MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU...............................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG .............................................3
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG............................................................................................3
1.1.1. KHÁI NIỆM ĐỊNH TỘI ...................................................................................3
1.1.2. CÁC LOẠI ĐỊNH TỘI......................................................................................6
1.2.3. CÁC GIAI ĐOẠN ĐỊNH TỘI ..........................................................................7
1.2.4. Ý NGHĨA CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI ĐÚNG .......................................................8
1.2.4.1.THẾ NÀO LÀ ĐỊNH TỘI ĐÚNG?...........................................................8
1.2.4.2.Ý NGHĨA CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI ĐÚNG................................................8
1.2. NHỮNG CĂN CỨ PHÁP LÝ VÀ KHOA HỌC CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI ...........10
1.2.1. NHỮNG CĂN CỨ PHÁP LÝ ........................................................................10
1.2.1.1. PHÁP LUẬT HÌNH SỰ, CƠ SỞ PHÁP LÝ QUAN TRỌNG...............10
1.2.1.2.CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT THUỘC CÁC NGÀNH……………….12
1.2.2. NHỮNG CĂN CỨ KHOA HỌC ....................................................................12
CHƯƠNG 2. ĐỊNH TỘI TRONG TRƯỜNG HỢP TỘI PHẠM HOÀN ............13
Trung
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
2.1. SƠ LƯỢC CÁC GIAI ĐOẠN...............................................................................13
2.1.1. CHUẨN BỊ PHẠM TỘI..................................................................................13
2.1.2. PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT ................................................................................14
2.1.3. TỘI PHẠM HOÀN THÀNH...........................................................................16
2.2. DẤU HIỆU KHÁCH THỂ CỦA TỘI PHẠM ......................................................17
2.2.1. KHÁCH THỂ CHUNG CỦA..........................................................................17
2.2.2. KHÁCH THỂ LOẠI........................................................................................17
2.2.3. KHÁCH THỂ TRỰC TIẾP .............................................................................18
2.2.4. ĐỐI TƯỢNG TÁC ĐỘNG CỦA TỘI PHẠM................................................19
2.3. DẤU HIỆU MẶT KHÁCH QUAN ......................................................................22
2.3.1. HÀNH VI PHẠM TỘI ĐỐI VỚI ....................................................................22
2.3.2. DẤU HIỆU HẬU QUẢ...................................................................................34
2.3.3. MỐI QUAN HỆ NHÂN QUẢ ........................................................................38
2.3.4. CÔNG CỤ PHƯƠNG TIỆN PHẠM TỘI .......................................................41
2.3.5. PHƯƠNG PHÁP THỦ ĐOẠN PHẠM TỘI ...................................................42
2.3.6. CÁC DẤU HIỆU THỜI GIAN ĐỊA ĐIỂM HOÀN CẢNH...........................44
2.4. DẤU HIỆU CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM ĐỐI VỚI............................................45
2.4.1. TUỔI CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ.......................................................46
2.4.2. DẤU HIỆU NĂNG LỰC TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ..................................46
2.4.3. CHỦ THỂ ĐẶC BIỆT.....................................................................................47
2.4.4. NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI ...............................................................47
2.5. MẶT CHỦ QUAN CỦA TỘI PHẠM ĐỐI VỚI ..................................................50
2.5.1. DẤU HIỆU LỖI ..............................................................................................51
2.5.2. ĐỘNG CƠ PHẠM TỘI ...................................................................................54
2.5.3. MỤC ĐÍCH PHẠM TỘI .................................................................................55
2.5.4. SAI LẦM VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA SAI LẦM ..............................................56
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN............................59
3.1. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ..........................................59
3.1.1. TỪ GÓC ĐỘ NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN .......................................................59
3.1.2. TRONG HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN XÉT XỬ.............................................60
3.2. NHỮNG VƯỚNG MẮC KHI ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ...................62
3.3. NHỮNG ĐÓNG GÓP HOÀN THIỆN VƯỚNG MẮC .......................................65
KẾT LUẬN .................................................................................................................78
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Định tội trong trường hợp tội phạm hoàn thành
LỜI NÓI ĐẦU
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
Định tội danh 1 là vấn đề quan trọng của việc áp dụng pháp luật hình sự. Có định
tội đúng mới tạo cơ sở để các quan hệ tiến hành tố tụng có thẩm quyền quyết định hình
phạt, từ đó hình phạt áp dụng mới thực sự có ý nghĩa trừng trị, giáo dục và phòng
ngừa…Trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự, việc định tội không chỉ giới hạn ở
việc xác định tên tội theo Bộ luật hình sự quy định, mà quá trình này đòi hỏi phải chỉ
rõ điều, khoản nào của Điều luật quy định về tội danh đó. Quá trình này không phải
lúc nào cũng có thể xác định dễ dàng, nhiều trường hợp việc xác định rất khó khăn,
còn có quan điểm khác giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, giữa các cơ quan tiến hành
tố tụng với người tham gia tố tụng…Thậm chí nhiều trường hợp phải xét xử lại ở cấp
phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm.
Do đó việc nghiên cứu đề tài này không những góp phần làm phong phú và sâu
sắc lý luận về định tội mà còn góp phần giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng định
tội chính xác đối với các hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra trong thực tiễn, từ đó xử
lý đúng người, đúng tội và đúng pháp luật hình sự đối với người thực hiện hành vi
phạm tội.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Hiện nay vấn đề “định tội” mới chỉ được đề cập đến một số bài viết của một số
tác giả chưa được tập hợp và hệ thống lại; chưa có công trình nghiên cứu nào về vấn
đề này một cách toàn diện, sâu sắc. Vì vậy việc nghiên cứu đề tài này là cần thiết và có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Tác giả nghiên cứu đề tài này nhằm làm rõ lý luận về định tội, những căn cứ định
tội theo BLHS 1999, những vấn đề áp dụng BLHS trong thực tiễn định tội đối với
trường hợp tội phạm hoàn thành.
Kết quả nghiên cứu áp dụng vào thực tiễn góp phần nhận thức và áp dụng thống
nhất về BLHS 1999 giải quyết những vướng mắc trong họat động định tội và bảo đảm
tính chính xác trong quá trình giải quyết vụ án hình sự: đảm bảo việc định tội đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài chỉ nghiên cứu các quy định, các vấn đề về định tội trong trường hợp tội
phạm hoàn thành ở góc độ lý luận và thực tiễn, không nghiên cứu các vấn đề khác của
BLHS như hình phạt, trách nhiệm hình sự…
1
Gọi tắt là định tội.
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
H1I
SVTH: Lê Trọng Nghĩa
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Định tội trong trường hợp tội phạm hoàn thành
4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, tác giả đã sử dụng những phương pháp sau đây:
9 Phương pháp thống kê: Nhằm nắm được các số liệu về họat động định tội.
9 Phương pháp phân tích, so sánh và tổng hợp: Nhằm làm rõ các căn cứ định tội
trong các trường hợp phạm tội cả về mặt lý luận và thực tiễn; tìm ra sự phù hợp và
chưa phù hợp giữa các quy định của Luật hình sự với thực tiễn giải quyết các vụ án
hình sự về mặt định tội.
Những phương pháp nghiên cứu trên giúp cho tác giả rút ra những kết luận và
kiến nghị cần thiết, góp phần nhận thức và áp dụng các quy định của BLHS vào việc
định tội được chính xác.
5. Cơ cấu đề tài
Ngoài lời nói đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài nghiên
cứu gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về định tội.
Chương 2: Định tội trong trường hợp tội phạm hoàn thành.
Chương 3: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện trong việc định tội.
Trong quá trình nghiên cứu, do lần đầu tiếp cận vấn đề và một phần là do kiến
thức còn hạn hẹp nên không tránh khỏi những sai sót và hạn chế. Rất mong sự đóng
Trung
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
góp quý báu của thầy cô và bạn đọc để đề tài nghiên cứu hoàn thiện hơn.
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
H2I
SVTH: Lê Trọng Nghĩa
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Định tội trong trường hợp tội phạm hoàn thành
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Khái quát chung
1.1.1. Khái niệm định tội
Trong khoa học Luật hình sự, Định tội có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác
nhau, tùy theo mục đích của việc nghiên cứu: Định tội được hiểu như là một quá trình
nhận thức các quy định của pháp luật hình sự cũng như hành vi phạm tội trong thực tế,
hoặc như là một đánh giá của người áp dụng pháp luật trong việc xử lý người phạm tội
trong tố tụng hình sự…Tuy nhiên, dù xem xét từng góc độ nào thì việc định tội cũng
đưa đến kết quả là xác định một người phạm tội gì? Điểm, khoản, điều nào của BLHS.
Việc tách ra từng khái niệm từ những góc độ khác nhau chỉ có ý nghĩa về mặt khoa
học khái quát hóa thực tiễn và rút ra những khái niệm đúng đắn để phục vụ cho việc
hoàn thiện pháp luật hình sự cũng như việc áp dụng pháp luật hình sự trong thực tiễn.
ª Trước hết, định tội được hiểu là một giai đoạn quan trọng của việc áp dụng
Luật hình sự.
Luật hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước CHXHCN Việt
Nam, bao gồm hệ thống những quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, xác định
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm đồng thời quy định hình phạt
đối với những tội phạm ấy 2 . Như vậy có thể nói luật hình sự là hệ thống các quy phạm
pháp luật, quy định về tội phạm và hình phạt. Luật hình sự được Nhà nước ban hành là
để điều chỉnh quan hệ xã hôi phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội khi người
này thực hiện tội phạm, do đó Luật hình sự chỉ có ý nghĩa khi áp dụng trong thực tiễn
đấu tranh phòng và chống tội phạm. Áp dụng Luật hình sự là hoạt động do các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền thực hiện nhằm bảo đảm cho các quy phạm pháp luật hình sự
được thực hiện trong thực tiễn.
Quá trình áp dụng Luật hình sự ở dạng khái quát là xen xét hành vi của một
người có cấu thành tội phạm hay không? Nếu có thì người đó phạm tội gì? điều,
khoản, điểm nào của BLHS. Và vấn đề áp dụng hình phạt được quy định trong quy
phạm pháp luật đó như thế nào với người phạm tội. Trong quá trình áp dụng pháp luật
hình sự đó thì việc xem xét một người có phạm tội hay không, nếu có thì phạm tội gì,
điều, khoản, điểm nào của BLHS quy định về tội đó, quá trình này thuộc về quá trình
định tội.
2
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Trường Đại học luật Hà Nội, Nxb CAND, 2001, trang 7.
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
H3I
SVTH: Lê Trọng Nghĩa
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Định tội trong trường hợp tội phạm hoàn thành
Hiện nay, còn có sự tranh luận xung quanh khái niệm định tội hay định tội danh.
Với cách hiểu này thì việc áp dụng pháp luật hình sự không chỉ giới hạn ở việc xác
định tên tội (Định tội danh) theo BLHS quy định, mà nó bao gồm một quá trình rộng
hơn và phức tạp hơn. Quá trình định tội không chỉ dừng lại ở việc xác định tên tội và
điều nào quy định về trường hợp phạm tội đó mà còn phải chỉ rõ hành vi phạm tội đó
thuộc khoản nào, điểm nào…của điều luật quy định về tội phạm đó. Chẳng hạn nếu
hành vi giết người vì động cơ đê hèn thì ngoài việc định tội là giết người theo Điều 93
BLHS, còn phải xác định hành vi này thuộc khoản 1 điểm q của điều 93 (cấu thành tội
phạm tăng nặng) của tội giết người. Có xác định như vậy, việc định tội mới chính xác
phù hợp với bản chất của việc áp dụng pháp luật hình sự.
ª Định tội còn được hiểu là một quá trình tư duy logic bao gồm các quy trình tuy
độc lập với nhau về mặt nghiên cứu nhưng trên thực tế liên quan chặt chẽ được thực
hiện đồng thời và xen kẽ nhau.Các quá trình đó là:
Thứ nhất: Quá trình xác định các tình tiết thực tế của vụ án.Việc xác định các tình
tiết của vụ án đòi hỏi phải nhanh chóng, đầy đủ, chính xác và đúng pháp luật tố tụng
hình sự. Do đó đòi hỏi người áp dụng pháp luật hình sự phải nắm vững pháp luật hình
sự và pháp luật tố tụng hình sự; có năng lực thực hiện các hoạt động xác định sự thật
vụ án.
Trung tâm
Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Thứ hai: Nhận thức về các qui định của BLHS. Các quy phạm pháp luật hình sự
được quy định ngắn gọn, khái quát hành vi nguy hiểm cho xã hội, mà việc giải thích
pháp luật còn hạn chế, trình độ nhận thức của từng người áp dụng pháp luật khác
nhau…cho nên đã xảy ra nhiều trường hợp nhận thức pháp luật hình sự không thống
nhất trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự nhất là những tình tiết BLHS quy định
như: Gây hậu quả nghiêm trọng, thiệt hại nghiêm trọng…v.v. Thậm chí các cơ quan có
trách nhiệm hướng dẫn việc áp dụng thống nhất pháp luật hình sự cũng còn có những ý
kiến khác nhau về quy phạm pháp luật của BLHS. Chính vì vậy mà cùng một hành vi
phạm tội nhưng có sự định tội khác nhau giũa các cơ quan tiến hành tố tụng, giữa các
cấp áp dụng pháp luật hình sự làm cho pháp luật hình sự không được thực hiện nghiêm
chỉnh và thống nhất. Trong nhận thức pháp luật hình sự thì nhận thức về cấu thành tội
phạm có ý nghĩa rất quan trọng. Cấu thành tội phạm với ý nghĩa là sự mô tả tội phạm
luôn là cơ sở pháp lý của việc định tội.
Thứ ba: Quá trình so sánh giữa tình tiết thực tế của vụ án hình sự với những quy
định của BLHS để tìm ra sự tương đồng. Việc xác định chính xác các tình tiết của vụ
án và việc nhận thức đúng đắn các quy phạm pháp luật hình sự là cơ sở để so sánh tìm
ra sự tương đồng, sự phù hợp, từ đó định tội mới chính xác.
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
H4I
SVTH: Lê Trọng Nghĩa
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Định tội trong trường hợp tội phạm hoàn thành
ª Định tội còn có thể hiểu là sự đánh giá pháp lý hình sự về hành vi nguy hiểm
cho xã hội mà người phạm tội đã thực hiện và kết quả của việc đánh giá đó là việc
khẳng định người phạm tội phạm tội gì, điểm, khoản, Điều nào của BLHS quy định về
trường hợp phạm tội đó. Cách hiểu theo nghĩa này thường được áp dụng trong thực
tiễn điều tra, truy tố, xét xử. Đặc biệt là trong việc kiểm sát việc khởi tố, điều tra của
Viện kiểm sát đối với kết quả điều tra của cơ quan điều tra, trong việc giám đốc xét xử
(xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm…) của Tòa án cấp trên đối với cấp dưới.
Trên đây là ba nhận thức về khái niệm định tôi, những khái niêm này chỉ độc lập
tương đối từ góc độ nghiên cứu mà thôi. Còn trong thực tiễn, chúng liên quan chặt chẽ
với nhau, cách nhận thức này là điều kiện, là tiền đề cho các nhận thức sau. Chẳng hạn
nếu không thực hiện việc định tội như một quá trình tư duy logic khoa học bao gồm
xác định các tình tiết có ý nghĩa trong trường hợp phạm tội cụ thể, nhận thức pháp luật
hình sự và tiến hành so sánh tìm kiếm sự tương đồng nhất giữa các quy định pháp luật
với các tình tiết thực tế của vụ án đã xảy ra, thì làm gì có sự đánh giá đúng đắn về tội
phạm vào việc áp dụng các quy định khác của pháp luật hình sự.
Qua phân tích trên, có thể rút ra khái niệm định tội như sau: Định tội là việc xác
định và ghi nhận về mặt pháp lý hình sự, phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy
hiểm cho xã hội đã thực hiện trong thực tế với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm
Trung
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
trong BLHS.
Từ nội dung của khái niệm định tội và xuất phát từ thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự, chúng ta có thể nhận thấy việc định tội có những đặc điểm cơ bản sau đây:
9 Định tội là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic được thể hiện dưới hai
khía cạnh:
Một là, xác định xem các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực
hiện có phù hợp (tương đồng) với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm do các điều luật
tương ứng trong phần các tội phạm của BLHS quy định hay không?
Hai là, đưa ra sự đánh giá nhất định về mặt pháp lý hình sự đối với một hành vi
nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra trong thực tế khách quan.
9 Định tội là hình thức hoạt động pháp lý của các cơ quan tư pháp hình sự (các
cơ quan điều tra, truy tố và xét xử) để cụ thể hóa các quy phạm pháp luật hình sự trừu
tượng vào đời sống thực tế, tức là lựa chọn đúng quy phạm pháp luật để áp dụng đối
với hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể tương ứng được xem xét,và từ đó đưa ra kết
luận là hành vi ấy có đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm do Luật hình sự quy định hay
không?
9 Định tội phải bảo đảm tuân thủ nghiêm chỉnh các quy phạm pháp luật hình sự
và tố tụng hình sự. Đặc điểm này bảo đảm cho việc định tội có cơ sở pháp lý và có ý
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
H5I
SVTH: Lê Trọng Nghĩa
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Định tội trong trường hợp tội phạm hoàn thành
nghĩa trong việc giải quyết vụ án hình sự. Định tội với tính chất là một dạng của hoạt
động áp dụng khoa học pháp luật hình sự, vì vậy về cơ bản nó dược tiến hành theo bốn
bước:
¾ Xem xét và thiết lập đúng tình tiết thực tế của vụ án trong sự phù hợp với hiện
thực khách quan.
¾ Nhận thức một cách thống nhất và chính xác nội dung các quy phạm pháp luật
hình sự đang có hiệu lực thi hành.
¾ Lựa chọn đúng Điều luật quy định về cấu thành tội phạm tương ứng trong
BLHS để so sánh đối chiếu và kiểm tra đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực
hiện.
¾ Sau khi đã so sánh, đối chiếu và kiểm tra đầy đủ và chính xác xong thì ra một
văn bản áp dụng pháp luật mà trong đó đưa kết luận có căn cứ và bảo đảm sức thuyết
phục về sự phù hợp (tương đồng) của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện với
cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS.
1.1.2.Các loại định tội
Căn cứ vào chủ thể thực hiện việc định tội, khoa học Luật hình sự phân chia việc
định tội thành hai dạng: Định tội chính thức và định tội không chính thức.
- Định tội chính thức: là sự đánh giá về mặt Nhà nước tính chất pháp lý hình sự
Trung
tâm
Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
của hành vi phạm tội cụ thể do các chủ thể được Nhà nước ủy quyền thực hiện. Dạng
định tội này có các đặc điểm cơ bản là:
Các chủ thể định tội phải là người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đối với các vụ
án hình sự cụ thể, đó là các Điều tra viên, Kiểm sát viên,Thẩm phán và Hội thẩm. Hậu
quả của việc định tội này là các hậu quả pháp lý tố tụng hình sự như khởi tố vụ án hình
sự, khởi tố bị can, truy tố, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc ra bản án kết
tội. Tuy nhiên, việc định tội này chỉ có giá trị kết luận một người đã phạm tội cụ thể
nào đó khi Tòa án đã xét xử và kết tội bằng một bản án đã có hiệu lực pháp luật (Điều
10 BLTTHS).
- Định tội không chính thức: là sự đánh giá không phải về mặt Nhà nước tính chất
pháp lý hình sự của một hành vi phạm tội cụ thể. Dạng định tội này có các đặc điểm cơ
bản sau đây:
Chủ thể định tội không phải là người được Nhà nước ủy quyền. Họ có thể là bất
kỳ ai, nhưng thông thường họ là các luật gia, luật sư trong các lĩnh vực hình sự, các tác
giả các công trình khoa học, các nhà nghiên cứu luật, các tác giả các bài giảng, bài
báo…v.v. hay bất kì người nào quan tâm nghiên cứu vụ án hình sự cụ thể đã và đang
được định tội. Dạng định tội này không phát sinh quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hình
sự mà chỉ thể hiện quan điểm hay ý kiến riêng của cá nhân.
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
H6I
SVTH: Lê Trọng Nghĩa
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Định tội trong trường hợp tội phạm hoàn thành
1.1.3. Các giai đoạn định tội
Phân tích về mặt lý luận và nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và tố
tụng hình sự, có thể khẳng định rằng định tội là một quá trình diễn ra theo ba giai đoạn
có tính logic sau đây:
9 Giai đoạn thứ nhất: Xác định quan hệ pháp luật
Giai đoạn này thể hiện bằng việc phân tích các dấu hiệu cơ bản của hành vi đã
thực hiện để xác định xem hành vi đó có các dấu hiệu của tội phạm hay không (ví dụ:
hành vi trộm cắp tài sản có giá trị 500.000 đồng trở lên thì có tội, còn dưới 500.000
đồng nói chung không có tội). Hoặc xác định hành vi đó có phải hành vi bị pháp luật
hình sự cấm hay không (ví dụ: hành vi thông gian nói chung không bị pháp luật hình
sự cấm nhưng thông gian đến mức độ như vợ chồng thì bị Luật hình sự cấm (Điều 147
Tội vi phạm chế độ một vợ một chồng), hoặc hành vi mua dâm nói chung pháp luật
hình sự không cấm nhưng mua dâm người chưa thành niên thì bị Luật hình sự cấm
(Điều 256). Để xác định dấu hiệu của tội phạm cần phải dựa vào các quy định của
BLTTHS. Theo Điều 83 BLTTHS thì cơ quan có thẩm quyền chỉ được khởi tố vụ án
hình sự khi xác định có dấu hiệu của tội phạm và việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa
vào những cơ sở như tố giác của nhân dân, tin báo của cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức
xã hội, tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng…v.v.
Trung tâm
Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Trong giai đoan này thường có một trong ba khả năng xảy ra như sau:
- Không được khởi tố vụ án hình sự: Qua phân tích những dấu hiệu cơ bản của
hành vi mà chủ thể đã thực hiện, có thể có một trong những căn cứ không được khởi tố
vụ án hình sự quy định tại Điều 89 BLTTHS như: không có sự việc phạm tội, hành vi
không cấu thành tội phạm, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự…
- Hành vi mà chủ thể thực hiện không phải là tội phạm mà là vi phạm pháp luật
khác thì cơ quan tiến hành tố tụng chuyển giao các thông tin về vi phạm pháp luật đó
cho cơ quan hữu quan giải quyết theo thẩm quyền. Ví dụ: những hành vi mà BLHS
quy định phải đã xử lý hành chính mới cấu thành tội phạm nhưng chưa bị xử lý hành
chính thì chuyển giao cho cơ quan có thẩm quyền xử lý hành chính.
- Hành vi mà chủ thể thực hiện có dấu hiệu của tội phạm thì phát sinh quan hệ
pháp luật hình sự và chuyển sang giai đoạn 2.
9 Giai đoạn thứ hai:
Tìm nhóm quy phạm pháp luật hình sự điều chỉnh quan hệ pháp luật hình sự. Đây
là giai đoạn xác định xem tội phạm mà chủ thể thực hiện thuộc chương nào của phần
các tội phạm BLHS quy định. Do BLHS sắp xếp theo khách thể loại và chủ thể nên
cần xác định xem có khách thể loại nào bị xâm hại. Ví dụ: có hành vi chiếm đoạt tài
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
H7I
SVTH: Lê Trọng Nghĩa
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Định tội trong trường hợp tội phạm hoàn thành
sản thì thuộc các tội xâm phạm sở hữu (Chương XIV) nếu có mục đích chống chính
quyền thì thuộc chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia (Chương XI)…v.v. Hoặc
người thực hiện tội phạm có dấu hiệu chủ thể đặc biệt thì có thể thuộc hai chương: các
tội phạm về chức vụ (Chương XXI) hoặc các tội xâm phạm nhiệm vụ trách nhiệm
quân nhân (Chương XXIII).
9 Giai đoạn ba: Tìm quy phạm pháp luật cụ thể.
Đây là giai đoạn so sánh, đối chiếu và kiểm tra xem tội phạm đã thực hiện quy
định ở Điều, khoản nào thuộc chương đã xác đinh. Tức là phải xác đinh xem đó là tội
gì, Điều nào, tương ứng với cấu thành tội phạm nào (cơ bản, tăng nặng hay giảm nhẹ)
và thuộc khoản nào của Điều luật. Ví dụ: Tại Gò Vấp,Tp.Hồ Chí Minh có xảy ra vụ án
Phan Văn A giết vợ lẽ là Đỗ Thị B bằng thủ đoạn sau khi giết xong đã chia xác nạn
nhân thành nhiều mảnh…hành vi là giết người (Điều 93) có tình tiết tăng nặng định
khung là “ Thực hiện tội phạm một cách man rợ ” (điểm i khoản 1 Điều 93).
1.1.4. Ý nghĩa của việc định tội đúng
1.1.4.1. Thế nào là định tội đúng?
Định tội đúng có nghĩa là xác định được hành vi nguy hiểm cho xã hội đang xem
xét chứa đựng các dấu hiệu cần và đủ của một cấu thành tội phạm được quy định trong
BLHS (một hay nhiều Điều luật) đồng thời cũng chỉ ra được các khoản, điểm của các
Trung
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Điều luật tương ứng đó. Về khía cạnh pháp lý, định tội đúng tức là áp dụng đầy đủ các
quy định của pháp luật hình sự để điều chỉnh hành vi nguy hiểm nào đó. Vì vậy, việc
vi phạm bất kì đòi hỏi nào ở trên đều có nghĩa rằng việc định tội là sai hoặc chưa chính
xác.
Như vậy, định tội đúng là đánh giá pháp lý hình sự duy nhất về hành vi nguy
hiểm cho xã hội đang xem xét. Không thể có trường hợp nào mà lại có thể xét xử về
tội này cũng được hoặc xét xử tội kia cũng được. Thực tiễn hiện nay còn có quan điểm
định tội không chính xác là khi hành vi phạm tội cấu thành nhiều tội thì chỉ cần xét xử
người phạm tội về tội nặng nhất còn tội kia thì “thu hút” vào tội nặng nhất đó theo
cách gọi là “tổng hợp tội phạm”, hoặc coi hành vi khác đó là tình tiết tăng nặng.
1.1.4.2. Ý nghĩa của việc định tội đúng
Định tội đúng có ý nghĩa rất quan trong về các mặt chính trị - xã hội, pháp lý và
tội phạm học:
+ Trước hết về mặt chính trị - xã hội: Khi tội phạm hóa hoặc hình sự hóa một loại
hành vi nào đó, Nhà nước căn cứ vào yêu cầu đấu tranh chống tội phạm trong từng
thời kì, tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi đã hoặc có thể xảy ra để
xây dựng nên các quy phạm pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng và
chống tội phạm. Ví dụ: Trong BLHS 1999, Nhà nước ta đã tội phạm hóa một số hành
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
H8I
SVTH: Lê Trọng Nghĩa
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Định tội trong trường hợp tội phạm hoàn thành
vi vi phạm trong lĩnh vực tin học, môi trường…bởi vì những hành vi này trong giai
đoạn hiện nay đang mang tính chất nguy hiểm cho xã hội đáng kể, do đó đòi hỏi phải
tội phạm hóa các hành vi này để từ đó đấu tranh phòng và chống tội phạm có hiệu quả.
Việc định tội đúng tức là áp dụng chính xác các quy định của pháp luật hình sự
đối với từng hành vi vi phạm cụ thể, là thực hiện tốt yêu cầu chính trị - xã hội mà Nhà
nước đặt ra khi ban hành Luật hình sự.
+ Về mặt pháp lý: Định tội đúng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thi pháp luật
hình sự và pháp luật tố tụng hình sự.
Đinh tội đúng góp phần thực hiện các nguyên tắc của luật hình sự như: nguyên
tắc pháp chế, dân chủ, nhân đạo, trách nhiệm hình sự cá nhân, công bằng…Rõ ràng
việc định tội đúng là biểu hiện quan trọng của việc chấp hành pháp luật hình sự, là bảo
đảm cho việc xử lý đúng tội phạm mà người phạm tội đã thực hiện; là bảo đảm ai
phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đó và chỉ bản thân họ phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội đã thực hiện.
Định tội đúng là tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự. Điều 8 BLHS
1999 đã phân hóa tội phạm thành những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm
trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tiêu chí phân loại
dựa vào mức độ nguy hại cho xã hội và mức độ cao nhất của khung hình phạt. Việc
Trung
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
định tội đúng giúp cho việc xác định chính xác tội phạm đã thực hiện đó thuộc loại tội
phạm nào, từ đó vận dụng đúng đắn các quy phạm pháp luật hình sự và tố tụng hình sự
trong việc giải quyết vụ án hình sự.
Định tội đúng là cơ sở là tiền đề quan trọng cho việc quyết định hình phạt và áp
dụng các chế định khác của Luật hình sự. Việc xác định chính xác hành vi phạm tội đó
là tội gì, Điều khoản nào không những giúp cho việc xác định khung hình phạt tương
ứng áp dụng các loại hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, tù chung thân, tử
hình,… mà còn có ý nghĩa trong việc áp dụng các chế định khác của BLHS.
Từ việc BLHS phân hóa tội phạm thành bốn loại (Điều 8 BLHS) mà nhiều chế
định pháp luật hình sự quy định chỉ áp dụng đối với một số loại tội nhất định. Chẳng
hạn, Điều 16 khoản 2 quy định người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng. Ngoài ra còn có nhiều chế định khác cũng quy định loại tội là điều kiện
áp dụng như Điều 7 “ Chuẩn bị phạm tội ” ; Điều 22 “Không tố giác tội phạm ” ; Điều
23, 24 “ Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự ” ; Điều 44 “ Tái phạm, tái phạm nguy
hiểm ” ; Điều 60 “Án treo ”…Như vậy định tội đúng là cơ sở áp dụng các chế định nói
trên.
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
H9I
SVTH: Lê Trọng Nghĩa
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Định tội trong trường hợp tội phạm hoàn thành
Định tội đúng còn là cơ sở để áp dụng đúng các quy phạm pháp luật tố tụng hình
sự. Cũng do BLHS phân hóa tội phạm thành bốn loại, nên nhiều vi phạm pháp luật tố
tụng hình sự được quy định điều kiện áp dụng các quy phạm pháp luật này cho từng
loại tội phạm. Đó là các Quy phạm pháp luật về tạm giam (Điều 70 và 71 BLTTHS),
về thẩm quyền điều tra (Điều 92)…Hoặc Điều 88 BLTTHS quy định về việc không
khởi tố vụ án hình sự khi thuộc một trong 11 tội phạm quy định tại khoản 1 của các
Điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 BLHS, nếu không có
yêu cầu của người bị hại. Rõ ràng, muốn áp dụng đúng đắn các quy phạm pháp luật tố
tụng hình sự nói trên, phải định tội đúng. Có định tội đúng mới biết hành vi phạm tội
thuộc loại tội nào và từ đó mới biết có được áp dụng các quy phạm pháp luật tố tụng
hình sự cần thiết hay không. Ngoài ra, khi xác định thẩm quyền xét xử (Điều 145
BLTTHS) cũng đòi hỏi phải định tội đúng mới có thể áp dụng điều này ...v.v.
+ Về mặt tội phạm học: Định tội đúng bảo đảm cung cấp chính xác đầy đủ các số
liệu về tội phạm xảy ra trên cơ sở góp phần xác định đúng nguyên nhân và điều kiện
của từng loại tội phạm và xây dựng các biện pháp phòng ngừa tội phạm có hiệu quả.
1.2. Những căn cứ pháp lý và khoa học của việc định tội
1.2.1. Những căn cứ pháp lý của việc định tội
1.2.1.1. Pháp luật hình sự, cơ sở pháp lý quan trọng nhất của việc định tội
Trung tâm
Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Bản chất của việc định tội là so sánh đối chiếu xem các dấu hiệu của hành vi
nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện trong thực tiễn có phù hợp với các dấu hiệu tương
ứng của từng tội phạm của BLHS hay không? Nhà làm luật khi xây dựng các quy
phạm pháp luật của phần các tội phạm đã tìm các dấu hiệu đặc trưng cơ bản nhất, phổ
biến nhất của hành vi nguy hiểm cho xã hội nào đó rồi quy định vào trong BLHS với
tính chất là những dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Vì vậy, BLHS chứa
đựng những mẫu (mô hình) pháp lý của tội phạm mà dựa vào đó những người áp dụng
luật hình sự tiến hành định tội để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi
thực hiện trong thực tế với các dấu hiệu quy định trong BLHS về một tội phạm nào đó.
Bộ luật hình sự có hai phần, Phần chung và Phần các tội phạm, khi tiến hành định
tội người áp dụng Luật hình sự phải dựa vào cả hai nhóm quy phạm pháp luật này. Bởi
vì hai nhóm quy phạm pháp luật này có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất và logic với
nhau trong quá trình định tội. Chẳng hạn khi tìm các quy phạm pháp luật hình sự để
định tội cho hành vi “ Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền ” thì không chỉ áp dụng
Điều 79 Phần các tội phạm mà còn phải áp dụng Điều 20 quy định về đồng phạm trong
Phần chung.
Thành phần các quy phạm pháp luật trong Phần các tội phạm cơ bản chỉ có hai
phần: quy định và chế tài. Phần quy định mô tả dấu hiệu của tội phạm bao gồm ba
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
H 10 I
SVTH: Lê Trọng Nghĩa
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Định tội trong trường hợp tội phạm hoàn thành
loại. Trước hết, là quy định giản đơn: đây là loại quy định chỉ nêu tên gọi của tội phạm
( Điều 93 Tội giết người, Điều 138 Tội trộm cắp… ).Thứ hai, là quy định mô tả: đây là
loại quy định mô tả các dấu hiệu đặc trưng cơ bản của tội phạm (Điều 114 Tội hiếp
dâm, Điều 133 Tội cướp tài sản,…) Thứ ba, là quy định viện dẫn: đây là loại quy định
mà khi mô tả các dấu hiệu cấu thành tội phạm có viện dẫn Điều luật khác của BLHS
(Ví dụ: Điều 285 Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng phải có hành vi
thiếu trách nhiệm mà không thuộc trường hợp quy định tại Điều 144, 235 và 301, hoặc
các tội quy định tại Điều 286, 287, 308, 312, 313,314, 327, 334…) Ngoài ra, có những
tội phạm, Phần quy định tuy do Luật hình sự quy định nhưng muốn hiểu nó phải
nghiên cứu những quy phạm pháp luật của ngành luật khác (Điều 172 Tội vi phạm quy
định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên, Điều 173 Tội vi phạm các quy định
về sử dụng đất đai, hoặc các tội quy định tại các Điiều 190, 191, 271, 272, 273…)
Mỗi quy phạm pháp luật của phần các tội phạm thường quy định một tội phạm,
có quy phạm pháp luật quy định nhiều tội phạm với một chế định chung (Điều 120 Tội
mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em, các tội về ma túy quy định tại các Điều
194, 195, 196… Thông thường khi định tội, các quy định ở Phần chung không được
viện dẫn, trừ các quy định về chuẩn bị phạm tội (Điều 17), phạm tội chưa đạt (Điều
18), đồng phạm (Điều 20)…
Trung tâm
Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Pháp luật hình sự là cơ sở pháp lý của việc định tội nên khi định tội phải căn cứ
vào pháp luật hình sự để quyết định chứ không được căn cứ vào bất cứ văn bản pháp
luật nào khác. Tuy nhiên, pháp luật hình sự không phải chỉ là BLHS mà còn bao gồm
cả các văn bản giải thích và hướng dẫn áp dụng của các cơ quan có thẩm quyền.
Việc áp dụng Luật hình sự nói chung và việc định tội nói riêng đòi hỏi phải có sự
giải thích và hướng dẫn áp dụng luật hình sự đầy đủ chính xác của các cơ quan có
thẩm quyền. Hiện nay việc giải thích, hướng dẫn còn chưa đầy đủ và kịp thời nên
trong thực tiễn còn xảy ra trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành
tố tụng tự giải thích để áp dụng Luật hình sự, dẫn đến tình trạng nhận thức và áp dụng
pháp luật hình sự không thống nhất và không đúng trong nhiều trường hợp cụ thể hoặc
giải thích quá rộng các quy định của Luật hình sự hoặc nhận thức không đầy đủ tinh
thần và lời văn của Điều luật, dẫn đến việc xử lý oan sai. Mặt khác có nhiều trường
hợp người áp dụng pháp luật hình sự quá dựa dẫm vào hướng dẫn giải thích của cơ
quan có thẩm quyền và đòi hỏi quy định nào của BLHS cũng phải được hướng dẫn
mới áp dụng, từ đó dẫn đến tình trạng bị động lúng túng khi áp dụng Luật hình sự.
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
H 11 I
SVTH: Lê Trọng Nghĩa
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Định tội trong trường hợp tội phạm hoàn thành
1.2.1.2. Các văn bản pháp luật thuộc các ngành luật khác trong nhiều trường
hợp cũng có ý nghĩa trong việc định tội.
Như trên đã viết, phần các tội phạm của BLHS có nhiều quy phạm pháp luật quy
định đề cập đến các quy định của các ngành luật khác, chẳng hạn Điều 202 Tội vi
phạm các quy định về điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ, Điều 227 Tội
vi phạm các quy định về an toàn lao động, hoặc các Điều 228, 229…Các quy định này
thường được xây dựng theo công thức: Hành vi phạm tội phải vi phạm các quy định về
một lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội nào đó và có gây hậu quả nghiêm trọng.
Trong trường hợp này muốn định tội đúng phải xem xét hành vi thực hiện vi
phạm quy định về lĩnh vực gì, do văn bản pháp luật nào quy định. Chỉ có xác định
đúng những vi phạm này cùng với hậu quả xảy ra (nếu có) thì mới có thể định tội
đúng.
1.2.2. Căn cứ khoa học của việc định tội là cấu thành tội phạm
Trong khoa học Luật hình sự, cấu thành tội phạm được hiểu là tổng hợp những
dấu hiệu chung có tính chất đặc trưng cho một loại tội phạm cụ thể được quy định
trong BLHS. Do cấu thành tội phạm là sự mô tả tội phạm trong BLHS cho nên cấu
thành tội phạm chính là cơ sở của việc truy cứu trách nhiệm hình sự, là tiền đề quan
trọng của việc định tội. Định tội đúng chính là xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu
Trung
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
của một hành vi nguy hiểm cho xã hội nào đó được thực hiện với các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm.
Cấu thành tội phạm là căn cứ khoa học của việc định tội là bởi vì việc xác định
đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm trong hành vi nguy hiểm cho xã hội
tương ứng được thực hiện sẽ là đảm bảo cho việc định tội đúng với hành vi đó. Không
những vậy cấu thành tội phạm còn có các chức năng có ý nghĩa quan trọng đối với
việc định tội. Đó là chức năng nền tảng và chức năng phân biệt. Chức năng nền tảng
nghĩa là cấu thành tội phạm là căn cứ cần và đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với một người. Chức năng phân biệt là việc mô tả các dấu hiệu của tội phạm trong cấu
thành tội phạm sẽ bảo đảm cho việc phân biệt tội phạm này với tội phạm kia.
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
H 12 I
SVTH: Lê Trọng Nghĩa
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Định tội trong trường hợp tội phạm hoàn thành
CHƯƠNG 2
ĐỊNH TỘI TRONG TRƯỜNG HỢP TỘI PHẠM HOÀN THÀNH
2.1. Sơ lược các giai đoạn thực hiện tội phạm
Hoạt động tội phạm cũng như bất kỳ hoạt động nào khác của con người trong xã
hội, nó diễn ra theo một quá trình nhất định. Người cố ý thực hiện tội phạm bao giờ
cũng mong muốn thực hiện tội phạm đến cùng, trọn vẹn quá trình đó để đạt được kết
quả mong muốn. Nhưng trong thực tế có những trường hợp vì nguyên nhân ngoài ý
muốn mà người phạm tội đã không thực hiện được toàn bộ quá trình đó mà phải dừng
lại ở những thời điểm khác nhau. Để đánh giá mức độ thực hiện tội phạm và qua đó có
cơ sở để xác định phạm vi trách nhiệm hình sự của người phạm tội, Luật hình sự Việt
Nam phân biệt ba mức độ thực hiện tội phạm: chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và
tội phạm hoàn thành.
Theo Luật hình sự Việt Nam, vấn đề các giai đoạn thực hiện tội phạm chỉ đặt ra
với những trường hợp phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Đối với những tội có lỗi cố ý
gián tiếp hay vô ý chỉ có thể có tội hay không có tội vì những trường hợp đó, người
phạm tội không mong muốn tội phạm xảy ra, nên không thể quy định có việc “chuẩn
bị” hay “chưa đạt” để buộc họ phải chịu trách nhiệm hình sự về điều chưa xảy ra và họ
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
cũng không mong muốn nó xảy ra. Như vậy, các giai đoạn thực hiện tội phạm là các
bước trong quá trình cố ý thực hiện tội phạm bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt và tội phạm hoàn thành.
2.1.1. Chuẩn bị phạm tội
Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn trong đó người phạm tội có những hành vi tạo ra
những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm, nhưng chưa bắt đầu thực hiện
tội phạm 3 .
Thời điểm sớm nhất của giai đoạn tội phạm này là thời điểm người phạm tội bắt
đầu có hành vi tạo ra những điều kiện vật chất hoặc tinh thần giúp cho việc thực hiện
hành vi phạm tội có thể xảy ra và xảy ra được thuận lợi, dễ dàng hơn. Thời điểm muộn
nhất là thời điểm trước lúc người phạm tội bắt đầu thực hiện hành vi khách quan được
phản ánh trong cấu thành tội phạm. Đó là giới hạn giữa chuẩn bị phạm tội và phạm tội
chưa đạt.
Như vậy, tất cả các hành vi chuẩn bị phạm tội đều chưa trực tiếp làm biến đổi
tình trạng của đối tượng tác động để gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội là khách thể
của lọai tội định thực hiện. Nhưng với tính chất là hành vi tạo ra những điều kiện cần
3
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần Chung) Th.S Phạm Văn Beo, 2003, tr 90.
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
H 13 I
SVTH: Lê Trọng Nghĩa
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Định tội trong trường hợp tội phạm hoàn thành
thiết cho việc thực hiện tội phạm, hành vi chuẩn bị phạm tội hợp thành một thể thống
nhất với hành vi thực hiện tội phạm, là hành vi trực tiếp làm biến đổi tình trạng của đối
tượng tác động và qua đó gây thiệt hại cho khách thể được Luật hình sự bảo vệ. Sự gây
thiệt hại cho khách thể có thể xảy ra hay không xảy ra và xảy ra như thế nào rõ ràng có
sự phụ thuộc nhất định vào hành vi chuẩn bị phạm tội. Chính vì vây, hành vi chuẩn bị
cũng được coi là một giai đoạn của quá trình thực hiện tội phạm.
Trong thực tế, hành vi chuẩn bị phạm tội có thể thể hiện ở một số dạng như:
- Chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội;
- Chuẩn bị kế hoạch phạm tội;
- Thăm dò địa điểm phạm tội;
- Thăm dò, làm quen với nạn nhân hoặc người bị hại;
- Loại trừ trước những trở ngại khách quan…v.v.
Trong những dạng chuẩn bị này, hành vi chuẩn bị công cụ, phương tiện là dạng
phổ biến nhất, vì nói chung đó là điều kiện cần thiết cho quá trình thực hiện tội phạm.
Chính vì vậy, Điều 17 BLHS 1999 quy định: “chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm công cụ,
phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm.
2.1.2. Phạm tội chưa đạt
Điều 18 Bộ luật hình sự quy định: “Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm
Trung
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người
phạm tội”. Theo Luật hình sự Việt Nam, có ba dấu hiệu xác định trường hợp phạm tội
chưa đạt:
Một là, người phạm tội đã bắt đầu thực hiện tội phạm. Đây là dấu hiệu phân biệt
phạm tội chưa đạt với chuẩn bị phạm tội.
Sự bắt đầu này thể hiện ở chỗ: người phạm tội đã bắt đầu thực hiện hành vi khách
quan được mô tả trong cấu thành tội phạm.
Ví dụ: Kẻ giết người đã thực hiện hành vi tước đọat sinh mạng của người khác
như: đã đâm, chém, bắn…là hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm của tội giết
người (Điều 93 BLHS). Chúng ta cũng coi là đã bắt đầu thực hiện tội phạm khi người
phạm tội đã thực hiện hành vi đi liền trước hành vi khách quan. Đó là những hành vi
mà về mặt khách quan và chủ quan đã thể hiện rằng đó là sự bắt đầu của hành vi khách
quan và tiếp ngay sau đó hành vi khách quan sẽ xảy ra (hành vi nhặt dao để đâm, lắp
đạn để bắn trong trường hợp phạm tội giết người được coi là những hành vi đi liền
trước. Những hành vi đi liền trước như vậy tuy thể hiện sự chuẩn bị nhưng nó rất gần
với hành vi khách quan, không tách ra được nên cũng được gọi là hành vi thực hiện tội
phạm.
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
H 14 I
SVTH: Lê Trọng Nghĩa
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Định tội trong trường hợp tội phạm hoàn thành
Hai là, người phạm tội chưa thực hiện tội phạm đến cùng (về mặt pháp lý).
Nghĩa là hành vi của họ chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu thuộc mặt khách quan được
mô tả trong cấu thành tội phạm. Những trường hợp này có thể xảy ra ở một trong
những dạng dưới đây:
- Chủ thể chưa thực hiện được hành vi khách quan mà mới chỉ thực hiện được hành vi
đi liền trước.
- Chủ thể đã thực hiện hành vi khách quan nhưng chưa gây ra hậu quả của tội phạm (ở
những tội có cấu thành vật chất).
- Chủ thể đã thực hiện hành vi khách quan nhưng chưa thực hiện hết tất cả các hành vi
khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm.
- Hậu quả của hành vi tuy đã xảy ra nhưng không có quan hệ nhân quả với hành vi
khách quan mà chủ thể thực hiện (ở tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất).
Ba là, người phạm tội không thực hiện được tội phạm đến cùng là do những
nguyên nhân ngoài ý muốn của họ. Bản thân người phạm tội vẫn muốn tội phạm hoàn
thành nhưng tội phạm không hoàn thành được là do:
- Nạn nhân hoặc người bị hại đã chống lại hoặc đã tránh được;
- Người khác đã ngăn chặn được;
- Có những trở ngại khác như bắn nhưng đạn không nổ, thuốc độc dùng để đầu độc
Trungkhông
tâmđủHọc
liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
liều lượng hoặc thuốc giả…
# Lưu ý, trong tội phạm có bốn yếu tố là khách thể, mặt khách quan, chủ thể,
mặt chủ quan. Nhưng chỉ có yếu tố mặt khách quan là quan trọng nhất trong việc xác
định các giai đoạn thực hiện tội phạm. Vì trong quá trình phạm tội, ba yếu tố kia là
không thay đổi, chỉ có mặt khách quan là yếu tố thay đổi.
ª Các dạng phạm tội chưa đạt:
→ Căn cứ vào mục đích thực hiện của hành vi phạm tội, người ta phân biệt hai
trường hợp phạm tội chưa đạt:
- Chưa đạt chưa hoàn thành (về hành vi): người phạm tội chưa thực hiện hết các hành
vi phạm tội cần thiết để gây hậu quả.
- Chưa đạt đã hoàn thành: người phạm tội đã thực hiện được những hành vi cần thiết
cho rằng để đạt được hậu quả, nhưng hậu quả không xảy ra do những nguyên nhân
ngoài ý muốn.
→ Căn cứ vào nguyên nhân khách quan cản trở tội phạm thực hiện đến cùng:
- Phạm tội chưa đạt do sử dụng công cụ, phương tiện vô hiệu.
- Phạm tội chưa đạt do đối tượng tác động của tội phạm không có.
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
H 15 I
SVTH: Lê Trọng Nghĩa
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Định tội trong trường hợp tội phạm hoàn thành
2.1.3. Tội phạm hoàn thành
Một tội phạm được coi là hoàn thành khi các hành vi phạm tội đã thỏa mãn hết
các dấu hiệu khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm 4 . Điều đó đã có nghĩa là
khi một tội phạm hoàn thành thì hành vi phạm tội đã có đủ các dấu hiệu nói lên được
đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của loại tội đó. Với quan niệm này, Luật hình sự
Việt Nam khẳng định: thời điểm tội phạm hoàn thành không phụ thuộc vào việc người
phạm tội đã đạt được mục đích của mình hay chưa. Khái niệm tội phạm hoàn thành ở
đây được hiểu theo nghĩa hoàn thành về mặt pháp lý, tức là tội phạm đã thỏa mãn hết
các dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Một tội phạm khi đã hoàn thành về mặt pháp lý,
có thể dừng lại, không xảy ra nữa trong thực tế, nhưng cũng có thể tiếp tục xảy ra. Trái
lại, một tội phạm có thể tuy đã dừng lại nhưng chưa hoàn thành.
Trong thực tiễn áp dụng, khi xác định một trường hợp phạm tội cố ý cụ thể đã
hoàn thành hay chưa, chỉ cần kiểm tra các hành vi phạm tội đó đã thỏa mãn hết các
dấu hiệu của cấu thành tội phạm hay chưa. Sẽ là trường hợp phạm tội hoàn thành nếu
hành vi phạm tội đã thỏa mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Và ngược lại,
sẽ là trường hợp phạm tội chưa hoàn thành nếu hành vi phạm tội chưa thỏa mãn hết
các dấu hiệu khách quan của cấu thành tội phạm.
Như vậy, việc quy định thời điểm hoàn thành của từng tội phạm được thực hiện
Trung
tâm
Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
qua việc xây dựng các dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Thời điểm hoàn thành sớm
hay muộn là tùy thuộc vào việc xây dựng các dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Dĩ
nhiên, việc đưa dấu hiệu nào vào cấu thành tội phạm không phải là tùy ý thích chủ
quan của các nhà làm luật mà phụ thuộc vào các yếu tố khách quan. Những dấu hiệu
đó phải phản ánh được bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và bảo
đảm thời điểm hoàn thành của tội phạm phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng, chống
cũng như các đặc điểm của tội phạm. Quá trình định tội phải thực hiện tốt việc đánh
giá về mặt pháp lý hình sự các yếu tố của tội phạm.
Căn cứ vào định nghĩa chung về tội phạm hoàn thành và dựa vào đặc điểm cấu
trúc của các loại cấu thành tội phạm, có thể rút ra kết luận về thời điểm hoàn thành của
các loại tội phạm có cấu thành vật chất, có cấu thành hình thức và cấu thành cắt xén
như sau:
- Những tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất hoàn thành khi người phạm tội
đã gây ra hậu quả của tội phạm. Ví dụ: Tội giết người là tội có cấu thành tội phạm vật
chất nên tội phạm này hoàn thành khi hậu quả chết người đã xảy ra.
4
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần Chung) Th.S Phạm Văn Beo, 2003, tr 92.
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
H 16 I
SVTH: Lê Trọng Nghĩa
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Định tội trong trường hợp tội phạm hoàn thành
- Những tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức hoàn thành ngay khi người
phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội. Ở các loại tội này, dấu hiệu hành vi chỉ có thể
là một hành vi như tội cướp tài sản của công dân (dùng vũ lực…) nhưng cũng có thể
bao gồm nhiều hành vi khác nhau như tội hiếp dâm (dùng vũ lực… và giao cấu…).
trong trường hợp này, tội phạm hoàn thành khi tất cả hành vi đó đều xảy ra.
- Những tội phạm có cấu thành tội phạm cắt xén hoàn thành khi người phạm tội
đã có những hoạt động bất kỳ nhằm thực hiện hành vi phạm tội.
Thời điểm tội phạm hoàn thành cần phải được phân biệt với thời điểm tội phạm
kết thúc. Tội phạm kết thúc là thời điểm hành vi phạm tội đã thực sự chấm dứt trên
thực tế. Hai thời điểm này có thể trùng nhau hoặc không trùng nhau. Mọi hành vi
phạm tội đều có thể dừng lại ở giai đoạn chuẩn bi phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt và
ngược lại, mọi tội phạm tuy đã hoàn thành nhưng có thể tiếp tục vẫn xảy ra.
2.2. Dấu hiệu khách thể của tội phạm đối với việc định tội
Quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ bị hành vi phạm tội xâm hại gọi là
khách thể của tội phạm. Dấu hiệu khách thể là yếu tố bắt buộc trong cấu thành tội
phạm. Do vậy, bất kỳ một hành vi nguy hiểm cho xã hội nào được nhà làm luật tội
phạm hóa, quy định vào BLHS đều xâm hại đến khách thể trực tiếp, khách thể loại và
khách thể chung.
Trung tâm
Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
2.2.1. Khách thể chung của tội phạm:
Là tổng hợp các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của
tội phạm. Theo Luật hình sự Việt Nam khách thể chung của tội phạm là những quan
hệ xã hội đã được xác định trong Điều 1 và Điều 8 của BLHS. Đó là:
- Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc;
- Chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh trật tự, an toàn xã
hội;
- Quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức;
- Tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp
khác của công dân;
- Những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật XHCN.
Chỉ những hành vi nào xâm hại đến một trong các quan hệ xã hội trên mới có thể
là tội phạm.
2.2.2. Khách thể loại của tội phạm:
Là nhóm quan hệ xã hội cùng tính chất được nhóm các quy phạm pháp luật hình
sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của nhóm tội phạm. Ngoài việc xác định khách thể chung,
để định tội đúng đối với hành vi phạm tội còn phải xác định đúng khách thể loại của
tội phạm. Việc xác định khách thể loại là việc tiến một bước gần hơn đến việc định tội
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
H 17 I
SVTH: Lê Trọng Nghĩa
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Định tội trong trường hợp tội phạm hoàn thành
đúng. Khách thể được bảo vệ trong quy định của từng chương của phần các tội phạm
BLHS. Quá trình phát triển của pháp luật hình sự nước ta đến BLHS 1999 đã quy định
khách thể loại sau đây:
- An ninh quốc gia;
- Tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm danh dự của con người;
- Quyền tự do, dân chủ của công dân;
- Quyền sở hữu;
- Chế độ hôn nhân gia đình;
- Trật tự quản lý kinh tế;
- Quản lý và bảo vệ môi trường;
- Quản lý và sử dụng các chất ma túy;
- An toàn công cộng, trật tự công cộng;
- Trật tự quản lý hành chính;
- Hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức;
- Hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án. Trong
việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân
(hoạt động tư pháp);
- Nghĩa vụ trách nhiệm của quân nhân;
Trung
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
- Hòa bình, lợi ích chung của loài người và chống chiến tranh.
2.2.3. Khách thể trực tiếp của tội phạm:
Là quan hệ xã hội cụ thể bị loại tội phạm cụ thể trực tiếp xâm hại. Nói một hành
vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm tức là phải xác định hành vi đó xâm hại đến
quan hệ xã hội cụ thể nào được Luật hình sự bảo vệ, quan hệ xã hội cụ thể đó là khách
thể trực tiếp của tội phạm. Một hành vi nguy hiểm có thể xâm hại đến nhiều quan hệ
xã hội khác nhau nhưng trong đó chỉ một hoặc một số quan hệ xã hội bị xâm hại được
coi là khách thể trực tiếp.Việc xác định đúng khách thể trực tiếp giúp người định tội có
cơ sở để khẳng định hành vi nguy hiểm cho xã hội đó quy định tại Điều khoản nào của
phần các tội phạm trong Bộ luật hình sự.
Trong ba dạng khách thể đã nêu, việc xác định đúng có ý nghĩa góp phần giúp
người định tội khẳng định được:
- Hành vi nguy hiểm cho xã hội có phải là tội phạm hay không?
- Nếu là tội phạm thì thuộc nhóm tội phạm nào?
- Là tội phạm cụ thể nào? tương ứng với Điều khoản cụ thể nào trong phần các tội
phạm của Bộ luật hình sự?
GVHD: TS. Phạm Văn Beo
H 18 I
SVTH: Lê Trọng Nghĩa
- Xem thêm -