Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Do có mâu thuẫn trong kinh doanh, p đã nhờ q đến đốt xưởng của n vào ban đêm. hậ...

Tài liệu Do có mâu thuẫn trong kinh doanh, p đã nhờ q đến đốt xưởng của n vào ban đêm. hậu quả là toàn bộ nhà xưởng và máy móc của n đã bị thiêu rụi, thiệt hại

.DOCX
7
16
83

Mô tả:

Đề bài: Do có mâu thuẫn trong kinh doanh, P đã nhờ Q đến đốt xưởng của N vào ban đêm. Hậu quả là toàn bộ nhà xưởng và máy móc của N đã bị thiêu rụi, thiệt hại 350 triệu đồng. Hỏi: 1. Định tội danh và khung hình phạt áp dụng đối với hành vi của P, Q. 2. Giả sử Q đốt, Q không biết còn một công nhân của N bị say rượu nằm ngủ quên trong xưởng nên đã gây ra hậu quả chết người. Q có phải chịu trách nhiệm hình sự về cái chết của người công nhân này không? Tại sao? 3. Giả sử Q vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp tài sản, chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm tội nêu trên thì trường hợp phạm tội của Q là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? Tại sao? 1. Định tội danh và khung hình phạt áp dụng đối với hành vi của P, Q. Tội danh của P và Q trong vụ việc nêu trên là tội hủy hoại tài sản của người khác được quy định tại điều 143 BLHS Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. * Mặt khách quan của tội phạm: - Hành vi khách quan của tội này là hành vi hủy hoại tài sản của người khác. Hành vi hủy hoại là hành vi làm cho tài sản mất giá trị sử dụng ở mức độ không còn hoặc khó có khả năng khôi phục được. Cụ thể trong vụ án nêu trên P đã xui Q đốt xưởng của N làm toàn bộ xưởng và máy móc bị thiêu rụi, tài sản đã không thể sử dụng và khôi phục được do hành vi bằng hành động của Q là đốt xưởng. Trong vụ án nêu trên phương tiên gây án dù không được nhắc đến cụ thể nhưng hành vi hủy hoại tài sản bằng cách đốt cháy khiến tính chất vụ án thay đổi, việc hủy hoại tài sản bằng cách đốt cháy có tính chất nguy hiểm cao hơn việc hủy hoại tài sản bằng tay không hay đạp phá…bởi lẽ hậu quả do hành vi nêu ra khó kiểm soát, gây thiệt hại rất lớn về tài sản vượt ra ngoài khả năng chi phối của người phạm tội, có thể còn nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe… - Hậu quả của tội phạm: hậu quả của hành vi hủy hoại tài sản là giá trị hoặc giá trị sử dụng của tài sản bị hủy hoại. Giá trị hoặc giá trị sử dụng của tài sản là thiệt hại do hành vi hủy hoại gây ra chứ hông phải giá trị hoặc giá trị sử dụng ban đầu của tài sản khi chưa bị hủy hoại. Trong vụ án nêu trên hậu quả đã xảy ra khi toàn bộ xưởng và máy móc bị thiêu rụi gây thiệt hại lên đến 350 triệu đồng vậy nên tội phạm đã hoàn thành. - Quan hệ nhân quả: P và Q phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về hành vi của mình gây ra, bởi lẽ hậu quả thiệt hại nêu trên xảy ra là do hành động đốt xưởng của Q sau khi nghe P xúi giục, nghĩa là hậu quả đó do chính hành vi của họ gây ra. * Mặt chủ quan của tội phạm: - Lỗi: lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý, cụ thể đây là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết hành vi của mình có khả năng hủy hoại tài sản của người khác nhưng đã thực hiện hành vi đó vì mong muốn tài sản bị hủy hoại. - Động cơ: Người phạm tội hủy hoại tài sản với nhiều động cơ khác nhau như ghen tuông, trả thù…nhưng chủ yếu là do tư thù. Động cơ không phải dấu hiệu bắt buộc của cấu thành, mà nó chỉ có ý nghĩa trong việc xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, dù với động cơ nào đi chăng nữa hành vi hủy hoại tài sản cũng đều cấu thành tội. Trong vụ án nêu trên việc P nhờ Q đốt xưởng của N với mục đích trả thù do có mâu thuẫn trong kinh doanh từ trước, còn Q dù không có mâu thuẫn nhưng P nhờ nên đã thực hiện việc đốt xưởng. - Mục đích: là mong muốn hủy hoại tài sản của người khác. Ngoài mục đích này người phạm tội không có mục đích nào khác và mục đích này cũng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu người phạm tội có mục đích khác, còn việc hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản chỉ là phương pháp để đạt được mục đích khác thì không phạm tội hủy hoại tài sản, mà tùy từng trường hợp cụ thể, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội tương ứng. * Khách thể của tội phạm: hành vi hủy hoại tài sản đã xâm phạm quan hệ sở hữu Trong vụ án nêu trên có hai người cùng thực hiện tội phạm là P và Q. Hai người này cùng thực hiện tội phạm một cách cố ý. Trong vụ án nêu trên xét thấy P và người xúi giục còn Q là người thực hành. Bởi lẽ: - Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm (khoản 2 Điều 20 BLHS) P tác động đến tư tưởng và ý chí của Q, vì có mâu thuẫn trong kinh doanh với N từ trước nên P đã nhờ Q đốt xưởng của N, có thể thấy P chính là “tác giả tinh thần” của vụ án trên, P nghĩ ra việc phạm tội và thúc đẩy cho tội phạm đó được thực hiện thong qua người khác – cụ thể là Q. Về mặt chủ quan, P có ý định rõ ràng thúc đẩy Q phạm tội thông qua việc nhờ Q đốt xưởng của N. - Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm (khoản 2 Điều 20 BLHS). Q đã tự mình thực hiện hành vi đốt xưởng của N sau khi nhận lời nhờ đốt của P, trong vụ án này P đã tự mình thực hiện những hành vi được mô ta trong CTTP, đốt xưởng của N vào ban đêm gây hậu quả thiệt hại làm toàn bộ xưởng và máy móc bị thiêu rụi. Trong đồng phạm, hành vi của mỗi người là bộ phận cần thiết trong hoạt động chung đó, hậu quả của tội phạm là kết quả hoạt động chung của tất cả những người đồng phạm. Luật hình sự Việt Nam quy định tất cả những người đồng phạm đều bị truy tố, xét xử về cùng tội danh, theo cùng điều luật và trong phạm vi những chế tài điều luật ấy quy định. Vì vậy trong vụ án nêu trên cả P và Q đều bị truy cứu TNHS về tội hủy hoại tài sản được quy định tại điều 143 BLHS. Cụ thể khung hình phạt được áp dụng trong vụ án nêu trên là khung tăng nặng thứ hai quy định tại khoản 3 Điều 143 BLHS “3. Phạm tội thuộc một trong các trường hơp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng. b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng” Bởi lẽ thủ đoạn phạm tội tỏng vụ án có tính chất nguy hiểm là dung chất cháy thực hiện việc hủy hoại tài sản khiến toàn bộ nhà xưởng và máy móc bị thiêu rụi, làm thiệt hại trong vụ án lên đến 350 triệu đồng. Vậy nên áp dụng khung hình phạt quy định tại khoản 3 Điều 143 BLHS cho cả P và Q. 2. Giả sử Q đốt, Q không biết còn một công nhân của N bị say rượu nằm ngủ quên trong xưởng nên đã gây ra hậu quả chết người. Q có phải chịu trách nhiệm hình sự về cái chết của người công nhân này không? Tại sao? Trong giả thuyết đưa ra, nếu Q đốt xưởng mà không biết trong xưởng còn một công nhân của N bị say rượu nằm ngủ quên trong xưởng gây ra hậu quả người này chết. Q phải chịu trách nhiệm hình sự với hậu quả này với lỗi vô ý, trong trường hợp này rõ ràng khi đốt xưởng của N, Q cần thấy trước việc có thể còn có người trong xưởng nhưng Q đã không thấy trước, dù mục đích của Q chỉ là đốt xưởng nhằm làm hủy hoại tài sản của N chứ không nhằm mục đích giết người. Hành vi của Q đã gây ra hậu quả nghiêm trọng, đây là hậu quả nguy hiểm cho xã hội có tính chất nghiêm trọng mà hành vi hủy hoại đã gây ra bên cạnh những thiệt hại vật chất cụ thể mà CTTP đòi hỏi. Cụ thể ở đây là hậu quả chết người với lỗi vô ý. Hành vi đốt xưởng của Q chỉ nhằm mục đích hủy hoại tài sản chứ không nhằm mục đích giết người, trường hợp có người say rượu ngủ quên trong xưởng hoàn toàn Q không biết, cái chết đó nằm ngoài dự liệu của Q, lỗi của Q đối với hậu quả này là lỗi vô ý vì vậy Q phải chịu trách nhiệm về cái chết của người công nhân được quy định tại điểm c khoản 2 điều 143 BLHS “c, gây hậu quả nghiêm trọng” Tóm lại Q phải chịu TNHS về cái chết của người công nhân trong xưởng của N với lỗi vô ý phạm tội. 3. Giả sử Q vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp tài sản, chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm tội nêu trên thì trường hợp phạm tội của Q là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? Tại sao? Trước tiên xét về bản án Q vừa chấp hành xong mà chưa được xóa án tích về tội cướp tài sản với mức án 3 năm tù, nghĩ là Q bị tòa án áp dụng khoản 1 Điều 133 Tội cướp tài sản “1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dung vũ lực….thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm”, xét thấy mức cao nhất của khung hình phạt là mười năm tù, căn cứ khoản 3 điều 8 BLHS “…tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù…”. Đối với tội cướp tài sản rõ rang lỗi ở đây là lỗi cố ý. Vậy tội phạm mà trước đấy Q vi phạm là tội rất nghiêm trọng với lỗi cố ý. Trong lần vi phạm này tội của Q được xác định là tội hủy hoại tài sản được quy định tại khoản 3 Điều 143 BLHS “3. Phạm tội thuộc một trong các trường hơp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: c) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng. d) Gây hậu quả rất nghiêm trọng” Mức cao nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 3 Điều 143 là phạt tù đến mười lăm năm tù. Căn cứ khoản 3 Điều 8 BLHS quy định “…tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù”. Vậy Q phạm tội rất nghiêm trọng trong lần vi phạm này, căn cứ khoản 2 Điều 49 BLHS “2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm: a) Đã bị kết án về tội rất nghiêm tọng, tội đặc biệt nghiêm tọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm tọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý.”
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan