Header Page 1 of 75.
Khãa luËn tèt nghiÖp
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, giáo
dục có vai trò rất quan trọng. Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đưa giáo
dục trở thành “quốc sách hàng đầu”, một trong những yêu cầu cấp thiết được
đặt ra là đổi mới phương pháp dạy học.
M. Gorki đã từng nói “văn học là nhân học”. Văn học có khả năng giáo
dục và nuôi dưỡng tâm hồn con người. Nó hướng con người đến những giá trị
Chân - Thiện - Mĩ để giúp con người ngày càng tốt đẹp hơn. Chính vì vậy,
văn học ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng trong đời sống cũng như
trong nhà trường PTTH.
Hiện nay, chương trình Ngữ văn mới được biên soạn theo nguyên tắc
thể loại. Trên cơ sở đó đặt ra yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn
ở trường Phổ thông nhằm đưa ra những định hướng tiếp cận, khám phá giúp
học sinh dễ dàng tiếp nhận tác phẩm. Một trong những phương pháp được các
nhà nghiên cứu đánh giá tích cực là phương pháp đọc - hiểu. Theo con đường
đọc - hiểu, học sinh sẽ phát huy được khả năng sáng tạo của mình để từ đó
phát hiện và cảm thụ được tác phẩm văn học.
Qúa trình hiện đại hoá văn học nửa đầu thế kỷ XX đã để lại cho văn
học Việt Nam nhiều cá tính, phong cách nghệ sĩ độc đáo. Trong đó, Tô Hoài
là một trong những nhà văn lớn, một trong những tác giả tiêu biểu cho thể loại
tự sự được đưa vào giảng dạy ở nhà trường PTTH. Các tác phẩm của Tô Hoài
được đưa vào giảng dạy trong chương trình phổ thông như “Dế Mèn phưu lưu
kí” ở THCS và “Vợ chồng A Phủ” ở THPT. Nhiều nhà nghiên cứu, phê bình
đã viết bài về truyện của Tô Hoài, khai thác trên nhiều phương diện cả về nội
dung và hình thức. Hơn nữa, đã có một số thiết kế bài giảng cho các tác phẩm
của ông trong nhà trường. Tuy nhiên, tôi nhận thấy các bài viết đó chưa khai
Sv: Vò ThÞ §µo
Footer Page 1 of 75.
1
K32B – V¨n
Header Page 2 of 75.
Khãa luËn tèt nghiÖp
thác thấu đáo giá trị của truyện Tô Hoài trên góc độ loại thể theo phương
pháp đọc - hiểu.
Với tư cách là một sinh viên Ngữ văn, một người GV tương lai, tôi
luôn mong muốn tích luỹ thêm những kinh nghiệm quý báu để chuẩn bị cho
mình những hành trang vững chắc trước khi trở thành giáo viên đồng thời góp
thêm một hướng tiếp cận, một kiểu dạy học tác phẩm tự sự theo đặc trưng thể
loại với phương pháp đọc - hiểu.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn đề tài “Đọc - hiểu tác phẩm tự
sự của Tô Hoài trong nhà trường PTTH theo đặc trưng thể loại” làm đề tài
nghiên cứu khoá luận tốt nghiệp cho mình.
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề “Đọc - hiểu tác phẩm văn học theo đặc trưng loại thể” đã được
đề cập đến trong một số các công trình sau:
2.1. Những công trình nghiên cứu về đọc - hiểu
- V.A. Nhikônxki với “Phương pháp giảng văn học ở trường phổ
thông” do Ngọc Toàn và Bùi Lệ dịch (Nxb GD- 1978).
- Z.Ia.Rez (chủ biên) với “Phương pháp luận dạy văn học” do Phan
Huy Thiều dịch (Nxb GD-1983).
- GS. Nguyễn Thanh Hùng với
+ Cuốn “Văn học và nhân cách”
+ Bài viết “ Đọc - hiểu là tạo nền tảng văn hoá cho người đọc”
+ Chuyên đề: “Đọc và tiếp nhận văn chương”
- GS. Trần Đình Sử cũng có một số bài
+ “Đọc văn - học văn”
+ “Môn văn: thực trạng và giải pháp” (Báo văn nghệ ra ngày
14/2/1998)
- GS. Phạm Trọng Luận với :
Sv: Vò ThÞ §µo
Footer Page 2 of 75.
2
K32B – V¨n
Header Page 3 of 75.
Khãa luËn tèt nghiÖp
+ Cuốn “Phương pháp dạy học văn”
+ Chuyên luận “Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học”
- GS. Trần Thanh Đạm có bài “ Dạy văn dạy đọc và viết” (Báo văn
nghệ số 30 ra ngày 23/7/2005 )
- Tiến sĩ Nguyễn Trọng Hoàn có bài viết “Một số vấn đề đọc - hiểu
văn bản Ngữ văn” (Tạp chí GD số 56 tháng 4/2003).
2.2.Những công trình nghiên cứu về vấn đề loại thể
- Aristot với “Nghệ thuật thi ca”
- Gulaiep với “Lí luận văn học”
- GS. Phương lựu (cb) “ Giáo trình lí luận văn học”
- GS. Phan Trọng Luận “Giáo trình Phương pháp dạy học văn”
- GS. Trần Thanh Đạm “ Vấn đề giảng dạy tác phẩm theo loại thể”
- Đỗ Đức Hiểu “ Thi pháp hiện đại”
- Nguyễn Thái Hoà “ Mấy vấn đề thi pháp truyện”
- Hoàng Ngọc Hiến “Năm bài giảng về thể loại”
2.3. Những công trình nghiên cứu Tô Hoài
- Phong Lê, Vân Thanh với “ Tô Hoài - về tác giả và tác phẩm”
- Nguyễn Đăng Mạnh, “Những bài giảng về tác gia văn học Việt Nam
hiện đại”.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này chỉ tập trung nghiên cứu
một cách khái quát về vấn đề loại thể và đọc - hiểu. Song chưa có công trình
nào nghiên cứu đọc - hiểu một tác giả, một thể loại cụ thể. Do vậy, người viết
đã chọn đề tài “Đọc - hiểu tác phẩm tự sự của Tô Hoài trong nhà trường
PTTH theo đặc trưng thể loại”.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài đã cố gắng nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống về đọc - hiểu tác
phẩm tự sự của Tô Hoài với mục đích
Sv: Vò ThÞ §µo
Footer Page 3 of 75.
3
K32B – V¨n
Header Page 4 of 75.
Khãa luËn tèt nghiÖp
- Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong giờ học
văn.
- Tạo tâm thế tự tin cho giáo viên khi tiếp xúc với phương pháp dạy học
theo tinh thần đổi mới của SGK Ngữ văn.
- Đồng thời, người viết sẽ nắm vững hơn lý thuyết về đặc trưng thể loại
cũng như phương pháp đọc - hiểu để từ đó đưa ra được những phương hướng
dạy học phù hợp, giúp học sinh tiếp nhận tác phẩm được hiểu quả.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với vấn đề mà đề tài đặt ra, người viết cần thực hiện được một số
nhiệm vụ sau:
1. Tập hợp những vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài.
2. Nghiên cứu đặc trưng của thể loại tự sự.
3. Vận dụng lý thuyết đọc - hiểu vào tìm hiểu tác phẩm tự sự của Tô
Hoài.
4. Tiến hành thực nghiệm xây dựng một số giáo án hướng dẫn HS đọc hiểu tác phẩm tự sự của Tô Hoài trong nhà trường PTTH như “Dế Mèn phiêu
lưu kí” và “ Vợ chồng A Phủ”.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
- Lí thuyết đọc - hiểu
- Lí thuyết loại thể
- Đặc điểm loại hình tự sự qua tác phẩm của Tô Hoài
* Phạm vi nghiên cứu
- Các bước đọc - hiểu
- Đặc điểm loại hình tự sự
- Đặc điểm loại hình tự sự qua tác phẩm Tô Hoài được dạy trong nhà
trường PTTH (“Dế Mèn phiêu lưu kí” và “Vợ chồng A Phủ”).
Sv: Vò ThÞ §µo
Footer Page 4 of 75.
4
K32B – V¨n
Header Page 5 of 75.
Khãa luËn tèt nghiÖp
6. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng kết hợp các phương pháp:
- Phương pháp khảo sát, thống kê
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp so sánh, hệ thống
- Phương pháp thực nghiệm
7. Đóng góp của khoá luận
- Khoá luận đóng góp một phần nhỏ trong việc hình thành các thao tác,
các bước đọc - hiểu trong giảng dạy tác phẩm của tự sự của Tô Hoài trong
nhà trường PTTH.
- Đồng thời, khoá luận cũng đóng góp tích cực vào việc đổi mới
phương pháp dạy học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông hiện nay.
8. Bố cục của khoá luận
Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
6. Phương pháp nghiên cứu
7. Đóng góp khoá luận
8. Bố cục khoá luận
Nội dung
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Đọc - hiểu tác phẩm tự sự của Tô Hoài trong nhà trường
PTTH theo đặc trưng thể loại
Chương 3: Giáo án thực nghiệm
Sv: Vò ThÞ §µo
Footer Page 5 of 75.
5
K32B – V¨n
Header Page 6 of 75.
Khãa luËn tèt nghiÖp
Kết luận
Tài liệu tham khảo
NỘI DUNG
CHUƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Cơ sở lí luận
Văn chương là loại hình nghệ thuật ngôn từ, lấy ngôn ngữ làm chất liệu
để tạo nên những hình tượng nghệ thuật. Tác phẩm văn học là sự phản ánh
đời sống bằng hình tượng. Nó là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”
khi người nghệ sỹ đi sâu, khám phá thế giới qua sự hư cấu và trí tưởng tượng
phong phú của mình.
Mỗi tác phẩm văn học bao giờ cũng tồn tại dưới một hình thức thể loại
nhất định. Nó là phương thức nhà văn lựa chọn để thể hiện những quan điểm,
tư tưởng và sự sáng tạo nghệ thuật của mình mà nhà văn muốn gửi gắm đến
bạn đọc thông qua tác phẩm.
Bạn đọc muốn hiểu được tác phẩm, biến tác phẩm của nhà văn thành
tác phẩm của mình, phải trải qua một quá trình không đơn giản nhưng cũng
vô cùng thú vị đó là quá trình tiếp nhận văn học (hay còn gọi là cảm thụ văn
học). Thông qua tiếp nhận văn học, người đọc sẽ nắm được những nội dung
tư tưởng, những giá trị nghệ thuật đặc sắc cùng những thông điệp mà nhà văn
muốn gửi gắm.
1.1. Vấn đề tiếp nhận văn học
1.1.1. Khái niệm
Sv: Vò ThÞ §µo
Footer Page 6 of 75.
6
K32B – V¨n
Header Page 7 of 75.
Khãa luËn tèt nghiÖp
Tiếp nhận văn học là một vấn đề quan trọng đã và đang được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm. Có rất nhiều những quan niệm khác nhau về vấn đề tiếp
nhận văn học:
Theo “Từ điển tiếng Việt” “tiếp nhận là đón nhận cái từ người khác, nơi
khác chuyển giao cho”.
Trong cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” “tiếp nhận văn học là hoạt
động chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của tác phẩm văn học. Bắt đầu
từ cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng, cảm hứng, quan
niệm nghệ thuật, tài nghệ tác giả. Đến sau khi đọc, cách hiểu, ấn tượng trong
trí nhớ, ảnh hưởng trong hoạt động sáng tạo bản dịch, chuyển thể”...[4;275]
Hay trong cuốn “ Đọc và tiếp nhận tác phẩm văn chương” của Nguyễn
Thanh Hùng lại cho rằng: “tiếp nhận tác phẩm văn học là quá trình đem lại
cho người đọc sự hưởng thụ và hứng thú trí tuệ, hướng vào hoạt động để củng
cố và phát triển một cách phong phú những khả năng thuộc thế giới tinh thần
và năng lực cảm xúc của con người trước đời sống”.
Theo giáo trình “ Lí luận văn học” của Phương Lựu: tiếp nhận văn học
là giai đoạn hoàn tất quá trình sáng tác-giao tế của văn học. Người nghệ sỹ
sáng tạo tác phẩm văn học là truyền đạt những cảm nhận khái quát về cuộc
đời cho người đọc. Chỉ khi được bạn đọc tiếp nhận quá trình sáng tác mới
được hoàn tất.
Như vậy, các quan niệm trên đã thâu tóm tương đối đầy đủ bản chất
của quá trình tiếp nhận. Vậy có thể hiểu một cách chung nhất, tiếp nhận văn
học là hoạt động nhận thức thẩm mỹ của con người về văn học. Nó là quá
trình chuyển tác phẩm văn học vốn tồn tại khách quan với người đọc vào tâm
hồn, tư tưởng của người đọc. Đây là một cuộc giao tiếp đối thoại tự do giữa
người đọc và tác giả qua tác phẩm. Trong cuộc giao tiếp đó đòi hỏi người học
phải tham gia với tất cả trái tim và khối óc, hứng thú và nhân cách, tri thức và
Sv: Vò ThÞ §µo
Footer Page 7 of 75.
7
K32B – V¨n
Header Page 8 of 75.
Khãa luËn tèt nghiÖp
sức sáng tạo. Đây là một hoạt động mang tính sáng tạo. Nó có ảnh hưởng trực
tiếp đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con người.
Việc dạy các tác phẩm văn học trong nhà trường thực chất là tổ chức
hoạt động tiếp nhận văn học cho người đọc. Nó là hoạt động mang tính tự
giác và tính mục đích rõ ràng. Mục đích cuối cùng của nó là giúp học sinh
hiểu và cảm nhận tác phẩm để các em tự hoàn thiện nhân cách của mình.
1.1.2. Cơ sở tiếp nhận tác phẩm văn học
* Con đường nhà văn làm ra tác phẩm
Tác phẩm văn học là sản phẩm tinh thần được tạo ra bởi tài năng và
tâm hồn người nghệ sĩ. Mỗi nhà văn với những phong cách khác nhau sẽ có
những cách thức, con đường sáng tạo ra những tác phẩm riêng biệt không
giống nhau. Thông thường muốn sáng tác, các nhà văn phải có cảm
hứng Nguyễn Quýnh có nói: “người làm thơ không thể không có hứng, cũng
như tạo hoá không thể không có gió vậy”[9;210]. “Hứng” được nói tới ở đây
chính là cảm hứng. Cảm hứng là gì? Nó có tác dụng chi phối như thế nào đến
quá trình sáng tác của nhà văn? Phải chăng, cảm hứng là trạng thái tâm lí đặc
biệt của nhà văn khi đứng trước một sự việc, sự kiện mang ý nghĩa lớn lao
trong cuộc sống. Họ bất chợt có cảm xúc và sự lôi cuốn mãnh liệt. Lúc này,
tâm hồn người nghệ sĩ đang thăng hoa, bay bổng với sự tưởng tượng vô cùng
dồi dào phong phú. Nhà văn đang có nhu cầu bộc bạch giãi bày. Đó là lúc
“sản phẩm tinh thần” sắp chào đời.
Cảm hứng chỉ có thể là kết quả bất ngờ của việc thai nghén lâu dài
những suy tư, tưởng tượng trước đó của người nghệ sĩ. Để tạo được tác phẩm
có giá trị, nhà văn phải trải qua nhiều khâu sáng tác: hình thành ý đồ, thu thập
tư liệu, thiết lập sơ đồ, viết và sửa chữa. Cảm hứng giống như cái cớ để nhà
văn bắt vào nguồn mạch, thể hiện những sáng tạo đã được thai nghén từ lâu
của mình.
Sv: Vò ThÞ §µo
Footer Page 8 of 75.
8
K32B – V¨n
Header Page 9 of 75.
Khãa luËn tèt nghiÖp
Mặc dù, với những cách sáng tác khác nhau nhưng dù viết theo cách
nào thì với mỗi nhà văn sáng tạo nghệ thuật vẫn là quá trình lao động hết sức
công phu, đầy khó khăn vất vả. Nó đòi hỏi người nghệ sĩ phải có bản lĩnh
nghề nghiệp, phải có tài năng, tâm huyết và tinh thần trách nhiệm cao trước
cuộc đời. Chỉ có như vậy, nhà văn mới có thể tạo ra được tác phẩm trường tồn
cùng thời gian.
* Con đường bạn đọc chiếm lĩnh tác phẩm
Tác phẩm văn học được kết tinh từ những kinh nghiệm, tư tưởng tình
cảm của người nghệ sĩ trước cuộc sống nhất định. Người nghệ sĩ sáng tạo tác
phẩm là để truyền đạt cho người đọc những khái quát, những cảm nhận về
cuộc đời. Do đó, tác phẩm văn học chỉ có được đời sống khi được bạn đọc
chiếm lĩnh một cách toàn vẹn, sâu sắc.
Con đường chiếm lĩnh tác phẩm văn học được bắt đầu từ việc: đọc,
phân tích, cắt nghĩa và bình giá.
a. Đọc tác phẩm
Đây là hoạt động khởi đầu, cần phải có của việc tiếp nhận văn học. Văn
bản là sản phẩm tinh thần do nhà văn sáng tạo ra, đó là một tập hợp các kí
hiệu ngôn ngữ vô hồn. Vì vậy, để hiểu được văn bản đó nói gì? đề cập đến
vấn đề gì? buộc bạn đọc phải đọc tác phẩm. Người đọc chỉ có thể tiếp nhận
tác phẩm khi hệ thống kí hiệu ngôn ngữ được giải mã. Hoạt động đọc không
những là hoạt động mở đầu cho việc tiếp nhận mà đọc còn để hiểu tác phẩm,
tìm ra ý nghĩa mới xuất hiện trong tác phẩm. Tuy nhiên, với mỗi loại văn
khác nhau, hoạt động đọc cũng khác nhau. Đọc tác phẩm tự sự khác với đọc
tác phẩm trữ tình và kịch.
b. Phân tích tác phẩm
Sv: Vò ThÞ §µo
Footer Page 9 of 75.
9
K32B – V¨n
Header Page 10 of 75.
Khãa luËn tèt nghiÖp
Phân tích tác phẩm là hoạt động tiếp theo của việc tiếp nhận văn học.
“Phân tích là hoạt động chia nhỏ đối tượng để có cái nhìn cụ thể những yếu
tố làm nên chỉnh thể sâu hơn. Đó là sự mổ sẻ chỉnh thể tác phẩm để ghi chép
hợp lại những yếu tố đã phân tích theo cách hoàn toàn khác thường sẽ phát
hiện ra những khía cạnh bất ngờ của chỉnh thể tác phẩm.” (“Đọc và tiếp nhận
văn chương” của Nguyễn Thanh Hùng). Tuy nhiên, trong một tác phẩm văn
học không phải lúc nào cũng chia nhỏ đối tượng mà chúng ta cần phải xác
định đâu là trọng tâm để đi sâu vào phân tích. Vì vậy, hoạt động phân tích sẽ
đem lại sự phong phú và sâu sắc hơn cho tác phẩm văn học.
c. Cắt nghĩa tác phẩm
Cắt nghĩa là hoạt động quan trọng trong cơ chế tiếp nhận văn học. Cắt
nghĩa đem lại nhận thức, đem lại cơ sở cho những hiện tượng có giá trị. Hoạt
động cắt nghĩa tác phẩm đi từ việc lý giải những chi tiết hình ảnh trong tác
phẩm để thấy được cái hay cái đẹp cắt nghĩa hình tượng và cắt nghĩa cả tác
phẩm văn học. Trong cùng một tác phẩm văn học, mỗi cá nhân có cách cảm
thụ, cắt nghĩa tác phẩm riêng tùy vào sự hiểu biết và kinh nghiệm của mỗi
người. Hoạt động cắt nghĩa sẽ tạo ra cái nhìn đa chiều đối với mỗi tác phẩm.
Đồng thời, nó cũng là cơ sở để đánh giá mức độ hiểu biết của mỗi người vì có
hiểu thì mới có thể cắt nghĩa được tác phẩm.
d. Bình giá tác phẩm
Đây là hoạt động cuối cùng của quá trình tiếp nhận và lĩnh hội tác
phẩm văn chương. Nó là hoạt động mang tính chủ quan. Người đọc sẽ thể
hiện thái độ cách đánh giá của mình với các hiện tượng văn học. Hoạt động
này dựa trên cơ sở của việc đọc, phân tích và cắt nghĩa. Đọc là yêu cầu bắt
buộc để tiếp nhận tác phẩm. Đồng thời, nó tạo định hướng cho việc phân tích.
Còn cắt nghĩa là để xác định rõ nội dung của việc phân tích. Như vậy, hoạt
động bình giá tác phẩm là sự mở mang đi sâu vào nội dung tác phẩm. Thông
Sv: Vò ThÞ §µo
Footer Page 10 of 75.
10
K32B – V¨n
Header Page 11 of 75.
Khãa luËn tèt nghiÖp
qua hoạt động bình giá, ngoài sự hiểu biết còn thể hiện cá tính của người tiếp
nhận văn học.
Trên đây là con đường chiếm lĩnh tác phẩm văn học. Song trong quá
trình tiếp nhận bạn đọc vẫn gặp một số khó khăn như: khoảng cách về không
gian, khoảng cách về thời gian, khoảng cách về ngôn ngữ, khoảng cách về
tâm lý... Những khoảng cách này trong khi tiếp nhận khó có thể xóa được.
Vậy làm thế nào để khắc phục được khó khăn trong khi tiếp nhận? Có rất
nhiều cách, nhiều biện pháp khác nhau để khắc phục, song có một con đường
được coi là hữu ích nhất đó là đọc và tiếp nhận tác phẩm trên cơ sở đặc điểm
loại thể.
1.2. Loại thể và vấn đề tiếp nhận
Mỗi tác phẩm văn học khác nhau bạn đọc sẽ có những cách tiếp nhận
không giống nhau. Nhưng dù tiếp nhận ở khía cạnh nào thì vấn đề đầu tiên
bạn đọc nhận thấy và cần quan tâm là vấn đề loại thể bởi các tác phẩm văn
học đều được viết theo một loại thể nhất định. Nắm được các đặc điểm của
loại thể không chỉ giúp cho người đọc hiểu được tác phẩm mà còn giúp họ có
khả năng tạo lập được văn bản ở một số loại thể nhất định.
1.2.1. Khái niệm loại thể
Có rất nhiều quan niệm về loại thể văn học :
Theo “Từ điển tiếng Việt” (2007), loại thể “là hình thức sáng tác văn
học, nghệ thuật, phân chia theo phương thức phản ánh hiện thực, vận dụng
ngôn ngữ”.
Trong cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” lại cho rằng “thể loại là dạng
thức của tác phẩm văn học, được hình thành và tồn tại tương đối ổn định
trong quá trình phát triển lịch sử văn học, thể hiện sự giống nhau về cách thức
tổ chức tác phẩm và đặc điểm của các loại hiện tượng đời sống được miêu tả
Sv: Vò ThÞ §µo
Footer Page 11 of 75.
11
K32B – V¨n
Header Page 12 of 75.
Khãa luËn tèt nghiÖp
về tính chất của mối quan hệ nhà văn đối với các hiện tượng của đời sống ấy”
[4 ;299].
Sách “Lí luận văn học” cho rằng: “loại thể tác phẩm văn học là khái
niệm chỉ quy luật loại hình của tác phẩm. Trong đó, ứng với một loại nội
dung nhất định có một loại hình thức nhất định, tạo cho tác phẩm một hình
thức tồn tại chỉnh thể” [9 ;339].
Có thể thấy, có rất nhiều quan niệm khác nhau về loại thể. Song thực
chất, loại thể không phải là một khái niệm mà là cách gọi gộp của hai khái
niệm khác nhau “loại” và “thể”.
Loại (loại hình) là phương thức mà người nghệ sĩ sử dụng để sáng tạo
nên hình tượng nghệ thuật cuả tác phẩm. Có ba loại hình tiêu biểu là tự sự, trữ
tình và kịch. Loại hình mang tính quy luật nên có tính bền vững và phổ biến.
Nó xuất hiện trong hầu hết các sáng tác của các nhà văn, các trào lưu, xu
hướng văn học, nền văn học…
Thể (thể tài) là hình thức tổ chức ngôn ngữ và quy mô của tác phẩm.
Nếu như “loại” có tính bền vững thì “thể” lại luôn biến đổi. Bên cạnh những
thể đã có sẽ xuất hiện những thể mới .Ví như từ “thể truyện ngắn” sẽ xuất
hiện “thể truyện cực ngắn”… từ “thể lục bát” sẽ xuất hiện thể “ song thất lục
bát”. Giữa “loại” và “thể” có mối quan hệ bao chứa, bao hàm lẫn nhau. Trong
đó, loại là khái niệm lớn còn thể nhỏ hơn. Tức là trong một loại sẽ có nhiều
thể.
Như vậy, có thể hiểu thể loại văn học là hình thức cụ thể của tác phẩm
văn học. Với những đặc điểm lặp lại tương đối ổn định trong tiến trình lịch sử
về các mặt hình tượng ngôn ngữ, bố cục, thể thức, dung lượng… Bất kì một
tác phẩm văn học nào cũng thuộc một thể loại nhất định. Nó là yếu tố không
thể thiếu đối với tác phẩm văn chương. Loại tự sự có các thể: tiểu thuyết,
truyện ngắn, truyện vừa… Các thể chịu sự quy định bởi đặc trưng chung của
Sv: Vò ThÞ §µo
Footer Page 12 of 75.
12
K32B – V¨n
Header Page 13 of 75.
Khãa luËn tèt nghiÖp
loại tự sự. Thể loại sẽ quy định phương thức giao tiếp, nhận thức của bạn đọc
để giúp bạn đọc chiếm lĩnh được tác phẩm. Do vậy, nói tới thể loại là nói tới
cách tổ chức tác phẩm, một kiểu tái hiện đời sống và một kiểu giao tiếp nghệ
thuật.
1.2.2. Phân loại
Có rất nhiều cách phân chia loại thể khác nhau. Song cách phân chia
được nhiều người đồng thuận hơn cả là cách chia của Arixtot. Trong cuốn
“Nghệ thuật thi ca”, Arixtot đã chia tác phẩm văn học thành ba loại: tự sự, trữ
tình và kịch. Đây là cách chia dựa vào quy luật xây dựng hình tượng và
phương thức phản ánh đời sống. Cách chia này được đông đảo mọi người
thừa nhận và đến nay chúng ta vẫn chủ yếu sử dụng cách phân chia này.
Việc chia loại thể thành ba loại cũng được GS. Trần Thanh Đạm khẳng
định là phù hợp với bản chất, chức năng và quy luật của văn học là: phản ánh
hiện thực.
Theo cách phân chia trên thì mỗi loại lại được chia thành các thể nhỏ:
Loại tự sự bao gồm: tự sự dân gian (thần thoại, truyền thuyết, cổ tích,
ngụ ngôn, truyện cười…) và tự sự trung, hiện đại (truyền kì, tiểu thuyết,
truyện, kí…).
Loại trữ tình gồm: trữ tình dân gian (tục ngữ, ca dao dân ca, câu đố…)
và trữ tình trung, hiện đại (thơ cổ thể truyền thống, thơ tự do).
Loại kịch gồm : kịch dân gian (chèo, tuồng, múa rối…) và kịch hiện đại
(bi, hài, chính kịch…).
Mỗi một thể loại khác nhau sẽ có những phương thức giao tiếp khác
nhau. Nên trong quá trình tiếp nhận, chúng ta cũng phải căn cứ vào từng thể
loại để có thể dễ dàng chiếm lĩnh tác phẩm. Tuy nhiên, bạn đọc nên hiểu cách
phân chia trên một cách mềm dẻo hơn. Chúng ta không nên đi xác định ranh
Sv: Vò ThÞ §µo
Footer Page 13 of 75.
13
K32B – V¨n
Header Page 14 of 75.
Khãa luËn tèt nghiÖp
giới rõ ràng, dứt khoát giữa các loại thể văn học. Bởi trong quá trình phát
triển văn học, các thể loại luôn có sự tác động qua lại bổ sung cho nhau.
1.2.3. Tiếp nhận văn học theo loại thể
Nhà văn sử dụng một phương thức chủ đạo sáng tạo nên hình tượng
thẩm mỹ để bạn đọc khám phá và chiếm lĩnh. Phương thức đó chính là sáng
tác theo thể loại. Chính vì vậy, người đọc cũng phải cảm thụ tác phẩm trên cơ
sở thể loại. Mỗi tác phẩm văn học đều tồn tại dưới một thể loại nhất định. Lí
thuyết về thể loại ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động dạy và học tác phẩm văn
học trong nhà trường. Nó không phải là công cụ vạn năng nhưng là công cụ
quan trọng để chiếm lĩnh tác phẩm văn học.
Có nhiều con đường, cách thức để tiếp nhận tác phẩm văn học. Nhưng
tiếp nhận văn học dựa trên cơ sở đặc điểm thể loại có nhiều lợi thế vì: thể loại
là khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác phẩm. Trong đó, mỗi nội dung nhất
định sẽ có một loại hình thức nhất định. Nó góp phần tạo cho tác phẩm một
hình thức tồn tại chỉnh thể. Thể loại chính là cách thức tổ chức tác phẩm, kiểu
tái hiện đời sống, một kiểu giao tiếp… Nó tương đối ổn định và bền vững
trong cấu trúc tác phẩm. Chính vì lẽ đó, thể loại đã được quan tâm và trở
thành cách tiếp nhận văn chương hiệu quả.
1.2.4. Thể loại tự sự
1.2.4.1. Khái niệm
Tự sự là một từ Hán - Việt nghĩa là “kể chuyện”. Thuật ngữ “tự sự” đã
ra đời rất lâu và có rất nhiều quan niệm khác nhau về thể loại tự sự.
Trong“Từ điển tiếng Việt” (2007) “tự sự là thể loại văn học phản ánh
hiện thực bằng cách kể lại sự việc, miêu tả tính cách thông qua cốt truyện
tương đối hoàn chỉnh”.
Sv: Vò ThÞ §µo
Footer Page 14 of 75.
14
K32B – V¨n
Header Page 15 of 75.
Khãa luËn tèt nghiÖp
“Từ điển thuật ngữ văn học ” quan niệm “tự sự là phương thức tái hiện
đời sống bên cạnh hai phương thức khác là trữ tình và kịch được dùng làm cơ
sở để phân loại tác phẩm văn học” [4 ; 328].
Trong sách “Lí luận văn học”,“tự sự là tác phẩm phản ánh đời sống
trong tính khách quan của nó qua con người, hành vi, sự kiện được kể lại bởi
một người kể chuyện nào đó ”.
Giáo sư Trần Thanh Đạm trong “Mấy vấn đề giảng dạy tác phẩm văn
học theo loại thể” quan niệm “tự sự là loại tác phẩm văn học tái hiện trực tiếp
hiện thực khách quan như một cái gì tách biệt, ở bên ngoài đối với tác giả
thành một câu chuyện có sự phát triển tâm trạng, tính cách, hành động của
con người”.
Như vậy, có rất nhiều cách quan niệm khác nhau về thể loại tự sự.
Song về cơ bản, tự sự là một khái niệm rộng là thể loại văn học phản ánh hiện
thực đời sống một cách khách quan mà ở đó nhà văn dùng phương thức kể là
phương thức chủ yếu để tái hiện đời sống và biểu hiện những tư tưởng tình
cảm của mình.
1.2.4.2. Sự phân chia thể loại tự sự
Ta có thể chia thể loại tự sự dựa trên những căn cứ sau:
Căn cứ vào tiến trình lịch sử văn học có thể chia tự sự thành: tự sự dân
gian, tự sự trung đại, tự sự hiện đại.
Căn cứ vào phương thức sáng tác có thể chia tự sự thành: tự sự chủ
nghĩa cổ điển, tự sự chủ nghĩa lãng mạn, tự sự chủ nghĩa hiện thực.
Căn cứ vào dung lượng có thể chia tự sự thành: truyện ngắn, truyện dài,
truyện vừa.
Trên đây là những căn cứ cơ bản để phân chia thể loại tự sự. Hiện nay,
khi phân chia thể loại tự sự, chúng ta vẫn dựa vào những căn cứ này.
1.2.4.3. Đặc điểm thể loại tự sự
Sv: Vò ThÞ §µo
Footer Page 15 of 75.
15
K32B – V¨n
Header Page 16 of 75.
Khãa luËn tèt nghiÖp
Đặc điểm của thể loại văn học là các dấu hiệu cơ bản nhất để nhận ra
loại hình văn học này so với loại hình văn học khác. Ở thể loại tự sự, những
dấu hiệu đó thể hiện ở ba yếu tố: cốt truyện, nhân vật và ngôn ngữ.
* Cốt truyện
Cốt truyện là thành phần không thể thiếu trong tác phẩm tự sự. Nó là
yếu tố đầu tiên để xây dựng lên một tác phẩm văn học. Một số quan niệm về
cốt truyện được hiểu như sau:
“Từ điển tiếng Việt” (2007) cho rằng “cốt truyện là một hệ thống sự
kiện làm nòng cốt cho sự diễn biến các mối quan hệ và sự phát triển của tính
cách nhân vật trong tác phẩm văn học loại tự sự”.
Trong cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học”, “cốt truyện là hệ thống sự
kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu tư tư tưởng nghệ thuật nhất định, tạo
thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm
văn học. ”[4;88].
Hoặc trong cuốn “Lí luận văn học ”(GS. Hà Minh Đức chủ biên)“ cốt
truyện là hệ thống các sự kiện phản ánh những diễn biến của cuộc sống và
nhất là các xung đột xã hội một cách nghệ thuật, qua đó các cách hình thành
và phát triển trong mối quan hệ qua lại của chúng làm sáng tỏ chủ để và tư
tưởng tác phẩm”.
Có nhiều quan niệm khác nhau về cốt truyện nhưng về cơ bản cốt
truyện được hiểu là tập hợp các sự kiện, sự việc, biến cố trong đời sống được
nhà văn tập hợp lại tạo thành một hệ thống. Hệ thống đó đầy đủ chặt chẽ các
thành phần (trình bầy, khai đoạn, phát triển, cao trào, kết thúc). Trong quá
trình vận động phát triển, khái niệm cốt truyện có sự biến đổi. Nó trở nên linh
hoạt hơn, có thể không đầy đủ các thành phần nhưng vẫn phải có các yếu tố:
(quá trình hình thành, phát triển, kết thúc).
Như vậy, nói tới cốt truyện là nói tới các biến cố, các sự kiện có ý
nghĩa quyết định đến cuộc đời nhân vật. Qua cốt truyện, chúng ta sẽ có cái
Sv: Vò ThÞ §µo
Footer Page 16 of 75.
16
K32B – V¨n
Header Page 17 of 75.
Khãa luËn tèt nghiÖp
nhìn bao quát tác phẩm và có thể giúp bạn đọc hình dung về sự vận động
chiều hướng con đường đời nhân vật cũng như ý đồ nghệ thuật của tác giả.
*Nhân vật
Bất kì một tác phẩm văn học nào cũng có nhân vật. Nhân vật chính là
phương tiện hình thức để nhà văn phản ánh, tái hiện đời sống, gửi gắm những
quan điểm, tư tưởng tình cảm của mình.
Hiểu một cách cụ thể nhân vật văn học là “con người cụ thể được miêu
tả trong tác phẩm văn học” [4 ;202].
Theo G.S. Trần Thanh Đạm: “nhân vật là hình tượng những con người
đang sống, suy nghĩ, cảm xúc, hành động trong những môi trường, hoàn cảnh,
tình huống, những con người có quá trình, vận mệnh, có khi có bản sắc và có
tính cách”.
Tuy nhiên, trong các tác phẩm ngụ ngôn, thậm chí cả truyện hiện đại
thì nhân vật trong tác phẩm không chỉ là con người. Nó còn có thể là các con
vật. Ví như, trong tác phẩm “Dế Mèn phiêu lưu kí” của Tô Hoài, các nhân vật
là các loài vật: Dế Mèn, Dế Trũi, Cào Cào, Gọng Vó, Xén Tóc… Vì vậy,
nhân vật phải được hiểu theo nghĩa rộng. Nó có mối quan hệ chặt chẽ với
“con người” trong đời sống nhưng nó không đồng nhất… Theo cách hiểu này,
nhân vật văn học không chỉ là con người mà còn có thể là những sự vật, loài
vật ít nhiều mang bóng dáng, tính cách của con người được dùng như những
phương thức để biểu hiện con người.
Nhân vật là một đặc điểm nổi bật của tác phẩm tự sự. Ở mỗi một
phương pháp sáng tác, mỗi trào lưu văn học và mỗi nhà văn khác nhau lại có
những kiểu xây dựng nhân vật khác nhau. Tuy nhiên, các nhân vật trong tác
phẩm tự sự vẫn luôn phải tuân thủ theo một số qui ước: nhân vật phải có lai
lịch, xuất thân, tính cách và luôn được đặt trong các mối quan hệ khác nhau
của nhân vật. Những qui ước ấy không chỉ là căn cứ để nhà văn xây dựng
Sv: Vò ThÞ §µo
Footer Page 17 of 75.
17
K32B – V¨n
Header Page 18 of 75.
Khãa luËn tèt nghiÖp
nhân vật mà còn là cơ sở để người đọc có thể tiếp nhận, tìm hiểu các nhân vật
trong tác phẩm.
* Ngôn ngữ
Đặc trưng thứ ba của thể loại tự sự là ngôn ngữ. Cùng với cốt truyện và
nhân vật thì ngôn ngữ là đặc trưng quan trọng vì nó vừa là công cụ vừa là chất
liệu cơ bản của văn học.
Ngôn ngữ là yếu tố mang tính phi vật thể được dùng để xây dựng tác
phẩm văn học. Vì vậy, M.Gorki đã khẳng định “yếu tố đầu tiên của văn học
là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của nó và cùng với các sự kiện, các hiện tượng
của cuộc sống-là chất liệu của văn học”.
Căn cứ vào thể loại văn học, người ta chia ngôn ngữ văn chương thành
ba loại: ngôn ngữ tự sự, ngôn ngữ trữ tình và ngôn ngữ kịch. Cả ba loại ngôn
ngữ này đều mang tính chính xác, tính hàm xúc, tính đa nghĩa và tính biểu
cảm cao. Tuy nhiên, những thuộc tính chung đó thể hiện qua các loại thể văn
học khác nhau là khác nhau.
Cụ thể, trong tác phẩm tự sự, ngôn ngữ chủ yếu là dùng lối kể chuyện
để phản ánh hiện thực và biểu hiện tâm tư con người. Trong ngôn ngữ tự sự
lại được chia thành: ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ người kể chuyện. Hai
loại ngôn ngữ này luôn đan xen, tác động qua lại lẫn nhau và biểu hiện xuyên
suốt từ đầu đến cuối tác phẩm. Qua hệ thống tín hiệu ngôn ngữ ấy, chúng ta
sẽ hiểu được nội dung tư tưởng cũng như giá trị nghệ thuật mà tác giả gửi
gắm trong tác phẩm của mình.
Cốt truyện, nhân vật và ngôn ngữ là ba yếu tố có mối quan hệ khăng
khít với nhau. Nó chính là cơ sở để tạo nên một chỉnh thể văn học.
1.3. Vấn đề đọc - hiểu
1.3.1. Quan niệm đọc - hiểu
Sv: Vò ThÞ §µo
Footer Page 18 of 75.
18
K32B – V¨n
Header Page 19 of 75.
Khãa luËn tèt nghiÖp
Đọc - hiểu là vấn đề đã được đặt ra từ rất lâu trong lịch sử loài người.
Những năm gần đây, vấn đề này đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm. Có rất nhiều những quan niệm khác nhau về vấn đề đọc - hiểu.
Theo GS.TS. Nguyễn Thanh Hùng trong “Đọc - hiểu văn chương”
(Tạp chí GD số 92, [tr26]) quan niệm “đọc - hiểu là một hoạt động của con
người. Nó không chỉ là hình thức nhận biết nội dung ý tưởng từ văn bản mà
còn là hoạt động tâm lí giàu cảm xúc có tính trực giác và khái quát trong sự
nếm trải của con người”…
Hoặc theo PGS.TS. Nguyễn Thái Hoà cho rằng: “đọc hiểu là hành vi
ngôn ngữ sử dụng một loạt thủ pháp và thao tác bằng cơ quan thị giác, thính
giác để tiếp nhận, phân tích, giải mã và ghi nhớ nội dung thông tin, cấu trúc
văn bản ” (cuốn “Vấn đề đọc hiểu và dạy đọc hiểu”-Viện nghiên cứu sư phạm
trường ĐHSP Hà Nội [tr4]).
Một nhóm tác giả SGK Ngữ văn THCS như Nguyễn Khắc Phi, Trần
Đình Sử… lại cho rằng “đọc - hiểu là một phương pháp và phương pháp này
tập trung nhiều vào văn bản”. Với quan niệm này, đọc - hiểu tồn tại là một
phương pháp với tư cách ngang bằng các phương pháp khác như phương
pháp so sánh, phân tích, giảng giải… Đây là một quan niệm mới và hết sức
tiến bộ. Bởi trước đây, đọc - hiểu chỉ được coi là một cấp độ của giảng dạy,
một trong bốn kĩ năng (nghe, nói, đọc, viết) của học sinh. Nhưng trong thời
đại công nghệ thông tin phát triển thì đọc - hiểu đã trở thành một phương
pháp, một con đường tiếp nhận tác phẩm văn học.
Quan niệm của nhóm những người làm phương pháp trường ĐHSP Hà
Nội mà GS. Phan Trọng Luận (chủ biên) lại cho rằng “đọc - hiểu là một kiểu
dạy học văn bản Ngữ văn”. Do quan niệm đọc - hiểu là một kiểu dạy học nên
trong quá trình dạy người dạy có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau
trong kiểu dạy học mới này như: phương pháp so sánh, phân tích, giảng
Sv: Vò ThÞ §µo
Footer Page 19 of 75.
19
K32B – V¨n
Header Page 20 of 75.
Khãa luËn tèt nghiÖp
bình…Tuỳ thuộc vào những loại văn bản cụ thể mà người dạy có thể chọn
cho mình những phương pháp phù hợp với kiểu dạy học tích cực: đọc - hiểu
như hiện nay.
Trên đây là một số quan niệm khác nhau về đọc - hiểu. Tuy có những
quan niệm khác nhau nhưng tất cả những quan niệm trên đều đặc biệt quan
tâm đến một hoạt động khi dạy các văn bản Ngữ văn đó là hoạt động đọc.
Đọc là một hoạt động của con người để hướng tới một mục đích nhất định.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, người viết sẽ vận dụng đọc - hiểu với tư
cách là một kiểu dạy học, một quá trình lao động sáng tạo mang tính thẩm mỹ
nhằm phát hiện ra những giá trị của tác phẩm trên cơ sở phân tích đặc trưng
thể loại văn bản.
1.3.2. Đọc - hiểu là con đường tiếp nhận tác phẩm văn học
Văn chương là loại hình nghệ thuật ngôn từ lấy ngôn ngữ làm chất liệu
để xây dựng nên những hình tượng nghệ thuật. Thông qua hình tượng nghệ
thuật, nội dung tư tưởng của tác phẩm sẽ được thể hiện. Do vậy, bạn đọc
muốn giải mã được những kí tự ngôn ngữ để chiếm lĩnh, xử lý những thông
tin trong tác phẩm thì không có cách nào khác là phải tiến hành quá trình đọc
- hiểu.
Tác phẩm văn chương là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”.
Nó là cái thuộc về tinh thần, là cái vô hình, vô ảnh. Không chỉ vậy, nó còn là
sản phẩm cuả sự hư cấu và tưởng tượng của nhà văn. Bạn đọc muốn tiếp nhận
được tác phẩm văn học cần phải có tầm đón nhận nhất định. Nó phụ thuộc
vào vốn hiểu biết, kinh nghiệm sống và các điều kiện cụ thể của mỗi người.
Để làm được điều đó, bạn đọc không có cách nào khác là phải đọc. Đọc - hiểu
tác phẩm văn học không chỉ là một hoạt động nhận thức nội dung tư tưởng
văn bản mà còn là một hoạt động trực quan sinh động, giàu cảm xúc, có tính
trực giác và khái quát trong sự nếm trải của con người.
Sv: Vò ThÞ §µo
Footer Page 20 of 75.
20
K32B – V¨n
- Xem thêm -