Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật việt nam...

Tài liệu điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật việt nam

.PDF
92
5
143

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRÌNH BÀY BẢN CHẤT PHÁP LÝ CỦA ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ SÁNG CHẾ ... Học viên: TRẦN TRUNG KIÊN Hà nội: 2006 Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam MỤC LỤC Trang Mục lục 1 Lời nói đầu 4 Khái quát chung về bảo hộ sáng chế và điều kiện bảo hộ sáng chế 9 Tổng quan về sáng chế và bảo hộ sáng chế 9 1.1.1 Khái niệm sáng chế 9 1.1.1.1 Định nghĩa sáng chế 9 1.1.1.2 Hình thức sáng chế 10 1.1.1.3 Phân biệt sáng chế với một số đối tượng khác 11 Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế 13 1.1.2.1 Nội dung bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế 13 1.1.2.2 ý nghĩa của việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế 14 1.1.3 Lịch sử hình thành và phát triển các quy định pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế 15 1.1.3.1 Sự hình thành và phát triển pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế trên thế giới 15 1.1.3.2 Sự hình thành và phát triển pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế tại Việt Nam 17 Điều kiện bảo hộ sáng chế 20 1.2.1 Khái niệm điều kiện bảo hộ sáng chế 20 1.2.2 Cơ sở xây dựng điều kiện bảo hộ sáng chế 21 1.2.2.1 Trình độ phát triển khoa học kỹ thuật của quốc gia bảo hộ và trình độ khoa học kỹ thuật của thế giới 22 1.2.2.2 Chính sách kinh tế xã hội của quốc gia 23 Nội dung điều kiện bảo hộ sáng chế 25 1.2.3.1 Giải pháp kỹ thuật thuộc phạm vi đối tượng bảo hộ sáng chế 25 1.2.3.2 Giải pháp kỹ thuật yêu cầu bảo hộ sáng chế phải đáp ứng được yêu cầu về điều kiện tính mới 27 1.2.3.3 Giải pháp kỹ thuật yêu cầu bảo hộ sáng chế phải đạt đến trình 29 Chương I 1.1 1.1.2 1.2 1.2.3 1 Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam độ sáng tạo 1.2.3.4 Giải pháp kỹ thuật phải có khả năng áp dụng công nghiệp hoặc có tính hữu ích 30 ý nghĩa của điều kiện bảo hộ sáng chế 33 Chương II Quy định của pháp luật Việt Nam về các điều kiện bảo hộ sáng chế 35 2.1 Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam hiện nay 35 2.1.1 Phạm vi các đối tượng được bảo hộ sáng chế 35 2.1.2 Điều kiện tính mới của sáng chế 38 2.1.3 Điều kiện trình độ sáng tạo của sáng chế 43 2.1.4 Khả năng áp dụng công nghiệp 47 2.1.5 Các trường hợp ngoại lệ 50 2.2 Quy trình xét nghiệm, đánh giá khả năng bảo hộ của giải pháp kỹ thuật theo các điều kiện bảo hộ sáng chế 54 2.2.1 Thẩm định giải pháp kỹ thuật yêu cầu bảo hộ sáng chế trong giai đoạn xét nghiệm hình thức 54 2.2.2 Thẩm định khả năng đáp ứng các điều kiện bảo hộ sáng chế của giải pháp kỹ thuật trong giai đoạn xét nghiệm nội dung 57 2.2.2.1 Đánh giá tính mới của giải pháp kỹ thuật 57 2.2.2.2 Đánh giá khả năng đáp ứng trình độ sáng tạo của giải pháp kỹ thuật 59 2.2.2.3 Đánh giá khả năng áp dụng công nghiệp của giải pháp kỹ thuật đăng ký bảo hộ sáng chế 62 Chương III Thực tiễn áp dụng và một số phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện bảo hộ sáng chế 64 3.1 Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về các điều kiện bảo hộ sáng chế hiện nay 64 3.1.1 Tổng quan chung về thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật Việt Nam về điều kiện bảo hộ sáng chế 64 3.1.2 Thẩm định các đơn sáng chế nước ngoài có yêu cầu hưởng quyền ưu tiên 67 3.1.3 Thẩm định các giải pháp kỹ thuật nộp đơn đăng ký bảo hộ sáng chế theo trình tự nộp đơn đầu tiên tại Việt Nam 70 1.2.4 2 Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam Một số kiến nghị và giải pháp để hoàn thiện 72 3.2.1 Bảo hộ sáng chế đối với cây trồng biến đổi gen 73 3.2.2 Bảo hộ sáng chế đối với chương trình máy tính 74 3.2.3 Xây dựng yêu cầu về tính hữu ích của giải pháp kỹ thuật trở thành một điều kiện bảo hộ sáng chế 75 3.2.4 Cụ thể hoá tiêu chuẩn đánh giá giải pháp kỹ thuật thông qua các văn bản hướng dẫn và giải thích luật nhằm tăng cường khả năng thực thi các quy định pháp luật về điều kiện bảo hộ sáng chế 77 Kết luận 80 Phụ lục 82 Danh mục các tài liệu tham khảo 86 3.2 3 Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam MỞ ĐẦU Lịch sử của nhân loại là lịch sử của sự sáng tạo. Con người dựa trên những nền tảng tri thức đã có để giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Khởi đầu từ những dạng chữ viết xa xưa ở vùng Lưỡng Hà, bàn tính của người Trung Quốc cổ đại, dụng cụ đo độ cao thiên thể ở Sy-ri, đài quan sát cổ ở Ấn Độ, máy in của Gutenberg, động cơ đốt trong, các loại thảo dược và cách chữa bệnh của phương Đông, công nghệ nanô bán dẫn... chính những hoạt động sáng tạo đã tạo ra khả năng cho loài người đạt đến trình độ tiến bộ công nghệ ngày nay. Nếu như trước đây, các tài sản hữu hình như đất đai, lao động và tiền vốn được coi là tiêu chuẩn để so sánh tình trạng kinh tế của các quốc gia với nhau, thì gần đây điều đó không còn đúng nữa. Con người đang ngày càng nhận thức được tầm ảnh hưởng quan trọng của sở hữu trí tuệ đến động lực phát triển kinh tế của quốc gia nói riêng và thế giới nói chung. Nền kinh tế được xây dựng bằng gạch và vữa đang dần được thay thế bằng nền kinh tế của những ý tưởng. Trong nền kinh tế mới, sự thịnh vượng được tạo ra thông qua hoạt động sáng tạo và nắm những giá trị của tri thức. Hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên, khi mà hiện nay sở hữu trí tuệ đã và đang được coi là vấn đề quan trọng thiết yếu cần phải được xem xét trong việc thiết lập các mối quan hệ quốc tế song phương và đa phương giữa các quốc gia với nhau trên thế giới. Rõ ràng, việc ý thức được những giá trị tiềm ẩn của sở hữu trí tuệ đã và đang thôi thúc mạnh mẽ các quốc gia buộc phải xây dựng các chính sách hợp lý nhằm để bảo vệ các giá trị tri thức và kiềm chế việc đánh cắp tài sản sở hữu trí tuệ. Đặc biệt đối các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, thì bảo hộ sở hữu trí tuệ được coi là một biện pháp hệ trọng, cần thiết, một mặt nhằm để tận dụng triệt để tiềm năng sáng tạo của đất nước và mặt khác là để hòa nhập vào xu thế toàn cầu hóa nói chung. Trong thế kỷ 20, chúng ta đã chứng kiến hàng loạt các bước tiến công nghệ mang tính chất đột phá. Hoàn toàn có lý khi nói rằng chúng ta đang ở giữa cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba nhờ vào sự phát triển nhanh chóng và sự tương tác giữa sáu công nghệ then chốt là vi điện tử, máy tính, viễn thông, vật liệu mới, rô-bốt và công nghệ sinh học... Tại các quốc gia, những lý thuyết tăng trưởng kinh tế dựa trên nền tảng tư bản và các tài nguyên thiên nhiên đang dần dần trở nên lạc hậu và thay vào đó là sự thống nhất chung rằng công nghệ đóng một vai trò quan trọng quyết định trong tăng trưởng kinh tế ngày nay. Bởi vậy, trong các lĩnh vực 4 Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam của sở hữu trí tuệ bao gồm quyền tác giả và các quyền liên quan, nhãn hiệu hàng hoá, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp... chính sách bảo hộ sáng chế luôn luôn giành được sự quan tâm hàng đầu. Ý nghĩa căn bản nhất của hệ thống bảo hộ độc quyền sáng chế là nó tạo ra động lực kích thích phát triển kinh tế, công nghệ và thúc đẩy cạnh tranh thông qua việc tác động đến động lực tài chính của hoạt động sáng tạo. Hay nói một cách khác, thông qua lợi ích về tài chính dành cho nhà sáng chế, quy trình sáng tạo được đầu tư và lặp lại, kéo theo những thay đổi khác theo hướng tích cực trong quy trình phát triển kinh tế của quốc gia. Tuy nhiên, độc quyền sáng chế không được trao dựa trên cơ sở tích cực lao động hay chi phí sáng tạo lớn mà được cấp trên cơ sở những điều kiện hết sức nghiêm ngặt về tính mới, tính sáng tạo và khả năng áp dụng. Do vậy, việc xây dựng một hệ thống điều kiện bảo hộ sáng chế hợp lý trong pháp luật của quốc gia có thể coi là chiếc chìa khóa để khởi động quy trình sáng tạo và thông qua đó khởi động sự phát triển kinh tế. So với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới, lịch sử hình thành và xây dựng pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ độc quyền sáng chế nói riêng ở nước ta còn tương đối non trẻ. Khởi đầu từ Nghị định số 31/CP ngày 23 tháng 01 năm 1981 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Điều lệ về sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và sáng chế đến Luật Sở hữu trí tuệ năm 2006, các quy định pháp luật về bảo hộ sáng chế ở nước ta đã và đang từng bước được hoàn thiện. Cho đến nay, sau hơn hai mươi năm không ngừng bổ sung và phát triển, về cơ bản các quy định liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế trong pháp luật Việt Nam đã khá đầy đủ và toàn diện. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn không ít các quy định không hợp lý, có phần phức tạp đã và đang gây ra những khó khăn trong quá trình áp dụng và thực thi trên thực tế. Thời gian vừa qua, việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật về Sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế nói riêng ở nước ta đã và đang giành được sự quan tâm hết sức đáng kể từ phía các cấp, các ngành. Cùng với Chương trình hành động về sở hữu trí tuệ được phát động từ ngày 01 tháng 01 năm 2000 với mục tiêu tổng quát là làm cho hệ thống sở hữu trí tuệ của Việt Nam hoàn toàn phù hợp với Hiệp định TRIPS, đáp ứng các yêu cầu cơ bản của tiến trình hội nhập quốc tế, trực tiếp và chủ yếu là gia nhập tổ 5 Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam chức Thương mại thế giới (WTO) trong năm tới, chúng ta cũng đã có khá nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau liên quan đến quy định pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Một số nghiên cứu về các vấn đề chung của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ như vấn đề thực thi quyền sở hữu trí tuệ; lịch sử phát triển của pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ; tìm hiểu về hai lĩnh vực của sở hữu trí tuệ là quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp. Một số công trình nghiên cứu đi vào phân tích các khía cạnh riêng biệt của quyền sở hữu trí tuệ như vấn đề bảo hộ quyền tác giả và các quyền liên quan khi Việt Nam gia nhập Hiệp ước Bern, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp... Trong khi đó, còn rất ít các nghiên cứu tập trung khai thác về các khía cạnh lý luận và thực tiễn của cơ chế bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, nếu không muốn nói là gần như còn đang bị bỏ ngỏ. Theo các báo cáo hàng năm của Cục sở hữu trí tuệ, cơ quan nhà nước quản lý trực tiếp về việc đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế ở nước ta, số lượng các đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế nộp tại Việt Nam đang ngày càng có dấu hiệu tăng lên đáng kể. Nếu như năm 1990, chỉ có 79 đơn đăng ký bảo hộ sáng chế thì đến năm 1996, ngay sau khi Bộ luật Dân sự năm 1995 có hiệu lực, con số này đã lên đến 1008 đơn. Đến năm 2005, số lượng đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế nộp tại Việt Nam là 1947 đơn, và được dự đoán sẽ tiếp tục tăng mạnh vào năm 2006. Theo quy định của pháp luật, thời gian xét nghiệm nội dung cho một giải pháp kỹ thuật kể từ khi có yêu cầu xét nghiệm nội dung là 12 tháng. Trong khi đó, thực tế xét nghiệm nội dung sáng chế còn nhiều bất cập. Nhiều báo cáo tra cứu sáng chế và báo cáo xét nghiệm sáng chế còn phụ thuộc vào các kết luận của các cơ quan sáng chế nước ngoài. Quan điểm tiếp cận khả năng đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ sáng chế của giải pháp kỹ thuật còn nhiều điểm tranh cãi, chưa thống nhất... dẫn đến tình trạng việc xét nghiệm nội dung của nhiều giải pháp kỹ thuật đăng ký bảo hộ sáng chế bị kéo dài trong nhiều năm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của người nộp đơn. Nguyên nhân chính và chủ yếu dẫn đến tình trạng nói trên, một phần là do chúng ta chưa xây dựng được một nền tảng lý luận và thực tiễn vững chắc cho việc xây dựng các quy định pháp luật về điều kiện bảo hộ sáng chế, và mặt khác, chúng ta chưa có một quan điểm tiếp cận điều kiện bảo hộ sáng chế một cách thống nhất và có hiệu quả. 6 Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của điều kiện bảo hộ sáng chế, từ đó đề xuất phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện bảo hộ sáng chế và việc xét nghiệm sáng chế theo điều kiện tiểu chí bảo hộ sáng chế. Từ mục đích nghiên cứu như vậy, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu như sau: - Làm rõ bản chất pháp lý của điều kiện bảo hộ sáng chế, đánh giá vai trò của nó trong hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế cũng như ý nghĩa của nó đối với việc thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật ở nước ta. - Đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện bảo hộ sáng chế và quy trình xét nghiệm các giải pháp kỹ thuật theo các điều kiện bảo hộ sáng chế để chỉ ra các ưu điểm cũng như những bất cập và hạn chế của nó. - Dựa trên sự phân tích các cơ sở lý luận và thực tiễn đó, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm hướng tới việc hoàn thiện các quy định pháp luật về điều kiện bảo hộ sáng chế và xét nghiệm các giải pháp kỹ thuật theo điều kiện bảo hộ sáng chế. Kết cấu của Luận văn bao gồm ba chương, cụ thể như sau: Chương I, với tiêu đề Khái quát chung về bảo hộ sáng chế và điều kiện bảo hộ sáng chế, tác giả xin trình bày nội dung lý luận cơ bản về bảo hộ sáng chế và điều kiện bảo hộ sáng chế. Trong Chương này, trên cở sở nêu và phân tích một cách khái quát các vấn đề khoa học về sáng chế và bảo hộ sáng chế, tác giả làm rõ khái niệm, nội dung, bản chất pháp lý của điều kiện bảo hộ sáng chế cũng như vị trí và vai trò của nó trong các quy định về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế nói chung. Chương II có tiêu đề: Quy định của pháp luật Việt Nam về các điều kiện bảo hộ sáng chế. Trong nội dung Chương này, tác giả trình bày, phân tích và đánh giá các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về các điều kiện bảo hộ sáng 7 Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam chế cũng như các thủ tục xét nghiệm, đánh giá các giải pháp kỹ thuật đăng ký bảo hộ sáng chế dựa trên các quy định pháp luật về điều kiện bảo hộ sáng chế. Chương III có tiêu đề: Thực tiễn áp dụng và một số phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện bảo hộ sáng chế. Trong Chương này, tác giả đi sâu vào phân tích thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện bảo hộ sáng chế. Đồng thời, dựa trên cơ sở khoa học pháp lý và tham khảo các kinh nghiệm của các nước tiên tiến trong việc xây dựng điều kiện bảo hộ sáng chế cũng như thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam, tác giả trình bày một số đề xuất của mình nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện bảo hộ sáng chế. Do trình độ nhận thức còn nhiều hạn chế, kinh nghiệm của tác giả chủ yếu tập trung trong các lĩnh vực hoạt động thực tiễn, đồng thời, đây cũng là công trình nghiên cứu khoa học đầu tay, vậy nên, luận văn không thể tránh khỏi những sai sót nhất định. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và giúp đỡ từ phía các Quý thầy cô và bạn bè, đồng nghiệp. 8 Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HỘ SÁNG CHẾ VÀ ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ SÁNG CHẾ 1.1. TỔNG QUAN VỀ SÁNG CHẾ VÀ BẢO HỘ SÁNG CHẾ 1.1.1. Khái niệm sáng chế 1.1.1.1. Định nghĩa sáng chế Nhà bác học vĩ đại người Đức Anbert Einstein đã từng phát biểu: “Trí tưởng tượng cao hơn mọi tri thức”. Mặc dù hoàn toàn không hề coi nhẹ tri thức, nhưng qua câu nói này, nhà bác học Einstein đã chuyển tới một thông điệp về việc dựa trên chính những nền tảng hiện có của tri thức đã tích luỹ được, việc nhìn xa hơn ra ngoài giới hạn tiếp theo của của sự khám phá luôn là nguồn gốc của sự tiến bộ cá nhân, văn hoá và kinh tế. Từ những chữ viết xa xưa ở vùng Lưỡng Hà, bàn tính Trung Quốc, máy hơi nước ở Anh vào thế kỷ thứ XVIII, động cơ đốt trong, penexillin, công nghệ nano bán dẫn, dược phẩm DNA tái tổ hợp, và vô số những sáng chế, đổi mới khác, chính trí tưởng tượng của các nhà sáng tạo trên thế giới đã tạo ra khả năng cho loài người đạt đến trình độ tiến bộ ngày nay. Thực vậy, hoạt động sáng tạo và sáng chế là một trong những đặc tính cơ bản nhất tạo nên sự khác biệt giữa loài người với mọi loài vật khác trong quá trình tiến hóa. Chính khả năng vận dụng đặc tính sáng tạo trong hoạt động lao động sản xuất đã tạo nên những bước tiến quan trọng trong sự phát triển của xã hội loài người. Điều này đã được lịch sử chứng minh qua việc các cuộc cách mạng về công nghệ luôn luôn là một tiền đề khởi đầu cho các cuộc cách mạng khác của xã hội. Hoàn toàn không phải là một sự cường điệu khi có không ít người đã khẳng định rằng, chính những sáng chế của nhân loại từ xưa tới nay đã và đang định hình cuộc sống của chúng ta. Thực tế là hiện nay trình độ phát triển về khoa học kỹ thuật là một trong những thước đo quan trọng nhất để xác định trình độ phát triển về kinh tế xã hội của quốc gia nói chung. “Sáng chế” là một khái niệm nhằm dùng để chỉ những giải pháp kỹ thuật mới do con người sáng tạo ra nhằm đáp ứng những nhu cầu cần thiết trong hoạt động lao động sản xuất của con người. Giải pháp kỹ thuật được hiểu là một phương thức để giải quyết một vấn đề cụ thể trong lĩnh vực kỹ thuật. Nói một cách khác, giải pháp kỹ thuật hướng đến mục tiêu làm chủ thiên nhiên của con người. Một đối tượng sẽ được coi là giải pháp kỹ thuật nếu nó tạo điều kiện cho con người khai thác thế gới tự nhiên và thông qua đó thoả mãn những nhu cầu vật chất 9 Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam và tinh thần của mình. Quá trình này có thể được diễn ra bằng cách tận dụng các nguồn lực hoặc các quy luật của tự nhiên cũng như bằng cách tác động trực tiếp vào thiên nhiên. Cùng với những tiến bộ và sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật của thế giới, khái niệm sáng chế cũng đang được liên tục mở rộng. Sáng chế không đơn giản chỉ bao hàm các công cụ, máy móc hữu hình mà còn là cả các quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật của tự nhiên. Thậm chí, ở một số quốc gia, khái niệm sáng chế đã được mở rộng ra đến mức vượt ra khỏi quan điểm truyền thống về “bản chất kỹ thuật” của sáng chế vốn đã được biết đến rộng rãi ở các nước. Ví dụ, ở Hoa Kỳ, phương pháp kinh doanh được coi là sáng chế và được bảo hộ độc quyền. Theo kết quả tổng kết của Cơ quan sáng chế Hoa Kỳ (USPTO), số các giải pháp kinh doanh được cấp bằng sáng chế tại Hoa Kỳ năm 1996 là 700. Đến năm 2000, con số này đã lên tới 2600. Kể từ ngày 1 tháng 8 năm 2000, Hàn Quốc cũng đã chính thức thừa nhận phương pháp kinh doanh như là một đối tượng có khả năng được bảo hộ sáng chế.v.v.. 1.1.1.2 Hình thức của sáng chế Xét trên một khía cạnh nào đó, có thể nói rằng, cuộc sống của chúng ta, nền kinh tế của chúng ta đang được định hình bởi những sáng chế mà con người đã và đang tạo ra. Từ những vật dụng nhỏ nhất như những đồ dùng cá nhân hàng ngày cho đến những phương tiện sản xuất chủ yếu của xã hội, ít nhiều đều có liên quan đến hoạt động sáng chế. Theo kết quả thống kê của Bộ Thương mại Hoa Kỳ vào năm 1998 về mức độ tác tác động của bằng độc quyền sáng chế đối với nền kinh tế quốc dân đã cho thấy rằng, sáng chế xuất hiện phổ biến ở hầu khắp các lĩnh vực trọng yếu thuộc các ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia này. Trong ngành vật liệu tiên tiến, sáng chế liên quan đến vật liệu sinh học, chất siêu dẫn nhiệt độ cao, sứ tiên tiến, hợp kim, côm-pô-sit, phim mỏng kim cương, màng và polime lựa chọn. Trong ngành y tế, sáng chế liên quan đến dược phẩm, thuốc chữa bệnh và công nghệ sinh học. Trong ngành chế tạo ô tô, sáng chế liên quan đến động cơ, truyền động, phanh hãm, bánh điều khiển và lốp, thân và khung xe, tiện nghi và an toàn hành khách, kiểm soát ô nhiễm và công nghệ chế tạo ô tô. Thống kê nói trên phần nào đã cho chúng ta thấy được sự đa dạng và phong phú của các sáng chế trong thực tiễn cuộc sống. Đó có thể là những giải pháp tác động của con người vào thế giới vô sinh như các giải pháp trong lĩnh vực vật lý, hoá học hoặc các thiết kế máy móc, công cụ mới, việc chế tạo ra các vật 10 Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam liệu nhân tạo từ những chất sẵn có trong thiên nhiên. Đó cũng có thể là sự tác động của con người vào thế giới thực vật như khai thác các lực sinh học của thực vật; phương pháp vi sinh để chế tạo ra các sản phẩm, .v.v.. Dưới đây, tác giả xin được liệt kê năm hình thức sáng chế chủ yếu được phần lớn các quốc gia trên thế giới thừa nhận và bảo hộ: Cơ cấu: Tập hợp các chi tiết có chức năng giống nhau hoặc khác nhau, liên kết với nhau để thực hiện một chức năng nhất định, như dụng cụ, máy móc, thiết bị, chi tiết máy, cụm chi tiết máy hoặc các sản phẩm khác, .v.v.. Chất: Tập hợp các phần tử có quan hệ tương hỗ với nhau, được đặc trưng bởi sự hiện diện, tỷ lệ và trạng thái của các phần tử tạo thành và có chức năng nhất định. Chất có thể là hợp chất hoá học, hỗn hợp chất như vật liệu, chất liệu, dược phẩm, v.v.. Phương pháp: Quy trình thực hiện các công đoạn hoặc hàng loạt các công đoạn xảy ra cùng một lúc hoặc liên tiếp theo thời gian, trong điều kiện kỹ thuật xác định nhờ sử dụng phương tiện xác định như phương pháp hoặc quy trình sản xuất, xử lý, khai thác, đo đạc, thăm dò, v.v.. Vật liệu sinh học: Vật liệu có chứa các thông tin di truyền, có khả năng tự tái tạo hoặc được tái tạo trong hệ thống sinh học như tế bào, gen, cây chuyển gen, v.v.. Sử dụng cơ cấu, chất, phương pháp hoặc vật liệu sinh học đã biết theo chức năng mới như là sử dụng chúng với chức năng khác với chức năng đã biết, như sử dụng hợp phần ARN ở động vật có vú để xác định tung tích của người bị mất tích, v.v.. 1.1.1.3:Phân biệt sáng chế với một số đối tượng khác Trước hết, cần phải nhấn mạnh rằng, nội hàm của khái niệm “sáng chế” hoàn toàn không trùng lặp với khái niệm “phát minh”. “Phát minh” được dùng để chỉ những hiểu biết mới, có tính quy luật về tồn tại khách quan mà trước đó con người chưa có khả năng nhận thức được. Trong khi đó, “sáng chế’ lại hướng đến việc giải quyết một nhu cầu cụ thể trong cuộc sống thực tiễn theo một cách thức mang tính sáng tạo. Giải thích về sự khác nhau giữa “sáng chế” và “phát minh”, một chuyên gia sáng chế người Anh Buckley J. đã nêu rõ: “Phát minh là một nhận thức mới được bổ sung vào kho kiến thức đã có của loài người, nhưng thực sự đó 11 Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam đơn thuần chỉ là một sự khám phá. Sáng chế cũng là một nhận thức mới, nhưng nó không đơn thuần chỉ là một sự khám phá. Sáng chế hướng tới việc đề xuất giải pháp để tạo ra một sản phẩm mới, một kết quả mới, một quy trình mới hoặc là một sự kết hợp mới để tạo ra một sản phẩm cũ hoặc một kết quả cũ theo một phương thức mới” [23, trang 16]. Chính vì vậy, “phát minh” không được coi là một giải pháp kỹ thuật có khả năng được bảo hộ như là một sáng chế. Tuy nhiên, những kiến thức có được từ những “phát minh” chính là một trong những tiền đề cần thiết cho hoạt động “sáng chế”. Con người lợi dụng từ những kiến thức đã tích lũy được từ hoạt động lao động sản xuất cùng với những hiểu biết mới đã được khám phá tiến hành áp dụng vào thực tiễn nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể được đặt ra trong quá trình làm chủ tự nhiên. Chẳng hạn, Benjamin Franklin là nhà khoa học đầu tiên trên thế giới đã khám phá ra sự tồn tại của dòng điện trong các tia sét. Đây là một “phát minh”, hay là sự hiểu biết mới của con người về những hiện tượng đã tồn tại có sẵn trong tự nhiên mà trước đó chưa hề nhận thức được. Và cũng chính Benjamin Franklin từ phát minh nói trên đã sáng tạo ra cột thu lôi vào năm 1752, có tác dụng truyền dẫn dòng điện phóng ra từ các tia sét xuống lòng đất. Vào thời điểm này, cột thu lôi chính là một sáng chế, một giải pháp kỹ thuật có tác dụng ngăn chặn và hạn chế những thiệt hại về con người và tài sản do hiện tượng “sét đánh” gây nên. Khái niệm sáng chế cũng không hoàn toàn đồng nhất với khái niệm bí mật kinh doanh. Bí mật kinh doanh là những thông tin thu được từ các hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh. Bởi vậy, khái niệm bí mật kinh doanh có phạm vi bao quát rộng lớn hơn rất nhiều so với nội dung của khái niệm sáng chế. Đó có thể là thông tin về danh sách khách hàng, thông tin về cơ hội đầu tư, và cũng có thể là một giải pháp, một đề án kinh doanh trong tương lai… Xét trên một phương diện nào đó, sáng chế khi đang là một giải pháp kỹ thuật chưa được bộc lộ là một dạng cụ thể của bí mật kinh doanh, và được pháp luật bảo hộ một cách tự động. Ví dụ, công thức pha chế đồ uống có ga của hãng Coca Cola là một dạng giải pháp kỹ thuật, hay nói đúng hơn, là một sáng chế được bảo hộ dưới hình thức bí mật kinh doanh. So sánh với đối tượng là các tác phẩm văn học, nghệ thuật bao gồm các tác phẩm văn chương, tác phẩm múa, tác phẩm kiến trúc, tác phẩm hội hoạ… sáng chế thuộc về một lĩnh vực hoàn toàn khác biệt. Nếu như các tác phẩm văn học nghệ thuật thể hiện các giá trị tinh thần của đời sống con người, biểu hiện thông qua ngôn từ, động tác hình thể, đường nét, màu sắc thì sáng chế lại là những biện 12 Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam pháp mang tính chất kỹ thuật mà con người dùng để tác động vào thế giới tự nhiên nhằm thoả mãn các nhu cầu của mình. Nếu yếu tố chủ yếu tạo nên khả năng phân biệt giữa các tác phẩm nghệ thuật là sự biểu hiện ra bên ngoài của các ý tưởng thông qua sự liên kết của các ký tự, màu sắc và hình khối thì yếu tố này ở sáng chế lại là bản thân nội dung của các ý tưởng đó. 1.1.2. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế Con đường đi từ những khám phá, từ những hiểu biết thông thường đến hoạt động sáng chế thực sự không hề đơn giản, đòi hỏi sự đầu tư không nhỏ về mặt tài chính cũng như công sức lao động của con người. Trong khi đó, lợi ích mà xã hội có thể có được từ việc khai thác các giải pháp kỹ thuật là sáng chế thì vô cùng to lớn. Trước thực tế nói trên, pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế đã được thiết lập nhằm hướng tới việc thúc đẩy hoạt động sáng tạo, sáng chế trong xã hội, đồng thời nhằm để ngăn chặn những vi phạm tiềm tàng, xâm hại đến các quyền và lợi ích chính đáng của các nhà sáng chế. 1.1.2.1. Nội dung bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế Là một thành tố thuộc các quy định pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nằm trong hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, bảo hộ sáng chế được hiểu là một cơ chế cấp độc quyền có thời hạn cho chủ sở hữu sáng chế trên cơ sở đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo đó, chủ sở hữu sáng chế được độc quyền hưởng những lợi ích về mặt kinh tế và thương mại từ việc khai thác, sử dụng sáng chế trong một giới hạn nhất định về thời gian và không gian được bảo hộ. Giải pháp kỹ thuật được cấp bằng độc quyền sáng chế sẽ không thể bị người khác khai thác, sử dụng cho mục đích thương mại trong phạm vi quốc gia bảo hộ ngoài chủ sở hữu sáng chế đó. Chủ sở hữu sáng chế có quyền khởi kiện chống lại bất kỳ người nào có hành vi khai thác sáng chế được bảo hộ độc quyền trong phạm vi quốc gia đó mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu sáng chế. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng, khả năng “độc quyền” mà chủ sở hữu sáng chế được hưởng không phải là một sự “độc quyền” mang tính chất tuyệt đối. Nó bị giới hạn về mặt không gian lãnh thổ của quốc gia bảo hộ. Trong tất cả phần còn lại của thế giới, ở tất cả các quốc gia nơi sáng chế đó không được bảo hộ theo bằng độc quyền sáng chế thì sáng chế đó được sử dụng tự do. Bên cạnh đó, cơ chế bảo hộ độc quyền sáng chế chỉ duy trì hiệu lực của bằng độc quyền sáng chế trong một thời hạn xác định, thông thường là 20 năm. Hơn nữa, cơ chế bảo hộ độc quyền sáng chế không được tự động thực thi. Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ở 13 Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam quốc gia nơi sáng chế được bảo hộ thường chỉ áp dụng cơ chế bảo hộ khi được chủ sở hữu sáng chế yêu cầu. Trên một phương diện nào đó, có thể thấy rằng, bản chất của cơ chế bảo hộ độc quyền sáng chế không gì khác là một loại “hợp đồng xã hội”. Trong đó, mục đích cơ bản của “hợp đồng xã hội” này là “đổi lại việc bộc lộ những ý tưởng kỹ thuật có giá trị tiềm năng được mô tả trong bằng độc quyền sáng chế, chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế bằng việc thực hiện quyền cấm người khác khai thác ý tưởng được mô tả, có thể đảm bảo cho mình độc quyền khai thác ý tưởng của mình” [21, trang 2]. Quan hệ trao đổi này nhằm khuyến khích việc bộc lộ công nghệ có giá trị, nhờ đó, thúc đẩy tiến bộ công nghệ và hi vọng là các tiến bộ xã hội. 1.1.2.2. Ý nghĩa của việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế Thực tế đã chứng minh rằng, sự tồn tại của hệ thống bảo hộ độc quyền sáng chế, với khả năng nhận được độc quyền khai thác sáng chế trong một thời gian có hạn, đã tạo ra sự khích lệ quan trọng cho hoạt động sáng chế và cải tiến. Trong thời hạn mà chủ sáng chế được độc quyền sử dụng sáng chế đã tạo ra một môi trường thuận lợi cho việc phát triển và khai thác một cách có hiệu quả giải pháp kỹ thuật đã được cấp bằng độc quyền sáng chế. Bằng cách hạn chế một cách tối đa sự cạnh tranh không được kiểm soát từ những người không chịu rủi ro tài chính ban đầu, hệ thống độc quyền sáng chế mang lại cho chủ sở hữu sáng chế cơ hội để có thu nhập nhằm bù đắp những chi phí phải gánh chịu trong quá trình phát triển sáng chế như vốn, thời gian, trang thiết bị, lao động. Đồng thời, độc quyền khai thác sáng chế cũng tạo cho chủ sở hữu sáng chế khả năng thu được lợi nhuận từ việc bán sản phẩm mang sáng chế và từ việc lixăng, chuyển nhượng bằng độc quyền sáng chế cho người khác. Phần thưởng cho chủ sở hữu sáng chế là lợi ích về tài chính và nhà sáng chế được thúc đẩy để lặp lại quy trình sáng tạo và sáng chế, đầu tư một phần thu nhập của mình cho hoạt động nghiên cứu và phát triển để tạo ra sáng chế mới. Đứng về mặt lợi ích chung của xã hội, ngay cả khi cơ chế bảo hộ độc quyền sáng chế tạo ra khả năng thúc đẩy sự chia sẻ và phân phối những lợi ích có được từ sáng chế thông qua hoạt động cấp li-xăng cho người khác sử dụng trên các phạm vi khu vực địa lí khác nhau của thế giới. Quan trọng hơn, hệ thống bảo hộ độc quyền sáng chế tạo ra một hệ thống lưu trữ thông tin công nghệ dồi dào nhất 14 Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam tồn tại trên thế giới hiện đại. Theo quy định, để được cấp bằng độc quyền sáng chế, tác giả sáng chế phải tiết lộ thông tin sáng chế cụ thể đến mức người có trình độ trung bình trong lĩnh vực kỹ thuật tương ứng có thể hiểu và thực hiện được giải pháp kỹ thuật được đề cập đến trong sáng chế và phải được công bố công khai. Các thông tin này có thể được phục vụ rất hữu hiệu không chỉ cho hoạt động nghiên cứu và thực nghiệm khoa học mà còn cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong suốt thời gian sáng chế được bảo hộ. Dựa vào nguồn thông tin sáng chế, có thể xác định được xu hướng phát triển của công nghệ, biết được sự thai nghén hoặc suy tàn của một kỹ thuật nhất định, có thể cho phép xác định được đối thủ cạnh tranh có tiềm lực hay không?...Theo số liệu thống kê của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), hiện nay, trên thế giới đã có trên 50 triệu sáng chế được công bố. Đây là nguồn thông tin đầy đủ, kịp thời về toàn bộ các lĩnh vực kỹ thuật của thế giới (80% thông tin kỹ thuật của thế giới chứa đựng trong nguồn thông tin này, rất nhiều thông tin trong số đó không thể tìm thấy được ở các nguồn thông tin khác). Bằng cách đó, hệ thống bảo hộ độc quyền sáng chế đã đóng góp rất to lớn vào quá trình phát triển nền khoa học kỹ thuật của quốc gia. 1.1.3. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế Như đã phân tích ở trên, sự tồn tại của cơ chế bảo hộ độc quyền sáng chế đem lại những lợi ích thực sự to lớn về mặt kinh tế, xã hội của quốc gia, tạo ra những động lực hiệu quả cho các nhà sáng chế bộc lộ những ý tưởng của mình và khuyến khích các nhà đầu tư tham gia vào việc thương mại hoá các ý tưởng đó. Thực tế là ý tưởng đó đã được hình thành và tồn tại trong một thời gian dài ngày từ thế kỷ XV. 1.1.3.1. Sự hình thành và phát triển pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế trên thế giới Italia được coi là nơi xuất xứ đầu tiên của cơ chế bảo hộ độc quyền sáng chế. Vào năm 1474, đạo luật Venice đã được ban hành, theo đó chính quyền thành phố Venice sẽ tiến hành cấp bằng cho các thiết bị mới và mang tính chất sáng tạo. Đạo luật này ghi nhận: “Trong xã hội chúng ta có những nhà thông thái có khả năng sáng tạo và khám phá ra những cỗ máy thông minh; và tương lai thành phố chúng ta sẽ còn xuất hiện nhiều nhà thông thái như vậy. Nếu có một đạo luật nhằm ngăn chặn những kẻ khác đánh cắp các sản phẩm mới đó từ các nhà thông thái, sẽ còn có càng nhiều nhà thông thái phát hiện ra những cỗ máy mới cho lợi 15 Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam ích cho xã hội chúng ta. Bởi vậy, đạo luật này được ban hành, theo đó, bất kỳ người nào sáng tạo ra những cỗ máy mới trong thành phố, chưa từng được biết đến trong xã hội chúng ta, khi hoàn thiện xong và có thể đem ra sử dụng trên thực tế thì có thể trình diện lên Hội đồng thành phố. Trong thời hạn 10 năm, không một người bất kỳ nào khác trong thành phố và các vùng lân cận được quyền chế tạo ra loại cỗ máy giống hoặc tương tự, nếu không được sự cho phép của nhà sáng chế”. Như vậy, ngay từ đạo luật đầu tiên về bảo hộ sáng chế trên thế giới, các điều kiện bảo hộ sáng chế đã được thiết lập dựa trên hai tiêu chuẩn chính: Tiêu chuẩn về tính mới và tiêu chuẩn về khả năng áp dụng của giải pháp kỹ thuật. Cho đến nay, mặc dù đã trải qua hàng thế kỷ phát triển, hệ thống các điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật hiện đại của hầu hết các quốc gia trên thế giới vẫn còn giữ nguyên những tinh thần pháp lý cơ bản đã được đặt ra trong đạo luật Venice 1474. Hai thế kỷ sau đó, mô hình này sau đó đã bắt đầu lan rộng ra các quốc gia khác như Anh, Áo, Pháp. Trong đó, nổi bật nhất và phát triển nhất là cơ chế bảo hộ độc quyền sáng chế của Vương quốc Anh. Thực ra, trước đó, ở Anh đã xuất hiện những hình thái đầu tiên của việc bảo hộ độc quyền sáng chế như việc cấp giấy độc quyền. Ban đầu, giấy độc quyền được cấp dưới thời của vua Henry VI vào năm 1449 cho ngài John xứ Utynam do công đã chế tạo ra loại kính có bề mặt nhẵn với giá trị hiệu lực là 20 năm. Sau đó, mô hình này đã bị lạm dụng phục vụ riêng cho quyền lợi của Hoàng gia Anh, và giấy độc quyền không nhất thiết phải áp dụng để khai thác một quy trình mới hay một sản phẩm mới. Trên thực tế, nhiều giấy độc quyền đã được cấp cho những hàng hoá thông thường như muối, dấm hay sắt. Phải tới những năm của thế kỷ XVII, khi nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền lợi của các nhà sáng chế và nhằm thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật, dưới thời Nữ hoàng Elizabeth I, Francis Bacon đã kiến nghị với Nữ hoàng chỉ cấp giấy độc quyền cho những sáng chế có tính hữu ích đối với quyền lợi của quốc gia. Năm 1624, với nỗ lực nhằm hạn chế sự lạm dụng quyền lực của Hoàng gia, Nghị viện Anh đã thông qua một đạo luật quan trọng về bảo hộ độc quyền sáng chế. Theo đó, Hoàng gia Anh sẽ chỉ tiến hành cấp giấy độc quyền cho những sáng chế mới với điều kiện các sáng chế đó sẽ không làm phương hại đến hoạt động thương mại của quốc gia. Thời hạn hiệu lực của giấy độc quyền sau đó được giới hạn trong vòng 14 năm. Đến thời đại của nữ hoàng Anne, quy định về việc cấp giấy độc quyền lại được thay đổi một lần nữa, theo đó để được cấp giấy độc quyền, nhà sáng chế cần phải mô tả sáng chế bằng văn bản. Điều 6 của đạo luật này lần đầu tiên đã quy định như thế nào thì được coi 16 Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam là sáng chế mới. Các quy định này vào thời bấy giờ đã được coi như là một khuôn mẫu để tiến hành xây dựng cơ chế bảo hộ độc quyền sáng chế ở Hoa Kỳ và các quốc gia châu Âu khác. Tuy nhiên, phải đến những năm của thế kỷ 18, khi nhân loại đã đạt được những bước tiến đáng kể trong việc phát triển khoa học công nghệ, các quy định pháp luật về bảo hộ độc quyền sáng chế mới bước đầu được hình thành một cách khá hệ thống. Điều 1, Luật sáng chế của Pháp năm 1791 ghi nhận: “Tất cả các khám phá mới đều thuộc về quyền sở hữu của tác giả; để đảm bảo quyền lợi cho tác giả trong khai thác các phát kiến của mình, Nhà nước sẽ cấp cho tác giả bằng độc quyền có thời hạn hiệu lực trong 5 năm, 10 năm hoặc 15 năm”. Tương tự, Khoản 8, Điều 1, Hiến pháp Hoa Kỳ ghi nhận: “Nghị viện Hoa Kỳ có toàn quyền... để phát triển khoa học kỹ thuật, có thể cấp độc quyền cho tác giả, nhà sáng chế cho các công trình và phát kiến của họ”... Và đúng như Abraham Lincoln đã phát biểu: “Bằng độc quyền sáng chế đã đổ thêm dầu vào ngọn lửa tài năng”, hàng loạt đơn yêu cầu bảo hộ độc quyền sáng chế đã được cấp bằng. Chỉ tính riêng ở Hoa Kỳ, số lượng sáng chế năm 1840 là 765. Đến năm 1867, con số này đã lên đến 21.276. Cũng vào thời gian này, các quy định pháp luật về điều kiện bảo hộ độc quyền sáng chế cũng bắt đầu được hình thành và phát triển. Đầu thế kỷ thứ 19, bằng độc quyền sáng chế chỉ được cấp cho những giải pháp kỹ thuật chưa từng được bộc lộ tính cho đến thời điểm yêu cầu cấp bằng sáng chế. Tính mới sẽ được xét nghiệm dựa trên tình trạng kỹ thuật chung trên toàn thế giới. Đến giữa thế kỷ thứ 19, theo đạo luật sáng chế năm 1849 của Hoa Kỳ, bằng độc quyền sáng chế sẽ chỉ được cấp cho những giải pháp kỹ thuật đạt được các điều kiện về tính mới, tính hữu ích và tính không hiển nhiên. Việc lần đầu tiên đặt ra tiêu chuẩn về tính không hiển nhiên (còn gọi là yêu cầu về trình độ sáng tạo) đối với giải pháp yêu cầu bảo hộ đã đánh dấu một bước ngoặt trong việc phát triển hoàn thiện hệ thống các điều kiện bảo hộ sáng chế trên thế giới. Đến những năm 1900 của thế kỷ 20, với sự ra đời của định luật Menden về sự di truyền, các giải pháp kỹ thuật được bảo hộ sáng chế cũng bắt đầu được mở rộng, và vượt ra khỏi khái niệm sáng chế truyền thống có từ thời kỳ Đạo luật Venice 1474- các giải pháp kỹ thuật được bảo hộ chỉ có thể là máy móc. Với việc bùng nổ các sáng tạo liên quan đến giống cây trồng mới, một loạt các nước như Anh, Pháp, Đức, Bỉ, Italia, Hoa Kỳ… đã bắt đầu chấp nhận bảo hộ sáng chế đối với các giải pháp kỹ thuật có liên quan đến công nghệ sinh học như giống cây 17 Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam trồng, giống động vật mới, gen… Sau Chiến tranh thế giới thứ II, đối tượng bảo hộ sáng chế tiếp tục được mở rộng đến chương trình máy tính, và gần đây là phương pháp kinh doanh. Dự kiến, trong một vài năm tới, cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ trên thế giới, quy định pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế nói chung, và về điều kiện bảo hộ sáng chế nói riêng sẽ còn nhiều thay đổi theo hướng ngày càng mở rộng hơn nữa đối tượng được bảo hộ sáng chế. 1.1.3.2. Sự hình thành và phát triển quy định pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế tại Việt Nam Có thể nói, các quy định pháp luật về bảo hộ độc quyền sáng chế của thế giới đã có một quá trình hình thành và phát triển hết sức lâu dài. Tuy nhiên, ở Việt Nam với đặc điểm của một đất nước phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh từ thời kỳ lập quốc, lại chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng giáo lý Đạo Nho - Sỹ, Nông, Công, Thương- vốn không coi trọng phát triển về thủ công nghiệp và thương nghiệp, mãi đến những năm cuối thế kỷ XX, các quy định pháp luật về bảo hộ độc quyền sáng chế mới bắt đầu được hình thành. Khởi đầu từ những năm 60 của thế kỷ XX, công tác tổ chức động viên, khuyến khích hoạt động sáng tạo khoa học kỹ thuật được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú ý. Phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất đã được phát động, duy trì và phát triển rộng khắp trên tất cả các ngành, địa phương trên cả nước. Phong trào này đã có những đóng góp rất tích cực cho công cuộc xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa và giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tuy nhiên, phải mãi cho đến những năm 1981, với việc ban hành Nghị định 31/CP quy định về Điều lệ sáng kiến, cải tiến kỹ thuật và sáng chế, lần đầu tiên cơ chế bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế nói chung và điều kiện bảo hộ sáng chế nói riêng mới được thiết lập và triển khai áp dụng ở nước ta. Theo văn bản này, mọi nỗ lực sáng tạo kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất mang lại các lợi ích thiết thực cho Nhà nước, xã hội và cơ quan, đơn vị, đều được đền đáp về tinh thần và vật chất. Trong văn bản này, lần đầu tiên Nhà nước tuyên bố công nhận và bảo hộ quyền về tinh thần và vất chất của các tác giả sáng kiến, sáng chế. Theo đó, giải pháp kỹ thuật nếu đạt được các yêu cầu về tính mới, trình độ sáng tạo và có khả năng áp dụng trong nền kinh tế quốc dân, y tế, văn hóa và mang lại lợi ích kinh tế-xã hội sẽ được Nhà nước bảo hộ độc quyền sáng chế. Vào lúc này, với mục tiêu tận dụng mọi nguồn lực sáng tạo trong nước, nhằm phục vụ 18 Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam tối đa cho công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước sau khi thống nhất, tiêu chuẩn về khả năng áp dụng và tính hữu ích của sáng chế đặc biệt được coi trọng. Điều 10, Điều lệ về Sáng kiến cải tiến kỹ thuật-Hợp lý hoá sảng xuất và sáng chế quy định rất rõ: “Sáng chế được bảo hộ theo điều lệ này là một giải pháp kỹ thuật mới, có trình độ sáng tạo, có khả năng áp dụng trong nền kinh tế quốc dân, y tế, văn hoá, giáo dục hay quốc phòng và mang lại lợi ích kinh tế - xã hội”. Phạm vi đối tượng được bảo hộ sáng chế tương đối hẹp, bao gồm cơ cấu, phương pháp hay chất mới, cũng như việc sử dụng cơ cấu, phương pháp hay chất đã biết theo một chức năng mới. Đặc biệt, giống cây trồng mới, giống gia súc mới và phương pháp mới về phòng bệnh, chẩn đoán bệnh và chữa bệnh cho người, súc vật và cây trồng cũng được bảo hộ như sáng chế. Nhìn chung, các quy định về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế cũng như điều kiện bảo hộ sáng chế ở nước ta trong thời gian này còn nhiều hạn chế, giá trị pháp lý không cao. Đến ngày 21 tháng 1 năm 1989, với sự ra đời của Pháp lệnh về Bảo hộ sở hữu công nghiệp, các quy định về bảo hộ sáng chế nói chung và điều kiện bảo hộ sáng chế nói riêng được hệ thống hoá ở một mức độ cao hơn và đầy đủ hơn. Vào thời gian này, tính hữu ích của giải pháp kỹ thuật cũng đặc biệt được coi trọng. Tiêu chuẩn về khả năng áp dụng công nghiệp của sáng chế được giới hạn rất hẹp là khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế và xã hội. Trong thời gian này, với mục đích nhằm tận dụng triệt để mọi nguồn lực sáng tạo trong nước và thu hút chuyển giao công nghệ từ nước ngoài, các giải pháp kỹ thuật đáp ứng được tiêu chuẩn tính mới so với trình độ kỹ thuật trong nước cũng có thể được bảo hộ như là giải pháp hữu ích. Phạm vi đối tượng được bảo hộ sáng chế so với các quy định tại Nghị định 31/CP ngày 23 tháng 1 năm 1981 vẫn được giữ nguyên. Đầu năm 1995, Việt Nam nộp đơn xin gia nhập Tổ chức thương mại thế giới-WTO, hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ vận hành dựa trên cơ sở các văn bản dưới luật của nước ta nói chung, và cơ chế bảo hộ sáng chế nói riêng, còn rất nhiều điểm chưa phù hợp với các yêu cầu được đặt ra trong Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ-TRIPS. Đứng trước đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam nhằm tương thích với các quy định của Hiệp định TRIPS, một chương trình hành động về sở hữu trí tuệ của Việt Nam đã được thiết lập vào cuối năm 1993, đầu năm 1994. Theo đó, các quy định pháp luật liên quan đến bảo hộ sáng chế đã được nâng cấp, 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan