Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đọc hiểu tác phẩm tự sự của tô hoài trong nhà trường ptth theo đặc trưng thể l...

Tài liệu đọc hiểu tác phẩm tự sự của tô hoài trong nhà trường ptth theo đặc trưng thể loại

.PDF
88
103
53

Mô tả:

Header Page 1 of 75. Khãa luËn tèt nghiÖp MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, giáo dục có vai trò rất quan trọng. Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đưa giáo dục trở thành “quốc sách hàng đầu”, một trong những yêu cầu cấp thiết được đặt ra là đổi mới phương pháp dạy học. M. Gorki đã từng nói “văn học là nhân học”. Văn học có khả năng giáo dục và nuôi dưỡng tâm hồn con người. Nó hướng con người đến những giá trị Chân - Thiện - Mĩ để giúp con người ngày càng tốt đẹp hơn. Chính vì vậy, văn học ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng trong đời sống cũng như trong nhà trường PTTH. Hiện nay, chương trình Ngữ văn mới được biên soạn theo nguyên tắc thể loại. Trên cơ sở đó đặt ra yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường Phổ thông nhằm đưa ra những định hướng tiếp cận, khám phá giúp học sinh dễ dàng tiếp nhận tác phẩm. Một trong những phương pháp được các nhà nghiên cứu đánh giá tích cực là phương pháp đọc - hiểu. Theo con đường đọc - hiểu, học sinh sẽ phát huy được khả năng sáng tạo của mình để từ đó phát hiện và cảm thụ được tác phẩm văn học. Qúa trình hiện đại hoá văn học nửa đầu thế kỷ XX đã để lại cho văn học Việt Nam nhiều cá tính, phong cách nghệ sĩ độc đáo. Trong đó, Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn, một trong những tác giả tiêu biểu cho thể loại tự sự được đưa vào giảng dạy ở nhà trường PTTH. Các tác phẩm của Tô Hoài được đưa vào giảng dạy trong chương trình phổ thông như “Dế Mèn phưu lưu kí” ở THCS và “Vợ chồng A Phủ” ở THPT. Nhiều nhà nghiên cứu, phê bình đã viết bài về truyện của Tô Hoài, khai thác trên nhiều phương diện cả về nội dung và hình thức. Hơn nữa, đã có một số thiết kế bài giảng cho các tác phẩm của ông trong nhà trường. Tuy nhiên, tôi nhận thấy các bài viết đó chưa khai Sv: Vò ThÞ §µo Footer Page 1 of 75. 1 K32B – V¨n Header Page 2 of 75. Khãa luËn tèt nghiÖp thác thấu đáo giá trị của truyện Tô Hoài trên góc độ loại thể theo phương pháp đọc - hiểu. Với tư cách là một sinh viên Ngữ văn, một người GV tương lai, tôi luôn mong muốn tích luỹ thêm những kinh nghiệm quý báu để chuẩn bị cho mình những hành trang vững chắc trước khi trở thành giáo viên đồng thời góp thêm một hướng tiếp cận, một kiểu dạy học tác phẩm tự sự theo đặc trưng thể loại với phương pháp đọc - hiểu. Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn đề tài “Đọc - hiểu tác phẩm tự sự của Tô Hoài trong nhà trường PTTH theo đặc trưng thể loại” làm đề tài nghiên cứu khoá luận tốt nghiệp cho mình. 2. Lịch sử vấn đề Vấn đề “Đọc - hiểu tác phẩm văn học theo đặc trưng loại thể” đã được đề cập đến trong một số các công trình sau: 2.1. Những công trình nghiên cứu về đọc - hiểu - V.A. Nhikônxki với “Phương pháp giảng văn học ở trường phổ thông” do Ngọc Toàn và Bùi Lệ dịch (Nxb GD- 1978). - Z.Ia.Rez (chủ biên) với “Phương pháp luận dạy văn học” do Phan Huy Thiều dịch (Nxb GD-1983). - GS. Nguyễn Thanh Hùng với + Cuốn “Văn học và nhân cách” + Bài viết “ Đọc - hiểu là tạo nền tảng văn hoá cho người đọc” + Chuyên đề: “Đọc và tiếp nhận văn chương” - GS. Trần Đình Sử cũng có một số bài + “Đọc văn - học văn” + “Môn văn: thực trạng và giải pháp” (Báo văn nghệ ra ngày 14/2/1998) - GS. Phạm Trọng Luận với : Sv: Vò ThÞ §µo Footer Page 2 of 75. 2 K32B – V¨n Header Page 3 of 75. Khãa luËn tèt nghiÖp + Cuốn “Phương pháp dạy học văn” + Chuyên luận “Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học” - GS. Trần Thanh Đạm có bài “ Dạy văn dạy đọc và viết” (Báo văn nghệ số 30 ra ngày 23/7/2005 ) - Tiến sĩ Nguyễn Trọng Hoàn có bài viết “Một số vấn đề đọc - hiểu văn bản Ngữ văn” (Tạp chí GD số 56 tháng 4/2003). 2.2.Những công trình nghiên cứu về vấn đề loại thể - Aristot với “Nghệ thuật thi ca” - Gulaiep với “Lí luận văn học” - GS. Phương lựu (cb) “ Giáo trình lí luận văn học” - GS. Phan Trọng Luận “Giáo trình Phương pháp dạy học văn” - GS. Trần Thanh Đạm “ Vấn đề giảng dạy tác phẩm theo loại thể” - Đỗ Đức Hiểu “ Thi pháp hiện đại” - Nguyễn Thái Hoà “ Mấy vấn đề thi pháp truyện” - Hoàng Ngọc Hiến “Năm bài giảng về thể loại” 2.3. Những công trình nghiên cứu Tô Hoài - Phong Lê, Vân Thanh với “ Tô Hoài - về tác giả và tác phẩm” - Nguyễn Đăng Mạnh, “Những bài giảng về tác gia văn học Việt Nam hiện đại”. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này chỉ tập trung nghiên cứu một cách khái quát về vấn đề loại thể và đọc - hiểu. Song chưa có công trình nào nghiên cứu đọc - hiểu một tác giả, một thể loại cụ thể. Do vậy, người viết đã chọn đề tài “Đọc - hiểu tác phẩm tự sự của Tô Hoài trong nhà trường PTTH theo đặc trưng thể loại”. 3. Mục đích nghiên cứu Đề tài đã cố gắng nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống về đọc - hiểu tác phẩm tự sự của Tô Hoài với mục đích Sv: Vò ThÞ §µo Footer Page 3 of 75. 3 K32B – V¨n Header Page 4 of 75. Khãa luËn tèt nghiÖp - Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong giờ học văn. - Tạo tâm thế tự tin cho giáo viên khi tiếp xúc với phương pháp dạy học theo tinh thần đổi mới của SGK Ngữ văn. - Đồng thời, người viết sẽ nắm vững hơn lý thuyết về đặc trưng thể loại cũng như phương pháp đọc - hiểu để từ đó đưa ra được những phương hướng dạy học phù hợp, giúp học sinh tiếp nhận tác phẩm được hiểu quả. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Với vấn đề mà đề tài đặt ra, người viết cần thực hiện được một số nhiệm vụ sau: 1. Tập hợp những vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài. 2. Nghiên cứu đặc trưng của thể loại tự sự. 3. Vận dụng lý thuyết đọc - hiểu vào tìm hiểu tác phẩm tự sự của Tô Hoài. 4. Tiến hành thực nghiệm xây dựng một số giáo án hướng dẫn HS đọc hiểu tác phẩm tự sự của Tô Hoài trong nhà trường PTTH như “Dế Mèn phiêu lưu kí” và “ Vợ chồng A Phủ”. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu - Lí thuyết đọc - hiểu - Lí thuyết loại thể - Đặc điểm loại hình tự sự qua tác phẩm của Tô Hoài * Phạm vi nghiên cứu - Các bước đọc - hiểu - Đặc điểm loại hình tự sự - Đặc điểm loại hình tự sự qua tác phẩm Tô Hoài được dạy trong nhà trường PTTH (“Dế Mèn phiêu lưu kí” và “Vợ chồng A Phủ”). Sv: Vò ThÞ §µo Footer Page 4 of 75. 4 K32B – V¨n Header Page 5 of 75. Khãa luËn tèt nghiÖp 6. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận sử dụng kết hợp các phương pháp: - Phương pháp khảo sát, thống kê - Phương pháp phân tích tổng hợp - Phương pháp so sánh, hệ thống - Phương pháp thực nghiệm 7. Đóng góp của khoá luận - Khoá luận đóng góp một phần nhỏ trong việc hình thành các thao tác, các bước đọc - hiểu trong giảng dạy tác phẩm của tự sự của Tô Hoài trong nhà trường PTTH. - Đồng thời, khoá luận cũng đóng góp tích cực vào việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông hiện nay. 8. Bố cục của khoá luận Mở đầu 1. Lí do chọn đề tài 2. Lịch sử vấn đề 3. Mục đích nghiên cứu 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6. Phương pháp nghiên cứu 7. Đóng góp khoá luận 8. Bố cục khoá luận Nội dung Chương 1: Những vấn đề chung Chương 2: Đọc - hiểu tác phẩm tự sự của Tô Hoài trong nhà trường PTTH theo đặc trưng thể loại Chương 3: Giáo án thực nghiệm Sv: Vò ThÞ §µo Footer Page 5 of 75. 5 K32B – V¨n Header Page 6 of 75. Khãa luËn tèt nghiÖp Kết luận Tài liệu tham khảo NỘI DUNG CHUƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1. Cơ sở lí luận Văn chương là loại hình nghệ thuật ngôn từ, lấy ngôn ngữ làm chất liệu để tạo nên những hình tượng nghệ thuật. Tác phẩm văn học là sự phản ánh đời sống bằng hình tượng. Nó là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan” khi người nghệ sỹ đi sâu, khám phá thế giới qua sự hư cấu và trí tưởng tượng phong phú của mình. Mỗi tác phẩm văn học bao giờ cũng tồn tại dưới một hình thức thể loại nhất định. Nó là phương thức nhà văn lựa chọn để thể hiện những quan điểm, tư tưởng và sự sáng tạo nghệ thuật của mình mà nhà văn muốn gửi gắm đến bạn đọc thông qua tác phẩm. Bạn đọc muốn hiểu được tác phẩm, biến tác phẩm của nhà văn thành tác phẩm của mình, phải trải qua một quá trình không đơn giản nhưng cũng vô cùng thú vị đó là quá trình tiếp nhận văn học (hay còn gọi là cảm thụ văn học). Thông qua tiếp nhận văn học, người đọc sẽ nắm được những nội dung tư tưởng, những giá trị nghệ thuật đặc sắc cùng những thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm. 1.1. Vấn đề tiếp nhận văn học 1.1.1. Khái niệm Sv: Vò ThÞ §µo Footer Page 6 of 75. 6 K32B – V¨n Header Page 7 of 75. Khãa luËn tèt nghiÖp Tiếp nhận văn học là một vấn đề quan trọng đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Có rất nhiều những quan niệm khác nhau về vấn đề tiếp nhận văn học: Theo “Từ điển tiếng Việt” “tiếp nhận là đón nhận cái từ người khác, nơi khác chuyển giao cho”. Trong cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” “tiếp nhận văn học là hoạt động chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của tác phẩm văn học. Bắt đầu từ cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng, cảm hứng, quan niệm nghệ thuật, tài nghệ tác giả. Đến sau khi đọc, cách hiểu, ấn tượng trong trí nhớ, ảnh hưởng trong hoạt động sáng tạo bản dịch, chuyển thể”...[4;275] Hay trong cuốn “ Đọc và tiếp nhận tác phẩm văn chương” của Nguyễn Thanh Hùng lại cho rằng: “tiếp nhận tác phẩm văn học là quá trình đem lại cho người đọc sự hưởng thụ và hứng thú trí tuệ, hướng vào hoạt động để củng cố và phát triển một cách phong phú những khả năng thuộc thế giới tinh thần và năng lực cảm xúc của con người trước đời sống”. Theo giáo trình “ Lí luận văn học” của Phương Lựu: tiếp nhận văn học là giai đoạn hoàn tất quá trình sáng tác-giao tế của văn học. Người nghệ sỹ sáng tạo tác phẩm văn học là truyền đạt những cảm nhận khái quát về cuộc đời cho người đọc. Chỉ khi được bạn đọc tiếp nhận quá trình sáng tác mới được hoàn tất. Như vậy, các quan niệm trên đã thâu tóm tương đối đầy đủ bản chất của quá trình tiếp nhận. Vậy có thể hiểu một cách chung nhất, tiếp nhận văn học là hoạt động nhận thức thẩm mỹ của con người về văn học. Nó là quá trình chuyển tác phẩm văn học vốn tồn tại khách quan với người đọc vào tâm hồn, tư tưởng của người đọc. Đây là một cuộc giao tiếp đối thoại tự do giữa người đọc và tác giả qua tác phẩm. Trong cuộc giao tiếp đó đòi hỏi người học phải tham gia với tất cả trái tim và khối óc, hứng thú và nhân cách, tri thức và Sv: Vò ThÞ §µo Footer Page 7 of 75. 7 K32B – V¨n Header Page 8 of 75. Khãa luËn tèt nghiÖp sức sáng tạo. Đây là một hoạt động mang tính sáng tạo. Nó có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con người. Việc dạy các tác phẩm văn học trong nhà trường thực chất là tổ chức hoạt động tiếp nhận văn học cho người đọc. Nó là hoạt động mang tính tự giác và tính mục đích rõ ràng. Mục đích cuối cùng của nó là giúp học sinh hiểu và cảm nhận tác phẩm để các em tự hoàn thiện nhân cách của mình. 1.1.2. Cơ sở tiếp nhận tác phẩm văn học * Con đường nhà văn làm ra tác phẩm Tác phẩm văn học là sản phẩm tinh thần được tạo ra bởi tài năng và tâm hồn người nghệ sĩ. Mỗi nhà văn với những phong cách khác nhau sẽ có những cách thức, con đường sáng tạo ra những tác phẩm riêng biệt không giống nhau. Thông thường muốn sáng tác, các nhà văn phải có cảm hứng Nguyễn Quýnh có nói: “người làm thơ không thể không có hứng, cũng như tạo hoá không thể không có gió vậy”[9;210]. “Hứng” được nói tới ở đây chính là cảm hứng. Cảm hứng là gì? Nó có tác dụng chi phối như thế nào đến quá trình sáng tác của nhà văn? Phải chăng, cảm hứng là trạng thái tâm lí đặc biệt của nhà văn khi đứng trước một sự việc, sự kiện mang ý nghĩa lớn lao trong cuộc sống. Họ bất chợt có cảm xúc và sự lôi cuốn mãnh liệt. Lúc này, tâm hồn người nghệ sĩ đang thăng hoa, bay bổng với sự tưởng tượng vô cùng dồi dào phong phú. Nhà văn đang có nhu cầu bộc bạch giãi bày. Đó là lúc “sản phẩm tinh thần” sắp chào đời. Cảm hứng chỉ có thể là kết quả bất ngờ của việc thai nghén lâu dài những suy tư, tưởng tượng trước đó của người nghệ sĩ. Để tạo được tác phẩm có giá trị, nhà văn phải trải qua nhiều khâu sáng tác: hình thành ý đồ, thu thập tư liệu, thiết lập sơ đồ, viết và sửa chữa. Cảm hứng giống như cái cớ để nhà văn bắt vào nguồn mạch, thể hiện những sáng tạo đã được thai nghén từ lâu của mình. Sv: Vò ThÞ §µo Footer Page 8 of 75. 8 K32B – V¨n Header Page 9 of 75. Khãa luËn tèt nghiÖp Mặc dù, với những cách sáng tác khác nhau nhưng dù viết theo cách nào thì với mỗi nhà văn sáng tạo nghệ thuật vẫn là quá trình lao động hết sức công phu, đầy khó khăn vất vả. Nó đòi hỏi người nghệ sĩ phải có bản lĩnh nghề nghiệp, phải có tài năng, tâm huyết và tinh thần trách nhiệm cao trước cuộc đời. Chỉ có như vậy, nhà văn mới có thể tạo ra được tác phẩm trường tồn cùng thời gian. * Con đường bạn đọc chiếm lĩnh tác phẩm Tác phẩm văn học được kết tinh từ những kinh nghiệm, tư tưởng tình cảm của người nghệ sĩ trước cuộc sống nhất định. Người nghệ sĩ sáng tạo tác phẩm là để truyền đạt cho người đọc những khái quát, những cảm nhận về cuộc đời. Do đó, tác phẩm văn học chỉ có được đời sống khi được bạn đọc chiếm lĩnh một cách toàn vẹn, sâu sắc. Con đường chiếm lĩnh tác phẩm văn học được bắt đầu từ việc: đọc, phân tích, cắt nghĩa và bình giá. a. Đọc tác phẩm Đây là hoạt động khởi đầu, cần phải có của việc tiếp nhận văn học. Văn bản là sản phẩm tinh thần do nhà văn sáng tạo ra, đó là một tập hợp các kí hiệu ngôn ngữ vô hồn. Vì vậy, để hiểu được văn bản đó nói gì? đề cập đến vấn đề gì? buộc bạn đọc phải đọc tác phẩm. Người đọc chỉ có thể tiếp nhận tác phẩm khi hệ thống kí hiệu ngôn ngữ được giải mã. Hoạt động đọc không những là hoạt động mở đầu cho việc tiếp nhận mà đọc còn để hiểu tác phẩm, tìm ra ý nghĩa mới xuất hiện trong tác phẩm. Tuy nhiên, với mỗi loại văn khác nhau, hoạt động đọc cũng khác nhau. Đọc tác phẩm tự sự khác với đọc tác phẩm trữ tình và kịch. b. Phân tích tác phẩm Sv: Vò ThÞ §µo Footer Page 9 of 75. 9 K32B – V¨n Header Page 10 of 75. Khãa luËn tèt nghiÖp Phân tích tác phẩm là hoạt động tiếp theo của việc tiếp nhận văn học. “Phân tích là hoạt động chia nhỏ đối tượng để có cái nhìn cụ thể những yếu tố làm nên chỉnh thể sâu hơn. Đó là sự mổ sẻ chỉnh thể tác phẩm để ghi chép hợp lại những yếu tố đã phân tích theo cách hoàn toàn khác thường sẽ phát hiện ra những khía cạnh bất ngờ của chỉnh thể tác phẩm.” (“Đọc và tiếp nhận văn chương” của Nguyễn Thanh Hùng). Tuy nhiên, trong một tác phẩm văn học không phải lúc nào cũng chia nhỏ đối tượng mà chúng ta cần phải xác định đâu là trọng tâm để đi sâu vào phân tích. Vì vậy, hoạt động phân tích sẽ đem lại sự phong phú và sâu sắc hơn cho tác phẩm văn học. c. Cắt nghĩa tác phẩm Cắt nghĩa là hoạt động quan trọng trong cơ chế tiếp nhận văn học. Cắt nghĩa đem lại nhận thức, đem lại cơ sở cho những hiện tượng có giá trị. Hoạt động cắt nghĩa tác phẩm đi từ việc lý giải những chi tiết hình ảnh trong tác phẩm để thấy được cái hay cái đẹp cắt nghĩa hình tượng và cắt nghĩa cả tác phẩm văn học. Trong cùng một tác phẩm văn học, mỗi cá nhân có cách cảm thụ, cắt nghĩa tác phẩm riêng tùy vào sự hiểu biết và kinh nghiệm của mỗi người. Hoạt động cắt nghĩa sẽ tạo ra cái nhìn đa chiều đối với mỗi tác phẩm. Đồng thời, nó cũng là cơ sở để đánh giá mức độ hiểu biết của mỗi người vì có hiểu thì mới có thể cắt nghĩa được tác phẩm. d. Bình giá tác phẩm Đây là hoạt động cuối cùng của quá trình tiếp nhận và lĩnh hội tác phẩm văn chương. Nó là hoạt động mang tính chủ quan. Người đọc sẽ thể hiện thái độ cách đánh giá của mình với các hiện tượng văn học. Hoạt động này dựa trên cơ sở của việc đọc, phân tích và cắt nghĩa. Đọc là yêu cầu bắt buộc để tiếp nhận tác phẩm. Đồng thời, nó tạo định hướng cho việc phân tích. Còn cắt nghĩa là để xác định rõ nội dung của việc phân tích. Như vậy, hoạt động bình giá tác phẩm là sự mở mang đi sâu vào nội dung tác phẩm. Thông Sv: Vò ThÞ §µo Footer Page 10 of 75. 10 K32B – V¨n Header Page 11 of 75. Khãa luËn tèt nghiÖp qua hoạt động bình giá, ngoài sự hiểu biết còn thể hiện cá tính của người tiếp nhận văn học. Trên đây là con đường chiếm lĩnh tác phẩm văn học. Song trong quá trình tiếp nhận bạn đọc vẫn gặp một số khó khăn như: khoảng cách về không gian, khoảng cách về thời gian, khoảng cách về ngôn ngữ, khoảng cách về tâm lý... Những khoảng cách này trong khi tiếp nhận khó có thể xóa được. Vậy làm thế nào để khắc phục được khó khăn trong khi tiếp nhận? Có rất nhiều cách, nhiều biện pháp khác nhau để khắc phục, song có một con đường được coi là hữu ích nhất đó là đọc và tiếp nhận tác phẩm trên cơ sở đặc điểm loại thể. 1.2. Loại thể và vấn đề tiếp nhận Mỗi tác phẩm văn học khác nhau bạn đọc sẽ có những cách tiếp nhận không giống nhau. Nhưng dù tiếp nhận ở khía cạnh nào thì vấn đề đầu tiên bạn đọc nhận thấy và cần quan tâm là vấn đề loại thể bởi các tác phẩm văn học đều được viết theo một loại thể nhất định. Nắm được các đặc điểm của loại thể không chỉ giúp cho người đọc hiểu được tác phẩm mà còn giúp họ có khả năng tạo lập được văn bản ở một số loại thể nhất định. 1.2.1. Khái niệm loại thể Có rất nhiều quan niệm về loại thể văn học : Theo “Từ điển tiếng Việt” (2007), loại thể “là hình thức sáng tác văn học, nghệ thuật, phân chia theo phương thức phản ánh hiện thực, vận dụng ngôn ngữ”. Trong cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” lại cho rằng “thể loại là dạng thức của tác phẩm văn học, được hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong quá trình phát triển lịch sử văn học, thể hiện sự giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm và đặc điểm của các loại hiện tượng đời sống được miêu tả Sv: Vò ThÞ §µo Footer Page 11 of 75. 11 K32B – V¨n Header Page 12 of 75. Khãa luËn tèt nghiÖp về tính chất của mối quan hệ nhà văn đối với các hiện tượng của đời sống ấy” [4 ;299]. Sách “Lí luận văn học” cho rằng: “loại thể tác phẩm văn học là khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác phẩm. Trong đó, ứng với một loại nội dung nhất định có một loại hình thức nhất định, tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại chỉnh thể” [9 ;339]. Có thể thấy, có rất nhiều quan niệm khác nhau về loại thể. Song thực chất, loại thể không phải là một khái niệm mà là cách gọi gộp của hai khái niệm khác nhau “loại” và “thể”. Loại (loại hình) là phương thức mà người nghệ sĩ sử dụng để sáng tạo nên hình tượng nghệ thuật cuả tác phẩm. Có ba loại hình tiêu biểu là tự sự, trữ tình và kịch. Loại hình mang tính quy luật nên có tính bền vững và phổ biến. Nó xuất hiện trong hầu hết các sáng tác của các nhà văn, các trào lưu, xu hướng văn học, nền văn học… Thể (thể tài) là hình thức tổ chức ngôn ngữ và quy mô của tác phẩm. Nếu như “loại” có tính bền vững thì “thể” lại luôn biến đổi. Bên cạnh những thể đã có sẽ xuất hiện những thể mới .Ví như từ “thể truyện ngắn” sẽ xuất hiện “thể truyện cực ngắn”… từ “thể lục bát” sẽ xuất hiện thể “ song thất lục bát”. Giữa “loại” và “thể” có mối quan hệ bao chứa, bao hàm lẫn nhau. Trong đó, loại là khái niệm lớn còn thể nhỏ hơn. Tức là trong một loại sẽ có nhiều thể. Như vậy, có thể hiểu thể loại văn học là hình thức cụ thể của tác phẩm văn học. Với những đặc điểm lặp lại tương đối ổn định trong tiến trình lịch sử về các mặt hình tượng ngôn ngữ, bố cục, thể thức, dung lượng… Bất kì một tác phẩm văn học nào cũng thuộc một thể loại nhất định. Nó là yếu tố không thể thiếu đối với tác phẩm văn chương. Loại tự sự có các thể: tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện vừa… Các thể chịu sự quy định bởi đặc trưng chung của Sv: Vò ThÞ §µo Footer Page 12 of 75. 12 K32B – V¨n Header Page 13 of 75. Khãa luËn tèt nghiÖp loại tự sự. Thể loại sẽ quy định phương thức giao tiếp, nhận thức của bạn đọc để giúp bạn đọc chiếm lĩnh được tác phẩm. Do vậy, nói tới thể loại là nói tới cách tổ chức tác phẩm, một kiểu tái hiện đời sống và một kiểu giao tiếp nghệ thuật. 1.2.2. Phân loại Có rất nhiều cách phân chia loại thể khác nhau. Song cách phân chia được nhiều người đồng thuận hơn cả là cách chia của Arixtot. Trong cuốn “Nghệ thuật thi ca”, Arixtot đã chia tác phẩm văn học thành ba loại: tự sự, trữ tình và kịch. Đây là cách chia dựa vào quy luật xây dựng hình tượng và phương thức phản ánh đời sống. Cách chia này được đông đảo mọi người thừa nhận và đến nay chúng ta vẫn chủ yếu sử dụng cách phân chia này. Việc chia loại thể thành ba loại cũng được GS. Trần Thanh Đạm khẳng định là phù hợp với bản chất, chức năng và quy luật của văn học là: phản ánh hiện thực. Theo cách phân chia trên thì mỗi loại lại được chia thành các thể nhỏ: Loại tự sự bao gồm: tự sự dân gian (thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười…) và tự sự trung, hiện đại (truyền kì, tiểu thuyết, truyện, kí…). Loại trữ tình gồm: trữ tình dân gian (tục ngữ, ca dao dân ca, câu đố…) và trữ tình trung, hiện đại (thơ cổ thể truyền thống, thơ tự do). Loại kịch gồm : kịch dân gian (chèo, tuồng, múa rối…) và kịch hiện đại (bi, hài, chính kịch…). Mỗi một thể loại khác nhau sẽ có những phương thức giao tiếp khác nhau. Nên trong quá trình tiếp nhận, chúng ta cũng phải căn cứ vào từng thể loại để có thể dễ dàng chiếm lĩnh tác phẩm. Tuy nhiên, bạn đọc nên hiểu cách phân chia trên một cách mềm dẻo hơn. Chúng ta không nên đi xác định ranh Sv: Vò ThÞ §µo Footer Page 13 of 75. 13 K32B – V¨n Header Page 14 of 75. Khãa luËn tèt nghiÖp giới rõ ràng, dứt khoát giữa các loại thể văn học. Bởi trong quá trình phát triển văn học, các thể loại luôn có sự tác động qua lại bổ sung cho nhau. 1.2.3. Tiếp nhận văn học theo loại thể Nhà văn sử dụng một phương thức chủ đạo sáng tạo nên hình tượng thẩm mỹ để bạn đọc khám phá và chiếm lĩnh. Phương thức đó chính là sáng tác theo thể loại. Chính vì vậy, người đọc cũng phải cảm thụ tác phẩm trên cơ sở thể loại. Mỗi tác phẩm văn học đều tồn tại dưới một thể loại nhất định. Lí thuyết về thể loại ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động dạy và học tác phẩm văn học trong nhà trường. Nó không phải là công cụ vạn năng nhưng là công cụ quan trọng để chiếm lĩnh tác phẩm văn học. Có nhiều con đường, cách thức để tiếp nhận tác phẩm văn học. Nhưng tiếp nhận văn học dựa trên cơ sở đặc điểm thể loại có nhiều lợi thế vì: thể loại là khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác phẩm. Trong đó, mỗi nội dung nhất định sẽ có một loại hình thức nhất định. Nó góp phần tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại chỉnh thể. Thể loại chính là cách thức tổ chức tác phẩm, kiểu tái hiện đời sống, một kiểu giao tiếp… Nó tương đối ổn định và bền vững trong cấu trúc tác phẩm. Chính vì lẽ đó, thể loại đã được quan tâm và trở thành cách tiếp nhận văn chương hiệu quả. 1.2.4. Thể loại tự sự 1.2.4.1. Khái niệm Tự sự là một từ Hán - Việt nghĩa là “kể chuyện”. Thuật ngữ “tự sự” đã ra đời rất lâu và có rất nhiều quan niệm khác nhau về thể loại tự sự. Trong“Từ điển tiếng Việt” (2007) “tự sự là thể loại văn học phản ánh hiện thực bằng cách kể lại sự việc, miêu tả tính cách thông qua cốt truyện tương đối hoàn chỉnh”. Sv: Vò ThÞ §µo Footer Page 14 of 75. 14 K32B – V¨n Header Page 15 of 75. Khãa luËn tèt nghiÖp “Từ điển thuật ngữ văn học ” quan niệm “tự sự là phương thức tái hiện đời sống bên cạnh hai phương thức khác là trữ tình và kịch được dùng làm cơ sở để phân loại tác phẩm văn học” [4 ; 328]. Trong sách “Lí luận văn học”,“tự sự là tác phẩm phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó qua con người, hành vi, sự kiện được kể lại bởi một người kể chuyện nào đó ”. Giáo sư Trần Thanh Đạm trong “Mấy vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể” quan niệm “tự sự là loại tác phẩm văn học tái hiện trực tiếp hiện thực khách quan như một cái gì tách biệt, ở bên ngoài đối với tác giả thành một câu chuyện có sự phát triển tâm trạng, tính cách, hành động của con người”. Như vậy, có rất nhiều cách quan niệm khác nhau về thể loại tự sự. Song về cơ bản, tự sự là một khái niệm rộng là thể loại văn học phản ánh hiện thực đời sống một cách khách quan mà ở đó nhà văn dùng phương thức kể là phương thức chủ yếu để tái hiện đời sống và biểu hiện những tư tưởng tình cảm của mình. 1.2.4.2. Sự phân chia thể loại tự sự Ta có thể chia thể loại tự sự dựa trên những căn cứ sau: Căn cứ vào tiến trình lịch sử văn học có thể chia tự sự thành: tự sự dân gian, tự sự trung đại, tự sự hiện đại. Căn cứ vào phương thức sáng tác có thể chia tự sự thành: tự sự chủ nghĩa cổ điển, tự sự chủ nghĩa lãng mạn, tự sự chủ nghĩa hiện thực. Căn cứ vào dung lượng có thể chia tự sự thành: truyện ngắn, truyện dài, truyện vừa. Trên đây là những căn cứ cơ bản để phân chia thể loại tự sự. Hiện nay, khi phân chia thể loại tự sự, chúng ta vẫn dựa vào những căn cứ này. 1.2.4.3. Đặc điểm thể loại tự sự Sv: Vò ThÞ §µo Footer Page 15 of 75. 15 K32B – V¨n Header Page 16 of 75. Khãa luËn tèt nghiÖp Đặc điểm của thể loại văn học là các dấu hiệu cơ bản nhất để nhận ra loại hình văn học này so với loại hình văn học khác. Ở thể loại tự sự, những dấu hiệu đó thể hiện ở ba yếu tố: cốt truyện, nhân vật và ngôn ngữ. * Cốt truyện Cốt truyện là thành phần không thể thiếu trong tác phẩm tự sự. Nó là yếu tố đầu tiên để xây dựng lên một tác phẩm văn học. Một số quan niệm về cốt truyện được hiểu như sau: “Từ điển tiếng Việt” (2007) cho rằng “cốt truyện là một hệ thống sự kiện làm nòng cốt cho sự diễn biến các mối quan hệ và sự phát triển của tính cách nhân vật trong tác phẩm văn học loại tự sự”. Trong cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học”, “cốt truyện là hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu tư tư tưởng nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học. ”[4;88]. Hoặc trong cuốn “Lí luận văn học ”(GS. Hà Minh Đức chủ biên)“ cốt truyện là hệ thống các sự kiện phản ánh những diễn biến của cuộc sống và nhất là các xung đột xã hội một cách nghệ thuật, qua đó các cách hình thành và phát triển trong mối quan hệ qua lại của chúng làm sáng tỏ chủ để và tư tưởng tác phẩm”. Có nhiều quan niệm khác nhau về cốt truyện nhưng về cơ bản cốt truyện được hiểu là tập hợp các sự kiện, sự việc, biến cố trong đời sống được nhà văn tập hợp lại tạo thành một hệ thống. Hệ thống đó đầy đủ chặt chẽ các thành phần (trình bầy, khai đoạn, phát triển, cao trào, kết thúc). Trong quá trình vận động phát triển, khái niệm cốt truyện có sự biến đổi. Nó trở nên linh hoạt hơn, có thể không đầy đủ các thành phần nhưng vẫn phải có các yếu tố: (quá trình hình thành, phát triển, kết thúc). Như vậy, nói tới cốt truyện là nói tới các biến cố, các sự kiện có ý nghĩa quyết định đến cuộc đời nhân vật. Qua cốt truyện, chúng ta sẽ có cái Sv: Vò ThÞ §µo Footer Page 16 of 75. 16 K32B – V¨n Header Page 17 of 75. Khãa luËn tèt nghiÖp nhìn bao quát tác phẩm và có thể giúp bạn đọc hình dung về sự vận động chiều hướng con đường đời nhân vật cũng như ý đồ nghệ thuật của tác giả. *Nhân vật Bất kì một tác phẩm văn học nào cũng có nhân vật. Nhân vật chính là phương tiện hình thức để nhà văn phản ánh, tái hiện đời sống, gửi gắm những quan điểm, tư tưởng tình cảm của mình. Hiểu một cách cụ thể nhân vật văn học là “con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học” [4 ;202]. Theo G.S. Trần Thanh Đạm: “nhân vật là hình tượng những con người đang sống, suy nghĩ, cảm xúc, hành động trong những môi trường, hoàn cảnh, tình huống, những con người có quá trình, vận mệnh, có khi có bản sắc và có tính cách”. Tuy nhiên, trong các tác phẩm ngụ ngôn, thậm chí cả truyện hiện đại thì nhân vật trong tác phẩm không chỉ là con người. Nó còn có thể là các con vật. Ví như, trong tác phẩm “Dế Mèn phiêu lưu kí” của Tô Hoài, các nhân vật là các loài vật: Dế Mèn, Dế Trũi, Cào Cào, Gọng Vó, Xén Tóc… Vì vậy, nhân vật phải được hiểu theo nghĩa rộng. Nó có mối quan hệ chặt chẽ với “con người” trong đời sống nhưng nó không đồng nhất… Theo cách hiểu này, nhân vật văn học không chỉ là con người mà còn có thể là những sự vật, loài vật ít nhiều mang bóng dáng, tính cách của con người được dùng như những phương thức để biểu hiện con người. Nhân vật là một đặc điểm nổi bật của tác phẩm tự sự. Ở mỗi một phương pháp sáng tác, mỗi trào lưu văn học và mỗi nhà văn khác nhau lại có những kiểu xây dựng nhân vật khác nhau. Tuy nhiên, các nhân vật trong tác phẩm tự sự vẫn luôn phải tuân thủ theo một số qui ước: nhân vật phải có lai lịch, xuất thân, tính cách và luôn được đặt trong các mối quan hệ khác nhau của nhân vật. Những qui ước ấy không chỉ là căn cứ để nhà văn xây dựng Sv: Vò ThÞ §µo Footer Page 17 of 75. 17 K32B – V¨n Header Page 18 of 75. Khãa luËn tèt nghiÖp nhân vật mà còn là cơ sở để người đọc có thể tiếp nhận, tìm hiểu các nhân vật trong tác phẩm. * Ngôn ngữ Đặc trưng thứ ba của thể loại tự sự là ngôn ngữ. Cùng với cốt truyện và nhân vật thì ngôn ngữ là đặc trưng quan trọng vì nó vừa là công cụ vừa là chất liệu cơ bản của văn học. Ngôn ngữ là yếu tố mang tính phi vật thể được dùng để xây dựng tác phẩm văn học. Vì vậy, M.Gorki đã khẳng định “yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của nó và cùng với các sự kiện, các hiện tượng của cuộc sống-là chất liệu của văn học”. Căn cứ vào thể loại văn học, người ta chia ngôn ngữ văn chương thành ba loại: ngôn ngữ tự sự, ngôn ngữ trữ tình và ngôn ngữ kịch. Cả ba loại ngôn ngữ này đều mang tính chính xác, tính hàm xúc, tính đa nghĩa và tính biểu cảm cao. Tuy nhiên, những thuộc tính chung đó thể hiện qua các loại thể văn học khác nhau là khác nhau. Cụ thể, trong tác phẩm tự sự, ngôn ngữ chủ yếu là dùng lối kể chuyện để phản ánh hiện thực và biểu hiện tâm tư con người. Trong ngôn ngữ tự sự lại được chia thành: ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ người kể chuyện. Hai loại ngôn ngữ này luôn đan xen, tác động qua lại lẫn nhau và biểu hiện xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm. Qua hệ thống tín hiệu ngôn ngữ ấy, chúng ta sẽ hiểu được nội dung tư tưởng cũng như giá trị nghệ thuật mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm của mình. Cốt truyện, nhân vật và ngôn ngữ là ba yếu tố có mối quan hệ khăng khít với nhau. Nó chính là cơ sở để tạo nên một chỉnh thể văn học. 1.3. Vấn đề đọc - hiểu 1.3.1. Quan niệm đọc - hiểu Sv: Vò ThÞ §µo Footer Page 18 of 75. 18 K32B – V¨n Header Page 19 of 75. Khãa luËn tèt nghiÖp Đọc - hiểu là vấn đề đã được đặt ra từ rất lâu trong lịch sử loài người. Những năm gần đây, vấn đề này đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Có rất nhiều những quan niệm khác nhau về vấn đề đọc - hiểu. Theo GS.TS. Nguyễn Thanh Hùng trong “Đọc - hiểu văn chương” (Tạp chí GD số 92, [tr26]) quan niệm “đọc - hiểu là một hoạt động của con người. Nó không chỉ là hình thức nhận biết nội dung ý tưởng từ văn bản mà còn là hoạt động tâm lí giàu cảm xúc có tính trực giác và khái quát trong sự nếm trải của con người”… Hoặc theo PGS.TS. Nguyễn Thái Hoà cho rằng: “đọc hiểu là hành vi ngôn ngữ sử dụng một loạt thủ pháp và thao tác bằng cơ quan thị giác, thính giác để tiếp nhận, phân tích, giải mã và ghi nhớ nội dung thông tin, cấu trúc văn bản ” (cuốn “Vấn đề đọc hiểu và dạy đọc hiểu”-Viện nghiên cứu sư phạm trường ĐHSP Hà Nội [tr4]). Một nhóm tác giả SGK Ngữ văn THCS như Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử… lại cho rằng “đọc - hiểu là một phương pháp và phương pháp này tập trung nhiều vào văn bản”. Với quan niệm này, đọc - hiểu tồn tại là một phương pháp với tư cách ngang bằng các phương pháp khác như phương pháp so sánh, phân tích, giảng giải… Đây là một quan niệm mới và hết sức tiến bộ. Bởi trước đây, đọc - hiểu chỉ được coi là một cấp độ của giảng dạy, một trong bốn kĩ năng (nghe, nói, đọc, viết) của học sinh. Nhưng trong thời đại công nghệ thông tin phát triển thì đọc - hiểu đã trở thành một phương pháp, một con đường tiếp nhận tác phẩm văn học. Quan niệm của nhóm những người làm phương pháp trường ĐHSP Hà Nội mà GS. Phan Trọng Luận (chủ biên) lại cho rằng “đọc - hiểu là một kiểu dạy học văn bản Ngữ văn”. Do quan niệm đọc - hiểu là một kiểu dạy học nên trong quá trình dạy người dạy có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau trong kiểu dạy học mới này như: phương pháp so sánh, phân tích, giảng Sv: Vò ThÞ §µo Footer Page 19 of 75. 19 K32B – V¨n Header Page 20 of 75. Khãa luËn tèt nghiÖp bình…Tuỳ thuộc vào những loại văn bản cụ thể mà người dạy có thể chọn cho mình những phương pháp phù hợp với kiểu dạy học tích cực: đọc - hiểu như hiện nay. Trên đây là một số quan niệm khác nhau về đọc - hiểu. Tuy có những quan niệm khác nhau nhưng tất cả những quan niệm trên đều đặc biệt quan tâm đến một hoạt động khi dạy các văn bản Ngữ văn đó là hoạt động đọc. Đọc là một hoạt động của con người để hướng tới một mục đích nhất định. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, người viết sẽ vận dụng đọc - hiểu với tư cách là một kiểu dạy học, một quá trình lao động sáng tạo mang tính thẩm mỹ nhằm phát hiện ra những giá trị của tác phẩm trên cơ sở phân tích đặc trưng thể loại văn bản. 1.3.2. Đọc - hiểu là con đường tiếp nhận tác phẩm văn học Văn chương là loại hình nghệ thuật ngôn từ lấy ngôn ngữ làm chất liệu để xây dựng nên những hình tượng nghệ thuật. Thông qua hình tượng nghệ thuật, nội dung tư tưởng của tác phẩm sẽ được thể hiện. Do vậy, bạn đọc muốn giải mã được những kí tự ngôn ngữ để chiếm lĩnh, xử lý những thông tin trong tác phẩm thì không có cách nào khác là phải tiến hành quá trình đọc - hiểu. Tác phẩm văn chương là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Nó là cái thuộc về tinh thần, là cái vô hình, vô ảnh. Không chỉ vậy, nó còn là sản phẩm cuả sự hư cấu và tưởng tượng của nhà văn. Bạn đọc muốn tiếp nhận được tác phẩm văn học cần phải có tầm đón nhận nhất định. Nó phụ thuộc vào vốn hiểu biết, kinh nghiệm sống và các điều kiện cụ thể của mỗi người. Để làm được điều đó, bạn đọc không có cách nào khác là phải đọc. Đọc - hiểu tác phẩm văn học không chỉ là một hoạt động nhận thức nội dung tư tưởng văn bản mà còn là một hoạt động trực quan sinh động, giàu cảm xúc, có tính trực giác và khái quát trong sự nếm trải của con người. Sv: Vò ThÞ §µo Footer Page 20 of 75. 20 K32B – V¨n
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất