Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài sản trong luật hình...

Tài liệu định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài sản trong luật hình sự việt nam

.PDF
108
9
73

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN ®Þnh téi danh vµ quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t ®èi víi téi tham « tµi s¶n Trong luËt h×nh sù viÖt nam LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN ®Þnh téi danh vµ quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t ®èi víi téi tham « tµi s¶n Trong luËt h×nh sù viÖt nam Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TUÂN HÀ NỘI – 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Thanh Huyền MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI THAM Ô TÀI SẢN ..... 6 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI THAM Ô TÀI SẢN .............................................................................. 6 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của định tội danh đối với tội tham ô tài sản ............................................................................ 6 1.1.2. Những căn cứ pháp lý và căn cứ khoa học của việc định tội danh đối với tội tham ô tài sản .................................................................... 16 1.2. KHÁI NIỆM, NGUYÊN TẮC, CĂN CỨ CỦA QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI THAM Ô TÀI SẢN ............................. 22 1.2.1. Khái niệm quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài sản ................ 22 1.2.2. Nguyên tắc quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài sản .............. 23 1.2.3. Căn cứ quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài sản ..................... 26 1.3. NHỮNG YẾU TỐ ĐẢM BẢO CHO VIỆC ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI THAM Ô TÀI SẢN ....... 33 1.3.1. Hệ thống pháp luật hình sự................................................................. 33 1.3.2. Đạo đức nghề nghiệp của chủ thể định tội danh, quyết định hình phạt .... 34 1.3.3. Năng lực chuyên môn của chủ thể định tội danh, quyết định hình phạt ... 36 Chương 2: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI THAM Ô TÀI SẢN ......................... 38 2.1. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VỀ ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI THAM Ô TÀI SẢN ... 38 2.2. NHỮNG HẠN CHẾ, VƯỚNG MẮC TRONG QUÁ TRÌNH ÁP DỤNG QUI ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ KHI ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI THAM Ô TÀI SẢN......................................................................................... 53 2.2.1. Vướng mắc trong việc xác định chủ thể của tội tham ô tài sản ............. 54 2.2.2. Vướng mắc trong việc xác định tài sản là đối tượng tác động của tội tham ô tài sản ................................................................................ 61 2.2.3. Vướng mắc trong việc xác định tình tiết "gây hậu quả nghiêm trọng, gây hậu quả nghiêm trọng khác, gây hậu quả rất nghiêm trọng khác, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác" ....................... 65 2.2.4. Vướng mắc trong áp dụng tình tiết tăng nặng "xâm phạm tài sản của nhà nước" ..................................................................................... 67 2.3. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ, VƯỚNG MẮC TRONG THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI THAM Ô TÀI SẢN ............................. 70 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI THAM Ô TÀI SẢN ......................................................... 73 3.1. HOÀN THIỆN MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ LIÊN QUAN ĐẾN TỘI PHẠM THAM Ô TÀI SẢN ................. 73 3.2. KIẾN NGHỊ BAN HÀNH VĂN BẢN HƯỚNG DẪN ..................... 82 3.3. NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN NGHIỆP VỤ, ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA CHỦ THỂ ĐỊNH TỘI DANH, QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ............................................................. 89 3.4. TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG ĐẤU TRANH, XỬ LÝ TỘI PHẠM THAM Ô TÀI SẢN .......................................... 93 KẾT LUẬN .................................................................................................... 95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 98 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Tương quan giữa tổng số vụ án tham nhũng đã phát hiện khởi tố và tổng số vụ án tham ô tài sản đã phát hiện khởi tố 42 trên toàn quốc giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2014 Bảng 2.2: Tương quan giữa tổng số bị can tham nhũng đã phát hiện khởi tố và tổng số bị can tham ô tài sản đã phát hiện khởi tố 43 trên toàn quốc giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2014 Bảng 2.3: Số liệu thống kê các vụ án tham ô tài sản đã xét xử sơ thẩm trên địa bàn toàn quốc của Tòa án các cấp từ năm 2010 đến 44 năm 2014 Bảng 2.4: Số liệu thống kê các vụ án tham ô tài sản Cơ quan điều tra các cấp đình chỉ, tạm đình chỉ trên địa bàn toàn quốc từ 45 năm 2010 đến năm 2014 Bảng 2.5: Số liệu các vụ án tham ô tài sản Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân các cấp trả điều tra bổ sung trên địa bàn 46 toàn quốc từ năm 2010 đến năm 2014 Bảng 2.6: Số liệu về hình phạt áp dụng của Tòa án nhân dân các cấp đối với tội phạm tham ô tài sản từ năm 2010 đến năm 2014 51 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày nay, trong nhóm tội phạm tham nhũng, tội phạm tham ô tài sản đã và đang là một vấn đề được quan tâm không chỉ bởi một quốc gia, một khu vực mà của cả thế giới. Loại tội phạm này không chỉ đe dọa đến sự ổn định chính trị, kìm hãm sự phát triển kinh tế mà nó còn làm trầm trọng thêm những vấn đề tiêu cực xã hội, hủy hoại những giá trị tốt đẹp của dân tộc và xâm hại nghiêm trọng đến quyền con người. Vì vậy, tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải đấu tranh phòng chống tội phạm tham nhũng nói chung và tội phạm tham ô tài sản nói riêng, trong đó có Việt Nam. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, tội phạm tham ô tài sản cũng đang là một vấn nạn lớn của xã hội. Theo đánh giá của Tổ chức Minh bạch quốc tế, Việt Nam thuộc nhóm những nước tham nhũng nghiêm trọng, trong đó các tội phạm tham ô tài sản chiếm tỉ lệ cao với nhiều thủ đoạn tinh vi. Tội phạm tham ô tài sản ở Việt Nam vừa nghiêm trọng, vừa tinh vi, phức tạp, xảy ra phổ biến trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành với nhiều cấp độ khác nhau. Đặc biệt, trong những năm gần đây đã xảy ra nhiều vụ án tham ô phức tạp mang tính chất đặc biệt nghiêm trọng, gây ra những thiệt hại to lớn như: Vụ án Dương Chí Dũng - nguyên Cục trưởng Cục Hàng hải tham nhũng số tiền gần 400 tỷ đồng, vụ án Huỳnh Thị Huyền Như - nguyên cán bộ Viettinbank chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh và đồng bọn tham nhũng gây thiệt hại hơn 4.000 tỷ đồng,… Số tài sản các bị cáo đã chiếm đoạt là rất lớn như: vụ Lê Hoài Phương - cán bộ Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, chi nhánh Cầu Giấy (Hà Nội) tham ô 24 tỷ đồng; vụ Huỳnh Ngọc Sĩ - Giám đốc Ban quản lý dự án đại lộ Đông - Tây, Thành phố Hồ Chí Minh tham nhũng 260 nghìn USD;… Trước thực trạng như vậy, Việt Nam cần phải đấu tranh phòng chống một cách có hiệu quả loại tội phạm này. Một trong những biện pháp đấu tranh có hiệu quả tội phạm 1 tham ô tài sản chính là việc áp dụng pháp luật hình sự. Nhưng để có thể áp dụng luật hình sự hiệu quả thì các quy định trong luật hình sự phải được hoàn thiện, phải đầy đủ, chuẩn xác, phù hợp với lý luận khoa học và thực tiễn đời sống, làm cơ sở cho hoạt động thực tiễn của các chủ thể áp dụng pháp luật. Thực tiễn gần đây cho thấy những quy định của luật hình sự về tội phạm tham ô tài sản còn những hạn chế nhất định. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài "Định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ của mình với mong muốn chỉ ra những bất cập của Bộ luật hình sự hiện hành, từ đó đề xuất những ý kiến cụ thể góp phần hoàn thiện Bộ luật hình sự quy định về tội phạm này. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây, những đề tài nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự có liên quan đến đề tài của tác giả gồm những công trình sau: * Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ - Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, của Trần Đăng Vinh (2012), - Các tội phạm về tham nhũng trong Luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, của Nguyễn Văn Hải (2001). - Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, của Tạ Thu Thủy (2009). * Các bài viết, tạp chí, đề tài khoa học: - Các tội phạm về tham nhũng trong luật hình sự Việt Nam, của Trần Công Phàn, Tạp chí Kiểm sát, số 06/2006. - Việc xác định tội tham ô tài sản trong cơ chế thị trường, của Đinh Khắc Tiến, Tạp chí Kiểm sát, số 6/2006. - Bàn về chủ thể của tội tham ô tài sản trong Bộ luật hình sự năm 1999, của Trương Thị Hằng, Tạp chí Kiểm sát, số /2006. - Các tội phạm về tham nhũng có tính chất chiếm đoạt tài sản và đấu 2 tranh phòng chống các tội này ở Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2008. - Tham nhũng ở Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, của Thái Thị Thu Hương, Tạp chí Cộng sản, số 4/2013. Các công trình trên chủ yếu quan tâm nghiên cứu tới tội phạm tham nhũng nói chung. Số lượng công trình nghiên cứu tội phạm tham ô tài sản dưới góc độ toàn diện còn hạn chế. Cho tới nay, chưa có công trình nào ở cấp độ thạc sĩ nghiên cứu về vấn đề định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội phạm tham ô tài sản. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự về định tội danh đối với tội phạm tham ô tài sản để hoàn thiện hơn nữa quy định của Bộ luật hình sự về các tội này khi quy định về vấn đề định tội danh, quyết định hình phạt và thông qua đó góp phần nâng cao hiệu quả các hoạt động này trong thực tiễn. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, trong quá trình nghiên cứu đề tài cần thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Nghiên cứu các quy định cụ thể của Bộ luật hình sự về dấu hiệu định tội và các căn cứ quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài sản được quy định tại Mục A, chương XXI Bộ luật hình sự. - Đánh giá thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với các tội phạm tham ô tài sản. - Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự quy định về dấu hiệu định tội và vấn đề quyết định hình phạt đối với các tội phạm tham ô tài sản, cũng như nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài sản trong thực tiễn. 3 3.3. Phạm vi nghiên cứu Đây là đề tài được nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự và tác giả sẽ nghiên cứu trong phạm vi Bộ luật hình sự năm 1999 cũng như qua các số liệu giải quyết vụ án hình sự từ năm 2010 đến năm 2014 để phân tích, tìm ra những vấn đề lý luận và thực tiễn, những hạn chế, tồn tại liên quan đến định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội phạm tham ô tài sản để kiến nghị những giải pháp nâng cao chất lượng việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội phạm này. 4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu - Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về đấu tranh phòng chống tội phạm, về chính sách hình sự. - Luận văn được tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp và phương pháp thống kê tình hình thực tiễn, áp dụng định tội danh, quyết định hình phạt đối với tội phạm tham ô tài sản của cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn cũng đánh giá tình hình và từ đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng quy định về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội phạm tham ô tài sản. 5. Ý nghĩa và những đóng góp của luận văn Luận văn là công trình đầu tiên ở cấp độ luận văn thạc sĩ nghiên cứu về vấn đề định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội phạm tham ô tài sản. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về các quy định liên quan đến định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài sản. Luận văn đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề chung về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài sản, phân tích cụ thể các căn cứ 4 pháp lý của định tội danh và quyết định hình phạt đối với tôi tham ô tài sản dựa trên kết quả công tác giải quyết vụ án hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng trong những năm gần đây để đánh giá tồn tại, hạn chế của việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài sản, từ đó tìm ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế này để có giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn. Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận, có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu học tập và trong thực tiễn giải quyết vụ án tham ô tài sản. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề chung về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài sản. Chương 2: Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài sản. Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài sản. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI THAM Ô TÀI SẢN 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI THAM Ô TÀI SẢN 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của định tội danh đối với tội tham ô tài sản 1.1.1.1. Khái niệm định tội danh đối với tội tham ô tài sản Trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự, để có thể xác định được tội phạm cũng như truy cứu trách nhiệm hình sự đúng pháp luật người phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải thực hiện hoạt động định tội danh. Định tội danh đúng chính là tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự cũng như cá thể hóa hình phạt có căn cứ và đúng pháp luật. Trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành không quy định cụ thể về định tội danh mà định tội danh được xem là một khái niệm của khoa học hình sự Việt Nam. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm định tội danh đã được đưa ra, cụ thể: Theo quan điểm của GS.TSKH Lê Cảm thì: Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự và, được tiến hành bằng cách - trên cơ sở các chứng cứ các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để đối chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu 6 của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định, hay nói cách khác là nhằm đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình sự một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật [7, tr. 33]. Còn theo quan điểm của TS. Dương Tuyết Miên: Định tội danh là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để xác định một người có phạm tội hay không, nếu phạm tội thì đó là tội gì, theo điều luật nào của Bộ luật hình sự hay nói cách khác đây là quá trình xác định tên tội cho hành vi nguy hiểm đã được thực hiện [20, tr. 7]. ThS. Đoàn Tất Minh cũng đưa ra quan điểm của mình về khái niệm định tội danh như sau: Định tội danh là thuật ngữ dùng để chỉ hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền trong tố tụng hình sự nhằm đối chiếu sự phù hợp giữa các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm được mô tả (quy định) trong Luật hình sự để giải quyết án hình sự bằng việc ra kết luận bằng văn bản áp dụng pháp luật [22, tr. 10]. Các tác giả trên đã đưa ra những định nghĩa khác nhau về khái niệm định tội danh. Tuy nhiên, nhìn chung các quan điểm trên đều thể hiện: định tội danh là quá trình áp dụng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, được tiến hành bởi các cơ quan tư pháp hình sự và một số cơ quan khác có thẩm quyền và việc định tội danh phải được thực hiện trên cơ sở các quy định của luật hình sự. Trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm trên, tác giả đưa ra khái niệm như sau: Định tội danh là một dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp 7 luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự, do các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật thực hiện trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để nhằm đối chiếu sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể đã được quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự, từ đó xác định người đã thực hiện hành vi đó có phải là tội phạm hay không, và nếu có thì theo điều luật nào của Bộ luật hình sự. Đối với tội tham ô tài sản là một loại tội phạm cụ thể được quy định tại Điều 278 - Mục A "Các tội phạm về tham nhũng" - Chương XXI "Các tội phạm về chức vụ" Bộ luật hình sự năm 1999. Cụ thể, Khoản 1 Điều 278 Bộ luật hình sự 1999 quy định: Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Gây hậu quả nghiêm trọng; b) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm; c) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục A chương này, nhưng chưa được xóa án tích mà còn vi phạm [28]. Như vậy, tham ô tài sản là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lí có giá trị từ hai triệu đồng trở lên hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội được quy định tại Mục A Chương Các tội phạm về chức vụ Bộ luật hình sự năm 1999, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Chủ thể của tội phạm này là những người có chức vụ, quyền hạn, vì những lợi ích khác nhau đã lợi dụng 8 chức vụ, quyền hạn mà mình có để chiếm đoạt tài sản, qua đó xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức cũng như gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Từ cơ sở lý luận cũng như các quy định của Bộ luật hình sự có thể thấy định tội danh đối với tội tham ô tài sản là hoạt động thực tiễn áp dụng quy phạm pháp luật hình sự được quy định tại Điều 278 Bộ luật hình sự. Đây là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có thẩm quyền trong tố tụng hình sự nhằm đối chiếu sự phù hợp giữa các dấu hiệu thực tế của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm được mô tả tại Điều 278 Bộ luật hình sự, tức là trên cơ sở các chứng cứ tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự cụ thể, các chủ thể có thẩm quyền xem xét, kiểm tra xem các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đó có thỏa mãn các dấu hiệu tương ứng của cấu thành tội phạm tội tham ô tài sản đã được quy định trong luật hình sự hay không, để trên cơ sở đó xác định vấn đề trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Vậy tác giả đưa ra khái niệm như sau: Định tội danh đối với tội tham ô tài sản là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự, do các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật thực hiện trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để nhằm đối chiếu sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể đã được quy định trong Điều 278 Bộ luật hình sự, từ đó xác định người đã thực hiện hành vi đó có phạm tội tham ô tài sản hay không. 1.1.1.2. Đặc điểm định tội danh đối với tội tham ô tài sản Từ nội dung của khái niệm và định nghĩa về định tội danh đối với tội 9 tham ô tài sản trên đây có thể thấy định tội danh đối với loại tội phạm này có những đặc điểm sau: Thứ nhất, định tội danh đối với tội tham ô tài sản là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic được thể hiện dưới hai khía cạnh: xác định xem các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện có phù hợp với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể do Điều 278 Bộ luật hình sự quy định hay không. Trên cơ sở đó, đưa ra sự đánh giá nhất định về mặt pháp lý hình sự đối với một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể xảy ra trong thực tế khách quan. Về nguyên tắc, chỉ khi đối chiếu và nhận thấy sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi đã được thực hiện trong thực tiễn với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm với nhau thì mới có thể kết luận tội phạm do người nào đó thực hiện có phải là tội tham ô tài sản được quy định tại Điều 278 Bộ luật hình sự hay không và từ đó có cơ sở để buộc người đó chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội tham ô tài sản mà họ đã thực hiện. Tuy nhiên, trong thực tiễn định tội danh, cần phải nhận thức được rằng thực tiễn cuộc sống xảy ra rất sinh động và phong phú mà pháp luật không thể phản ánh hết từng trường hợp cụ thể được mà các quy phạm pháp luật mang tính phổ quát. Do vậy, trong quá trình thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật để định tội danh rất cần sự nhận thức đúng đắn, tư duy khoa học cũng như việc nắm vững tinh thần pháp luật của các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử. Thứ hai, định tội danh là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự được tiến hành bởi các cơ quan tư pháp hình sự - các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Đóng vai trò chính trong hoạt động định tội danh là các cơ quan tư pháp hình sự, bao gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Các cơ quan này trong quá trình thực hiện hoạt động điều tra, truy tố và xét xử đã áp 10 dụng các quy định của pháp luật hình sự vào thực tế đời sống, tức là lựa chọn đúng quy phạm pháp luật hình sự để áp dụng đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể nào đó đã được thực hiện trong thực tế. Và từ đó, đưa ra kết luận là hành được xem xét ấy có đủ các dấu hiệu của tội tham ô tài sản được quy định trong pháp luật hình sự thực định hay không [7, tr. 34]. Như vậy, chủ thể của hoạt động định tội danh đối với tội tham ô tài sản chính là các cơ quan tư pháp hình sự gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và một số cơ quan khác có thẩm quyền. Các chủ thể này dựa trên các quy định pháp luật hình sự tiến hành việc định tội danh đối với tội phạm tham ô tài sản theo đúng trình tự, thủ tục được quy định trong luật tố tụng hình sự, trên cơ sở đó định tội danh đúng để làm căn cứ cho việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Thứ ba, định tội danh đối với tội tham ô tài sản được thực hiện trên cơ sở áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự; đồng thời căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự. Khi tiến hành định tội danh, dù ở bất kì giai đoạn tố tụng nào, các cơ quan có thẩm quyền phải tuân thủ đầy đủ, chính xác các quy định của cả luật hình sự (luật về nội dung) và luật tố tụng hình sự (luật về hình thức). Bởi lẽ định tội danh là hoạt động đối chiếu sự phù hợp giữa các tình tiết thuộc về hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện trên thực tế với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự và hoạt động đó được tiến hành trên cơ sở trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chỉ vậy, đối với từng vụ án cụ thể khác nhau, các chủ thể định tội danh còn phải căn cứ vào từng đặc điểm, tình tiết của từng vụ án đó để có thể tiến hành định tội danh đúng. Thứ tư, định tội danh đối với tội tham ô tài sản với tính chất là một dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự được tiến hành về cơ bản theo bốn bước: 11 - Xem xét và thiết lập đúng các tình tiết thực tế của vụ án trong sự phù hợp với hiện thực khách quan; - Nhận thức một cách thống nhất và chính xác nội dung các quy phạm pháp luật hình sự đang có hiệu lực thi hành đặc biệt là quy phạm pháp luật hình sự về tội tham ô tài sản quy định tại Điều 278 Bộ luật hình sự; - So sánh, đối chiếu và kiểm tra các tình tiết cụ thể của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm của tội tham ô tài sản quy định tại Điều 278 Bộ luật hình sự. - Sau khi đã so sánh, đối chiếu và kiểm tra đầy đủ, chính xác, ra một văn bản áp dụng pháp luật mà trong đó đưa ra kết luận có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục về sự phù hợp của hành vi thực tế đã được thực hiện với cấu thành tội phạm tham ô tài sản được quy định tại Điều 278 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999. 1.1.1.3. Phân loại định tội danh đối với tội tham ô tài sản Căn cứ vào các chủ thể tương ứng thực hiện việc định tội danh, khoa học luật hình sự phân chia định tội danh làm hai dạng: định tội danh chính thức và định tội danh không chính thức [7, tr. 35]. Trên cơ sở đó, đối với tội tham ô tài sản có thể phân chia thành hai dạng định tội danh tương ứng là định tội danh chính thức và định tội danh không chính thức. * Định tội danh chính thức là sự đánh giá về mặt nhà nước tính chất pháp lý hình sự của một hành vi phạm tội cụ thể do các chủ thể được nhà nước ủy quyền thực hiện [7, tr. 35]. Định tội danh chính thức đối với tội tham ô tài sản có những đặc điểm sau: - Các chủ thể định tội danh chính thức đối với tội tham ô tài sản phải là những người có thẩm quyền trực tiếp tiến hành tố tụng đối với vụ án hình sự cụ thể, đó là, điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm nhân dân và hội thẩm quân nhân [7, tr. 35]. Từng chủ thể trên sẽ tiến hành 12 định tội danh đối với tội tham ô tài sản trong các giai đoạn tố tụng khác nhau và tùy theo thẩm quyền, nhiệm vụ, trách nhiệm được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. - Các hậu quả của việc định tội danh do các chủ thể đã nêu trên tiến hành bao gồm các hậu quả pháp lý tố tụng hình sự như khởi tố vụ án hình sự, bắt đầu quá trình điều tra, khởi tố bị can, truy tố, xét xử,... Vì sau khi nhận được tin báo, tố giác tội phạm, cơ quan điều tra phải kiểm tra, xác minh và quyết định việc khởi tố vụ án tham ô tài sản nếu có dấu hiệu của tội phạm và, từ đó là cơ sở để tiến hành điều tra, giải quyết vụ án làm căn cứ để quyết định truy tố, xét xử người phạm tội về tội tham ô tài sản. Ngoài ra, hậu quả hoạt động định tội danh chính thức đối với tội tham ô tài sản còn là các hậu quả pháp lý hình sự như miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc ra bản án kết tội... - Nếu người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự trong giai đoạn trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, thì căn cứ vào Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, chỉ có tội danh cuối cùng trong bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mới được coi là tội danh chính thức mà người phạm tội đã thực hiện [7, tr. 36]. Trong các giai đoạn khác nhau của tố tụng hình sự, các chủ thể có thẩm quyền trong từng giai đoạn tiến hành hoạt động định tội danh và đây đều được coi là hoạt động định tội danh chính thức. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là đối tượng phải gánh chịu hậu quả của hoạt động định tội danh đó là người phạm tội tham ô tài sản. Điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: "không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [29]. Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định "Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [34]. Như vậy, chỉ có trên cơ sở quá 13 trình xét xử công khai tại tòa, Tòa án ra bản án kết tội một người phạm tội tham ô tài sản và bản án đó có hiệu lực pháp luật thì người đã thực hiện đã thực hiện hành vi phạm tội trong thực tế mới bị coi là tội phạm tham ô tài sản. * Định tội danh không chính thức đối với tội tham ô tài sản là sự đánh giá không phải về mặt nhà nước tính chất pháp lý hình sự của một hành vi phạm tội tham ô tài sản cụ thể mà là sự đánh giá về hành vi phạm tội do các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý, tác giả bài báo, tạp chí, công trình khoa học, sinh viên, học viên hay bất kì một người nào đó qua tâm nghiên cứu. Định tội danh không chính thức đối với tội tham ô tài sản có những đặc điểm sau đây: - Các chủ thể tiến hành định tội danh không chính thức đối với tội tham ô tài sản không nhất thiết phải là những người nhất định nào, họ không phải là những chủ thể có thẩm quyền trong các cơ quan tiến hành tố tụng mà có thể là bất kì ai, nhưng thông thường là các luật gia trong lĩnh vực tư pháp hình sự, cá tác giả của các công trình nghiên cứu khoa học, giáo trình, những người đang quan tâm nghiên cứu luật hình sự. - Hậu quả của hoạt động định tội danh không chính thức đối với tội tham ô tài sản không làm phát sinh quyền hoặc nghĩa vụ trong các quan hệ pháp luật hình sự hay pháp luật tố tụng hình sự của các chủ thể tham gia các quan hệ đó mà chỉ là các quan điểm khoa học hay ý kiến riêng của các cá nhân đó [7, tr. 36]. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn có những ý nghĩa thực tiễn nhất định khi nó là tài liệu tham khảo cho các chủ thể có thẩm quyền khi tiến hành hoạt động định tội danh chính thức, hạn chế thấp nhất các trường hợp định tội danh sai. 1.1.1.4. Ý nghĩa của định tội danh đối với tội tham ô tài sản Trong quá trình giải quyết vụ án tham ô tài sản, việc định tội danh đối với tội phạm này có ý nghĩa rất quan trọng, cụ thể: 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan