của đất nước liên quan đến vấn đề dân tộc. Hành pháp thể hiện ánh ý chí và nguyện vọng của các dân tộc cấu thành quốc gia thông qua việc thực hiện các đạo luật, các chính sách, các quyết định quan trọng của đất nước liên quan đến vấn đề dân tộc do Quốc hội ban hành. Do tính chất của Quốc hội Việt Nam, nên hành pháp phải gánh vác trách nhiệm xây dựng các đạo luật, các chính sách, trong trường hợp cụ thể, hành pháp phải xây dựng các đạo luật, các chính sách liên quan đến dân tộc và miền núi trình Quốc hội thảo luận và ban hành. Như vậy, ngoài việc phải thể hiện ý chí và nguyện vọng của toàn quốc gia, hành pháp phải thể hiện ý chí và nguyện vọng của từng dân tộc cấu thành quốc gia trong các đạo luật, các chính sách trình Quốc hội. Hành pháp có bộ máy từ trung ương đến địa phương chịu trách nhiệm thực hiện các đạo luật, các chính sách về vấn đề dân tộc do Quốc hội ban hành. Ủy ban Dân tộc là cơ quan của Chính phủ, ở cấp trung ương, có nhiệm vụ tham mưu về công tác dân tộc và miền núi cho Đảng và Nhà nước và quản lý nhà nước về công tác dân tộc và miền núi; phối hợp với các Bộ, ban, ngành và các cơ quan trung ương trong việc nghiên cứu xây dựng chính sách, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng ở vùng miền núi và vùng các dân tộc, ngoài ra còn chỉ đạo kiểm tra các địa phương, các ngành thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về dân tộc. Cơ quan dân tôc và miền núi ở các địa phương giúp Uỷ ban nhân dân quản lý nhà nước về công tác dân tộc và miền núi, làm tham mưu cho Đảng và chính quyền cụ thể hoá các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về dân tộc và miền núi cho phù hợp với tình hình thực tế địa phương, đồng thời là cơ quan đầu mối để phối hợp với các sở, ban, ngành để xây dựng và chỉ đạo việc thực hiện các chủ trương, chính sách, kế hoạch có liên quan đến dân tộc và miền núi ở các địa phương. Cơ quan dân 18 tộc và miền núi của tỉnh, có mối quan hệ trực tiếp và thường xuyên với Uỷ ban Dân tộc và Miền núi trung ương, là cầu nối để đưa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước xuống các huyện, xã, cơ sở, đồng thời thường xuyên báo cáo cho Uỷ ban Dân tộc và Miền núi trung ương kết quả thực hiện các chủ trương chính sách tại địa bàn các dân tộc và các diễn biến tại địa phường và cơ sở. Ở hầu hết các tỉnh có dân tộc thiểu số đều có Ban dân tộc thuộc Hội đồng nhân dân. Tuy các cơ quan làm công tác dân tộc và miền núi với nhiều tên gọi khác nhau: Ban Dân tộc và Miền núi, Ban Dân tộc và Tôn giáo, Ban Dân tộc và định canh, định cư, Ban Dân tộc và dân vận... nhưng đều có chung nhiệm vụ là tham mưu cho cấp uỷ và chính quyền địa phương về công tác dân tộc và trực tiếp tổ chức thực chính sách dân tộc ỏ địa phương mình. Cơ quan dân tộc và miền núi ở huyện thực hiện hai chức năng tham mưu cho cấp uỷ và chính quyền, tổ chức chỉ đạo các xã về công tác dân tộc và miền núi. Là cơ quan giúp việc của huyện uỷ và Uỷ ban nhân dân huyện, đồng thời là cơquan của Ban Dân tộc và Miền núi tỉnh có trách nhiệm phối hợp với các phòng, ban, ngành của huyện về việc triển khai các chương trình dự án thuộc lĩnh vực dân tộc và miền núi, đồng thời có trách nhiệm chỉ đạo kiểm tra các ban, ngành ở huyện và các xã trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với địa phương, đồng thời báo cáo hoạt động với cơ quan dân tộc và miền núi tỉnh. ở các huyện miền núi và dân tộc, có 1-2 cán bộ chuyên trách theo dõi công tác dân tộc thuộc Văn phòng Uỷ ban nhân dân huyện, phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoặc trong Ban Dân vận của huyện uỷ. ở các xã, cán bộ chuyên trách công tác dân tộc và miền núi giúp Đảng uỷ và Uỷ ban nhân dân triển khai các chương trình dự án về dân tộc và miền núi trên địa bàn xã, thường xuyên theo dõi các diễn biến trên địa bàn xã để báo cáo kịp thời cho cơ quan công tác dân tộc và miền núi của huyện và Đảng uỷ và Uỷ ban nhân dân xã.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan