Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật định đoạt phần vốn góp của thành viên trong công ty tnhh theo pháp luật việt nam...

Tài liệu định đoạt phần vốn góp của thành viên trong công ty tnhh theo pháp luật việt nam

.PDF
78
11
83

Mô tả:

MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt Mở đầu 5 Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về định đoạt phần vốn góp của thành viên trong công ty TNHH 1.1 Khái niệm và bản chất pháp lý của phần vốn góp của thành 8 viên trong công ty TNHH 1.1.1 Khái niệm phần vốn góp của thành viên trong công ty 8 TNHH 1.1.2 Bản chất pháp lý phần vốn góp của các thành viên trong 11 công ty TNHH 1.2 Phân loại các hình thức định đoạt phần vốn góp 12 1.2.1 Chuyển nhượng 12 1.2.2 Các hình thức khác 13 Các điều kiện đối với việc định đoạt phần vốn góp 17 1.3.1 Cơ sở pháp lý tạo thành các điều kiện 17 1.3.2 Nội dung các điều kiện 21 Nội dung và hiệu lực của định đoạt phần vốn góp 22 1.4.1 Nội dung 22 1.4.2 Hiệu lực 24 1.3 1.4 1.4.2.1 Hiệu lực đối với các thành viên 24 1.4.2.2 Hiệu lực đối với công ty 26 1.5 Tranh chấp và giải quyết tranh chấp về định đoạt phần vốn 2 27 góp 1.5.1 Các dạng tranh chấp 27 1.5.2 Hình thức giải quyết tranh chấp 40 Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về định đoạt phần vốn góp của thành viên trong công ty TNHH 2.1 Cấu trúc và sự phát triển của pháp luật Việt Nam về định 43 đoạt phần vốn góp của thành viên trong công ty TNHH 2.2 Quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về định đoạt 50 phần vốn góp của thành viên trong công ty TNHH 2.3 Nguyên nhân của những khiếm khuyết của pháp luật Việt 58 Nam về định đoạt phần vốn góp của thành viên trong công ty TNHH Chƣơng 3: Những kiến nghị chủ yếu nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về định đoạt phần vốn góp của thành viên trong công ty TNHH 3.1 Nhu cầu hoàn thiện 64 3.2 Phương hướng hoàn thiện 66 3.3 Kiến nghị các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện 69 3.3.1 Xây dựng hệ thống văn bản pháp luật hoàn chỉnh về công ty 69 3.3.2 Hoàn thiện các quy định của Luật Thương mại 70 3.3.3 Cải cách thủ tục hành chính 72 3.3.4 Công khai và minh bạch chính sách 73 3.3.5 Tạo điều kiện tốt hơn nữa cho hoạt động của công ty 73 3.3.6 Hoàn thiện quy định về chuyển nhượng phần vốn góp 74 3.3.7 Sửa đổi quy định về thừa kế phần vốn góp 74 Kết luận 75 Tài liệu tham khảo 77 3 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TNHH Trách nhiệm hữu hạn SHTT Sở hữu trí tuệ VCCI Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam 4 MỞ ĐẦU 1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập mạnh mẽ với các nước trong khu vực và quốc tế vì vậy nền kinh tế của nước ta có những thay đổi hết sức căn bản để đáp ứng được với nhu cầu hội nhập. Sự phát triển nhanh chóng của khu vực kinh tế tư nhân và sự cải cách mạnh mẽ của khu vực kinh tế nhà nước đã thúc đẩy việc cải cách pháp luật công ty ở Việt Nam. Quốc hội đã ban hành Luật Doanh nghiệp 2005 để tạo ra sân chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế. Ở Việt Nam, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm số lượng rất lớn. Do vậy loại hình công ty TNHH chiếm vị trí quan trọng, luôn là sự lựa chọn của người đầu tư. Việc nhượng bán phần vốn góp trong công ty TNHH là một vấn đề pháp lý và kinh tế có ý nghĩa lớn hiện nay, bởi nó là một tài sản kinh doanh phụ thuộc nhà đầu tư và nhà đầu tư rất linh động khi sử dụng quyền này để tiến hành hoạt động kinh doanh. Trong khi đó pháp luật Việt Nam hiện nay còn khá nhiều bất cập liên quan. Vì vậy tôi lựa chọn đề tài “Định đoạt phần vốn góp của thành viên trong công ty TNHH theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài cho Luận văn thạc sỹ luật học của mình. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Hiện nay ở nước ta, ngoài một số bài viết đề cập hoặc nghiên cứu một số khía cạnh của vấn đề định đoạt phần vốn góp trong công ty TNHH, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách sâu sắc, hệ thống và đầy đủ về vấn đề: định đoạt phần vốn góp trong công ty TNHH. Trong xu thế phát triển và hội nhập hiện nay, có nhiều vấn đề đặt ra trong việc định đoạt phần vốn 5 góp trong công ty TNHH, nó đòi hỏi sự hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm đảm bảo sự an toàn về mặt pháp lý cho các thành viên trong công ty TNHH. Những kiến nghị của đề tài hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về định đoạt phần vốn góp trong công ty TNHH. 3. MỤC ĐÍCH VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Luận văn hướng tới các mục tiên nghiên cứu: (1) Các vấn đề lý luận về phần vốn góp trong công ty TNHH; (2) Các hình thức định đoạt phần vốn góp, thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về định đoạt phần vốn góp trong công ty TNHH; (3) Những hạn chế và phương hướng hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về định đoạt phần vốn góp trong công ty TNHH. Luận văn chỉ nghiên cứu các vấn đề định đoạt phần vốn góp trong công ty TNHH theo pháp luật Việt Nam hiện hành và đưa ra các kiến giải liên quan. 4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Luận văn được thực hiện trên nền tảng các nguyên tắc và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, và những quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam. Trên cơ sở đó, Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích, đối chiếu, so sánh, tổng hợp, thống kê, khái quát hoá để giải quyết nội dung khoa học của đề tài. 5. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN Luận văn được chia làm ba chương như sau: Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH ĐOẠT PHẦN VỐN GÓP CỦA THÀNH VIÊN TRONG CÔNG TY TNHH 1.1 Khái niệm và bản chất pháp lý của phần vốn góp của thành viên trong công ty TNHH 1.2 Phân loại các hình thức định đoạt phần vốn góp 6 1.3 Các điều kiện đối với việc định đoạt phần vốn góp 1.4 Nội dung và hiệu lực của định đoạt phần vốn góp 1.5 Các dạng tranh chấp Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐỊNH ĐOẠT PHẦN VỐN GÓP CỦA THÀNH VIÊN TRONG CÔNG TY TNHH. 2.1 Cấu trúc và sự phát triển của pháp luật Việt Nam về định đoạt phần vốn góp của thành viên trong công ty TNHH 2.2 Quy định của pháp luật Việt Nam về định đoạt phần vốn góp của thành viên trong công ty TNHH 2.3 Nguyên nhân của những khiếm khuyết trong quy định của pháp luật Việt Nam về định đoạt phần vốn góp của thành viên trong công ty TNHH Chương 3. NHỮNG KIẾN NGHỊ CHỦ YẾU NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐỊNH ĐOẠT PHẦN VỐN GÓP CỦA THÀNH VIÊN TRONG CÔNG TY TNHH 3.1 Nhu cầu hoàn thiện 3.2 Phương hướng hoàn thiện 3.3 Những kiến nghị chủ yếu nhằm hoàn thiện pháp luật về định đoạt phần vốn góp của thành viên trong công ty TNHH 7 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH ĐOẠT PHẦN VỐN GÓP CỦA THÀNH VIÊN TRONG CÔNG TY TNHH 1.1 Khái niệm và bản chất pháp lý của phần vốn góp trong công ty TNHH 1.1.1 Khái niệm về phần vốn góp của thành viên trong công ty TNHH Công ty ra đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện kinh tế – xã hội và lịch sử nhất định. Lịch sử phát triển của công ty gắn liền với lịch sử phát triển của hoạt động thương mại và sự phát triển của lực lượng sản xuất với những tiến bộ về kỹ thuật và công nghệ ngày càng hiện đại. Sự ra đời của công ty là kết quả của quá trình phát triển kinh tế hàng hoá. Theo quan niệm chung có thể hiểu: Công ty kinh doanh là một thực thể kinh doanh được tạo lập trên cơ sở vốn góp của một hay nhiều người. Thông thường Công ty được chia làm 2 loại chính là Công ty đối nhân và Công ty đối vốn. Loại thứ nhất, Công ty đối nhân là những công ty mà việc thành lập dựa trên sự liên kết chặt chẽ bởi độ tin cậy về nhân thân của các thàn viên tham gia, sự hùn vốn là yếu tố thứ yếu. Công ty đối nhân thường tồn tại dưới hai dạng cơ bản là công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản. Công ty hợp danh là loại hình công ty trong đó các thành viên cùng nhau tiến hành hoạt động thương mại dưới một hãng chung và cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty [25, tr.115]. Còn đối với công ty hợp vốn đơn giản là loại công ty có ít nhất một thành viên chịu trách nhiệm vô hạn (thành viên nhận vốn), còn những thành viên khác chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong số vốn đã góp vào công ty (thành viên góp vốn). 8 Loại thứ hai, Công ty đối vốn là loại công ty mà những thành viên tham gia phải góp một phần vốn xác định tạo nên vốn, tài sản riêng của Công ty trong quá trình hoạt động kinh doanh. Ở Công ty đối vốn yếu tố nhân thân của người góp vốn thường ít được quan tâm mà vấn đề vốn góp được đề cao. Các thành viên Công ty đối vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ của Công ty nghĩa là họ chỉ chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ của Công ty trong phạm vi phần vốn mà họ góp vào công ty. Các công ty đối vốn thông thường có công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp vốn cổ phần. Khác với các loại hình công ty, công ty trách nhiệm hữu hạn là sản phẩm của hoạt động lập pháp. Các loại công ty khác do các thương gia lập ra, pháp luât thừa nhận và hoàn thiện nó. Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại công ty trung gian giữa Công ty đối nhân và Công ty đối vốn, nó vừa có tính chất của một Công ty đối nhân là các thành viên quen biết nhau; việc thành lập, quản lý công ty đơn giản hơn công ty cổ phần. Nó có tính chất của công ty đối vốn vì các thành viên chỉ chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn họ đã góp vào công ty. Vì những lý do đó công ty trách nhiệm hữu hạn có những đặc trưng cơ bản sau: - Công ty trách nhiện hữu hạn là một pháp nhân độc lập, địa vị pháp lý này quyết định chế độ trách nhiệm của công ty. - Thành viên công ty không nhiều và thường là những người quen biết nhau. - Vốn điều lệ chia thành từng phần, mỗi thành viên có thể góp nhiều, ít khác nhau và bắt buộc phải góp đủ khi công ty thành lập, công ty phải bảo toàn vốn ban đầu. - Phần vốn góp không thể hiện dưới hình thức cổ phiếu và rất khó chuyển nhượng ra bên ngoài. 9 - Trong quá trình hoạt động, không được phép công khai huy động vốn trong công chúng (không được phát hành cổ phiếu). Có thể nói công ty TNHH là mô hình lý tưởng để kinh doanh ở quy mô vừa và nhỏ. Chính sự phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam nên mô hình công ty TNHH rất phổ biến ở nước ta. Khi đưa ra khái niệm “trách nhiệm hữu hạn” thì luật pháp cũng phải đưa ra một khái niệm khác, vừa để làm nền tảng vừa để làm cho khái niệm mới hợp lý. Vì vậy trên cơ sở để phù hợp với khái niệm “trách nhiệm hữu hạn” luật đã tách biệt người bỏ vốn ra khỏi cái cơ ngơi họ thành lập. Cơ ngơi người bỏ vốn ra để thành lập gọi là “pháp nhân”. “Pháp nhân được hiểu là một tổ chức thống nhất, độc lập có tài sản riêng và chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập” [26, tr.90]. Pháp nhân là chủ thể khi tham gia các quan hệ trong xã hội. Vậy nếu pháp nhân gây nợ thì nó phải lấy hết tiền của nó ra mà trả, còn chủ bỏ vốn ra chỉ mất số tiền mà họ đã góp vào để thành lập ra pháp nhân. Từ sự phân tích ở trên ta thấy được rằng có sự tách bạch giữa tài sản của người góp vốn và tài sản của công ty TNHH. Tài sản của người góp vốn sau khi góp vào để thành lập công ty thì tài sản đó thuộc quyền sở hữu của công ty TNHH chứ không còn thuộc quyền sở hữu của người góp vốn. Những người đã góp vốn thành lập công ty trở thành đồng chủ sở hữu công ty. Mỗi người trong số họ chiếm một phần trong tổng số vốn góp của công ty và được gọi là phần vốn góp của người góp vốn. Vậy phần vốn góp là gì? Theo khoản 5 điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005 “Phần vốn góp là tỷ lệ vốn mà chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu chung của công ty góp vào vốn điều lệ” . Qua các phân tích ở trên có thể hiểu theo nghĩa chung nhất, phần vốn góp là danh từ dùng cho công ty TNHH, nói về giá trị về tài sản, dưới hình 10 thức tiền mặt hay tài sản vô hình hoặc hữu hình, mà người góp vốn vào công ty TNHH để có những quyền và nghĩa vụ khi công ty được thành lập, hoạt động và giải thể. 1.1.2 Bản chất pháp lý của phần vốn góp. Công ty thường được xem xét trên hai phương diện: kinh tế và pháp lý. Trên phương diện kinh tế, công ty được xem là một doanh nghiệp hay một thực thể kinh doanh. Và trên phương diện pháp lý, công ty được xem là hành vi pháp lý hay hành vi thương mại. Do đó phần vốn góp cũng được hiểu theo nghĩa kinh tế và nghĩa pháp lý, có nghĩa là cần xem xét khái niệm phần vốn góp từ phương diện kinh tế và từ phương diện pháp lý. Nếu như xét từ phương diện kinh tế, phần vốn góp là sản nghiệp của người đã góp vốn vào công ty. Phần vốn góp không phải được hình thành từ thế giới vật chất như các tài sản hữu hình, cũng không phải được hình thành từ con tim và khối óc như các đối tượng của sở hữu trí tụê mà phần vốn góp là sự phân thân về giá trị của tài sản góp vốn vào công ty. Khi người góp vốn góp vốn vào công ty thì tài sản đó thuộc sở hữu của công ty TNHH đổi lại người góp vốn trở thành trái quyền đối với phần vốn góp. Tuy người góp vốn là trái quyền đối với phần vốn góp nhưng do công ty TNHH là loại hình công ty vừa mang tính đối nhân vừa mang tính đối vốn nên việc thực hiện các quyền năng của trái quyền có một số hạn chế nhất định. Xét về phương diện pháp lý thì phần vốn góp là tỷ lệ vốn mà người góp vốn đã góp vào công ty. Trong công ty thường có nhiều thành viên cùng tham gia góp vốn để thành lập công ty. Nhưng không phải lúc nào các thành viên góp vốn cũng góp một số vốn như nhau. Khi góp vốn vào công ty thì tài sản góp vốn trở thành tài sản của công ty. Các thành viên góp vốn là chủ sở hữu công ty. Lúc đó vấn đề phát sinh nếu không có sự phân biệt giữa về số vốn góp vào công ty thì sẽ không có sự khác nhau về quyền và nghĩa vụ của các 11 thành viên góp vốn. Vì vậy khái niệm phần vốn góp là để phân biệt được tỷ lệ góp vốn vào công ty của các thành viên góp vốn. Phần vốn góp của các thành viên góp vốn tỷ lệ thuận với số vốn mà họ đã góp vào công ty. Dựa trên phần vốn góp mà ta cũng có thể xác định được quyền hạn và nghĩa vụ của các thành viên góp vốn. Trong công ty có nhiều thành viên nên việc điều hành, quản lý, quyết định những vấn đề cũng dựa trên tỷ lệ phần vốn góp của các thành viên trong công ty. 1.2 Phân loại các hình thức định đoạt phần vốn góp 1.2.1 Chuyển nhƣợng. Theo giáo sư Michael Blakeney của Viện nghiên cứu sở hữu trí tuệ Queen Mary đại học London thì khái niệm chuyển nhượng được hiểu như sau: Chuyển nhượng là việc chủ sở hữu bán tất cả các quyền SHTT độc quyền của mình và được một cá nhân khác hoặc pháp nhân khác mua lại các quyền đó. Khi tất cả các quyền độc quyền đối với một sáng chế đã được bảo hộ được chủ sở hữu của nó chuyển giao cho một cá nhân hoặc một pháp nhân khác mà không có một giới hạn bất kỳ về thời gian hoặc các điều kiện khác thì việc chuyển nhượng các quyền đó xem như đã được thực hiện [27]. Theo giáo trình Luật dân sự của đại học Luật Hà Nội thì khái niệm chuyển nhượng quyền sử dụng đất là sự thoả thuận của các bên, theo đó người sử dụng đất chuyển giao đất và quyền sử dụng đất cho người được chuyển nhượng, còn người được chuyển nhượng trả một khoản tiền nhất định, tương ứng với giá trị quyền sử dụng đất đó. Qua phân tích ở trên ta thấy rằng chuyển nhượng là việc chủ sở hữu giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho người nhận chuyển nhượng và nhận được từ người nhận chuyển nhượng một khoản tiền tương đương với giá trị tài sản đó. Ở đây ta thấy có sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay 12 đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ. Từ đó ta có thể rút ra kết luận bản chất của chuyển nhượng là hợp đồng. 1.2.2 Các hình thức khác. a. Thừa kế: là một chế định pháp luật dân sự, là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc dịch chuyển tài sản của người chết cho người khác theo di chúc hoặc theo một trình tự nhất định, đồng thời quy định phạm vi quyền, nghĩa vụ và phương thức bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế [26, tr.464]. Thừa kế theo di chúc là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người khác còn sống theo quyết định của người đó trước khi chết. Nội dung cơ bản của thừa kế theo di chúc là chỉ định người thừa kế và phân định tài sản, quyền tài sản cho họ, giao cho họ nghĩa vụ tài sản. Người lập di chúc chỉ định một hoặc nhiều người trong di chúc và cho họ hưởng một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình. Nếu trong di chúc có nhiều người, mỗi người được hưởng bao nhiêu phục thuộc vào ý chí của người có tài sản. Người có tài sản thể hiện ý chí của mình, nhưng ý chí đó có được thực hiện hay không phụ thuộc vào hình thức biểu lộ ý chí. Vì vậy, một người muốn định đoạt tài sản của mình bằng di chúc, cần phải tuân thủ các quy định của pháp luật về thừa kế theo di chúc [26, tr.482]. Qua phân tích ở trên ta thấy thừa kế theo di chúc chỉ thể hiện ý chí của một bên đó là người để lại di sản thừa kế. Vì vậy ta có thể thấy rằng thừa kế theo di chúc có bản chất là hành vi pháp lý đơn phương. Thừa kế theo pháp luật là việc di chuyển tài sản của người chết cho những người thừa kế theo quy định của pháp luật. Cá nhân có quyền sở hữu đối với tài sản của mình, sau khi chết, số tài sản còn lại được chia đều cho những người thừa kế. Người được thừa kế của cá nhân là những người có quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng. Những người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi. Mọi 13 người bình đẳng trong việc hưởng di sản của người chết, thực hiện nghĩa vụ mà người chết chưa thực hiện trong phạm vi di sản nhận. Phạm vi những người thừa kế rất rộng, vì vậy pháp luật quy định thành nhiều hàng thừa kế. Trong đó hàng thừa kế thứ nhất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống gần gũi nhất so với các hàng khác. Các hàng thừa kế thứ hai, thứ ba là những hàng dự bị nếu như người chết không có những người thừa kế ở hàng thứ nhất hoặc có nhưng họ đều không nhận hoặc không có quyền nhận [26, tr.494]. Thừa kế theo pháp luật chỉ được đặt ra trong các trường hợp: + Không có di chúc + Di chúc không hợp pháp; + Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước người lập di chúc; cơ quan tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế; + Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản, hoặc từ chối quyền hưởng di sản; + Phần di sản không được định đoạt trong di chúc + Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối quyền hưởng di sản hoặc chết trước người lập di chúc; liên quan đến cơ quan tổ chức được thừa kế theo di chúc nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế. b, Tặng cho là loại hợp đồng. Trong các loại hợp đồng thông dụng thì hợp đồng tặng cho có những đặc điểm riêng biệt. Tặng cho tài sản làm phát sinh quan hệ hợp đồng khi bên được tặng, cho nhận tài sản. Hợp đồng tặng cho là hợp đồng thực tế, sau khi các bên đã thoả thuận về việc tặng cho mà chưa chuyển giao tài sản, không làm phát sinh quyền của các bên. Vì vậy hợp đồng được coi là ký kết khi các bên chuyển giao tài sản. Thời điểm chuyển giao tài sản cũng là thời điểm chấm dứt hợp đồng [26, tr.374]. Điều 461 Bộ 14 luật dân sự quy định: “Hợp đồng tặng cho là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, còn bên tặng cho đồng ý nhận”. Căn cứ vào khái niệm hợp đồng tặng cho tài sản cho thấy đây là một hợp đồng đơn vụ và không có nghĩa vụ thanh toán giữa các bên. Loại hợp đồng tặng cho này diễn ra phổ biến. Tuy nhiên còn có hợp đồng tặng cho kèm theo điều kiện buộc bên được tặng cho phải thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ theo yêu cầu của bên tặng cho. Trong trường hợp này hợp đồng tặng cho là hợp đồng có điều kiện. Đối tượng của quan hệ nghĩa vụ mà bên tặng cho yêu cầu bên được tặng cho thực hiện có thể là tài sản hoặc công việc. Nếu đối tượng của quan hệ nghĩa vụ này là tài sản thì tài sản phải được phép đưa vào giao dịch, còn nếu đối tượng của quan hệ nghĩa vụ này là công việc, thì việc thực hiện hoặc không thực hiện công việc không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội. Qua phân tích ta thấy được việc thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự của bên được tặng cho thực chất là một dạng đền bù, thể hiện quan hệ có đi có lại giữa các bên. Do đó, hợp đồng tặng cho có điều kiện là một loại hợp đồng dân sự song vụ, theo đó bên tặng cho có nghĩa vụ chuyển giao tài sản cho bên được tặng cho, còn bên được tặng cho tài sản có nghĩa vụ thực hiện một công việc theo các điều kiện mà bên tặng cho đưa ra. c, Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự: Khi đã góp tài sản vào trong doanh nghiệp, tài sản sẽ được chuyển thành tài sản của doanh nghiệp, không còn là tài sản thuộc sở hữu của chủ thể góp vốn nữa. Vì vậy, Bộ luật dân sự quy định quyền tài sản đối với phần vốn góp vào doanh nghiệp được sử dụng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. + Thế chấp là việc một bên dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia và không chuyển giao tài sản cho bên nhận thế chấp [26, tr.317]. 15 + Cầm cố được hiểu là việc một bên giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Qua đó ta thấy để phân biệt cầm cố và thế chấp người ta không phụ thuộc vào tài sản bảo đảm là động sản hay bất động sản, mà phụ thuộc vào đặc điểm tài sản đó có chuyển giao cho bên nhận bảo đảm giữ hay không. Nếu tài sản bảo đảm được chuyển giao cho bên nhận bảo đảm giữ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, thì hai bên đã áp dụng biện pháp cầm cố tài sản. Việc bên cầm cố giao tài sản cầm cố cho bên nhận cầm cố phải là giao tài sản thực tế, tức là bên nhận cầm cố thực sự giữ tài sản cầm cố chứ không phải chỉ chiếm hữu giấy tờ. Mặt khác ta thấy rằng phần vốn góp của chủ thể góp vốn là quyền tài sản. Với đặc điểm của quyền tài sản đó là không thể cầm nắm được vì thế không thể có việc chuyển giao tài sản bảo đảm từ người cầm cố cho người nhận cầm cố. Vì vậy không thể áp dụng biện pháp bảo đảm cầm cố cho tài sản bảo đảm là phần vốn góp mà chỉ áp dụng biện pháp thế chấp. + Bảo lãnh là việc người thứ ba cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ, nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Ta có thể thấy sự khác nhau giữa chế định bảo lãnh với các chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác là ở chỗ bảo lãnh là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, trong đó người thứ ba dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự của người khác chứ không phải là bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của chính chủ sở hữu tài sản như các chế định bảo đảm khác. Như vậy, trong biện pháp bảo lãnh, bên bảo đảm không phải là bên có nghĩa vụ được bảo đảm, đồng thời không chỉ có hai chủ thể chính là bên có quyền và bên có nghĩa vụ, mà ít nhất có ba bên chủ thể: bên bảo đảm 16 (bên bảo lãnh), bên nhận bảo đảm (là bên có quyền – bên nhận bảo lãnh) và bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh). Bên bảo lãnh là người thứ ba (trong quan hệ nghĩa vụ dân sự) cam kết với bên có quyền là sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ nếu đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Tuy nhiên, biện pháp bảo lãnh cũng có mối quan hệ với các biện pháp bảo đảm khác. Điều này thể hiện ở chỗ bên bảo lãnh sử dụng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược hay ký quỹ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự cho bên được bảo lãnh (được gọi là áp dụng biện pháp bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh). Nghĩa vụ dân sự của bên bảo lãnh trong trường hợp này là thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh nếu khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ với bên nhận bảo lãnh. 1.3 Các điều kiện đối với việc định đoạt phần vốn góp 1.3.1 Cơ sở pháp lý tạo thành các điều kiện a, Quy định pháp luật về quyền tài sản. Theo như phân tích ở trên ta có thể thấy rằng phần vốn góp là quyền tài sản của thành viên góp vốn vào công ty. Theo quy định tại Điều 181 Bộ luật dân sự: “Quyền tài sản là quyền giá trị được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”. Từ định nghĩa trên ta khẳng định quyền tài sản phải đáp ứng được hai yêu cầu: + Quyền tài sản trị giá được bằng tiền. + Có thể chuyển giao cho người khác trong giao dịch dân sự. Giá trị của các quyền tài sản có được thông qua các hình thức pháp lý khác nhau như: 17 + Thông qua giao kết hợp đồng dân sự như quyền đòi nợ, quyền sử dụng tài sản thuê… + Được cơ quan nhà nước giao quyền sử dụng như quyền sử dụng đất, quyền khai thác khoáng sản… + Bằng trí tuệ của mình sáng tạo ra tác phẩm hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận quyền sở hữu công nghiệp. Quyền tài sản có thể được chia thành hai loại: quyền đối vật và quyền đối nhân. Quyền đối vật được biển hiện như quyền cầm cố, quyền thế chấp, quyền hưởng hoa lợi… Quyền đối nhân của một người thường tương ứng với nghĩa vụ tài sản của người khác. Qua quy định tại Điều 181 ta thấy rằng quyền tài sản là một tài sản vô hình, các tài sản vô hình ngoài việc đáp ứng được hai điều kiện quy định tại Điều 181 Bộ luật dân sự cần phải có một số đặc điểm sau đây: + Tài sản vô hình cần phải nhận dạng được. Việc nhận dạng tài sản vô hình có thể thông qua một số chứng cứ hữu hình để có thể mô tả được loại tài sản vô hình đó. Ví dụ: một sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật, khoa học – công nghệ nếu mới chỉ hình thành trong ý nghĩ của người sáng tạo ra chúng, thì chưa được coi là tác phẩm và người có ý nghĩ đó chưa được pháp luật bảo vệ quyền tác giả. Chỉ khi người có ý nghĩ sáng tạo thể hiện các tác phẩm của mình dưới một hình thức vật chất nhất định, thì tác phẩm đó mới được coi là đối tượng của quyền tác giả. Một sáng chế, phát minh, nhãn hiệu hàng hoá… được pháp luật bảo vệ khi chủ sở hữu đăng ký các phát minh, sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá… này tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. + Cũng như việc người ta có thể nhận biết được điểm bắt đầu sự tồn tại của tài sản đó, các chủ thể cũng có thể nhận biết được sự kết thúc (hay sự phá huỷ của tài sản vô hình này). Ví dụ: quyền đòi nợ kết thúc khi người có nghĩa 18 vụ thanh toán xong khoản nợ; quyền sử dụng đất của một chủ thể kết thúc khi hết thời hạn sử dụng đất mà pháp luật đã quy định hoặc khi chủ thể đó chuyển quyền sử dụng đất cho người khác… + Chủ sở hữu tài sản vô hình được pháp luật bảo vệ khi quyền sở hữu bị xâm phạm, thì ngược lại chủ sở hữu cũng phải chịu trách nhiệm pháp lý khi thực hiện quyền sở hữu tài sản vô hình này. b, Quy định của pháp luật về quyền chủ sở hữu. Thành viên khi góp vốn thành lập công ty trở thành chủ sở hữu đối với phần vốn góp. Quyền của chủ sở hữu bao gồm các quyền sau: - Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản - Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. - Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó. Ở trong phạm vi nghiên cứu đề tài ta chỉ tập trung làm rõ quyền định đoạt của chủ sở hữu. Là một trong ba quyền năng của chủ sở hữu, quyền định đoạt tài sản được hiểu là quyền quyết định số phận pháp lý của tài sản và quyền này được thể hiện dưới hai góc độ: + Định đoạt về số phận thực tế của vật, tức là chủ thể có quyền định đoạt vật làm cho vật không còn trên thực tế nữa như: tiêu dùng hết, huỷ bỏ, hoặc từ bỏ quyền chủ sở hữu (vứt bỏ hoặc tiêu huỷ tài sản đi). Trong việc định đoạt số phận thực tế của vật, chủ thể định đoạt vật chỉ cần bằng hành vi của mình tác động trực tiếp đến vật đó [5, tr.445]. + Định đoạt số phận pháp lý của vật là việc chuyển giao sở hữu đối với tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác. Thông thường, việc định đoạt số phận pháp lý của vật phải thông qua giao dịch dân sự phù hợp với ý chí của 19 chủ sở hữu. Các hình thức định đoạt pháp lý rất đa dạng, có thể là việc định đoạt đối với tài sản như bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để lại thừa kế… Hoặc thông qua các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật. Ví dụ như: định đoạt việc phân chia lợi nhuận của doanh nghiệp theo quy định của điều lệ doanh nghiệp, hay quyết định góp vốn để thực hiện hoạt động kinh doanh tại một doanh nghiệp nào đó…[5, tr.445]. Việc chủ sở hữu, hoặc chủ thể khác được chủ sở hữu uỷ quyền định đoạt tài sản thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản sẽ làm chấm dứt hoặc thay đổi các quan hệ pháp luật liên quan đến tài sản đó. Việc định đoạt tài sản phải tuân theo những điều kiện nhất định. Chủ sở hữu có thể tự mình định đoạt tài sản hoặc uỷ quyền cho người khác định đoạt tài sản của mình. c, Quy định của Hiến pháp về bảo vệ chủ sở hữu. Dưới ánh sáng của Nghị quyết đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam, công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước đã đạt được những thành tựu bước đầu vô cùng quan trọng, nhất là những năm đầu của thập kỷ 90. Để đáp ứng được nhu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới trong giai đoạn hiện nay, Quốc hội đã quyết định sửa đổi Hiến pháp 1980. Hiến pháp sửa đổi (được Quốc hội thông qua ngày 15/5/1992) đã thừa kế những quy định của các bản Hiến pháp trước đây và đã xác nhận chế độ kinh tế của nước ta bao gồm ba hình thức sở hữu chủ yếu. Điều 15 – Hiến pháp sửa đổi 1992 ghi nhận: “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng”. Với xu thế phát triển của một nền kinh tế đa dạng, Hiến pháp sửa đổi 1992 đã xác nhận sự tồn tại của hình thức sở hữu tư nhân, nhiều thành phần 20 kinh tế khác nhau cùng tồn tại và phát triển. Để tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, Nhà nước chủ trương cho các thành phần kinh tế thuộc sở hữu tư nhân phát triển với nhiều hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng. Mức độ và phạm vi của sở hữu tư nhân ngày càng được mở rộng. Điều 21 của Hiến pháp sửa đổi năm 1992 đã quy định: “Kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh”. 1.3.2 Nội dung các điều kiện Quyền định đoạt tài sản là một quyền năng quan trọng của quyền sở hữu, bởi nó liên quan đến việc quyết định số phận pháp lý của tài sản khi chuyển quyền sở hữu từ chủ thể này sang chủ thể khác hoặc số phận thực tế của tài sản. Bởi vậy, để bảo vệ quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu, Điều 196 Bộ luật dân sự quy định: “ Việc định đoạt tài sản phải do người có năng lực hành vi dân sự thực hiện theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp pháp luật có quy định về trình tự, thủ tục định đoạt tài sản thì phải tuân theo trình tự thủ tục đó”. Theo quy định trên thì khi định đoạt tài sản phải tuân theo những điều kiện nhất định. Các điều kiện đó là: + Người định đoạt tài sản phải là người có năng lực hành vi dân sự thực hiện theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại Điều 17 Bộ luật dân sự thì năng lực hành vi của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự. Bộ luật dân sự cũng quy định năng lực hành vi dân sự ở từng độ tuổi nhất định phù hợp với khả năng nhận thức của người có tài sản. Người thành niên từ đủ 18 tuổi trở lên là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có toàn quyền định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, hoặc định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác khi được người đó uỷ quyền, trừ những trường hợp người đó bị Toà án tuyên bố mất 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan