Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ điểm nhìn nghệ thuật trong tiểu thuyết 'âm thanh và cuồng nộ của w. faulkner (từ...

Tài liệu điểm nhìn nghệ thuật trong tiểu thuyết 'âm thanh và cuồng nộ của w. faulkner (từ góc độ điểm nhìn nhân vật và điểm nhìn người trần thuật)

.PDF
101
67
143

Mô tả:

Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu Hà - K32D Văn MỤC LỤC MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 5 1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................... 5 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................... 8 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................... 11 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 12 5. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 12 6. Bố cục của khoá luận ............................................................................. 12 NỘI DUNG ................................................................................................. 13 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ ĐIỂM NHÌN NGHỆ THUẬT VÀ NHỮNG CÁCH TÂN VỀ ĐIỂM NHÌN TRONG TIỂU THUYẾT PHƯƠNG TÂY HIỆN ĐẠI ................................................................................................... 13 1.1. Về khái niệm "điểm nhìn" trong nghiên cứu lí luận văn học ............... 13 1.1.1. Thuật ngữ "điểm nhìn" .................................................................... 13 1.1.2. Phân loại "điểm nhìn nghệ thuật"..................................................... 14 1.2. Một số cách tân về điểm nhìn nghệ thuật trong tiểu thuyết phương Tây hiện đại ........................................................................................................ 16 1.2.1. Nhu cầu đổi mới kĩ thuật trần thuật .................................................. 16 1.2.2. Một số biểu hiện cách tân về điểm nhìn nghệ thuật trong tiểu thuyết phương Tây hiện đại .................................................................................... 19 CHƯƠNG 2: ĐIỂM NHÌN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT "ÂM THANH VÀ CUỒNG NỘ" (TỪ GÓC ĐỘ ĐIỂM NHÌN NHÂN VẬT VÀ ĐIỂM NHÌN NGƯỜI TRẦN THUẬT) ....................................................... 27 2.1. Điểm nhìn nhân vật ............................................................................ 30 2.1.1. Điểm nhìn của Benjamin Compson ................................................. 30 2.1.2. Điểm nhìn của Quentin Compson ................................................... 44 2.1.3. Điểm nhìn của Jason Compson ....................................................... 59 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu Hà - K32D Văn 2.2. Điểm nhìn người trần thuật ................................................................ 71 2.3. Tính phức hợp của điểm nhìn trong "Âm thanh và cuồng nộ" ............ 85 KẾT LUẬN ................................................................................................. 97 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 100 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu Hà - K32D Văn MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Văn học Mĩ dù vẫn được xem xét một phần nào trong mối quan hệ, ảnh hưởng với văn học Anh nhưng bước sang thế kỉ XX, nó đã khẳng định được tư thế độc lập của mình. Thực ra ý thức về việc phải xây dựng một nền văn học tự chủ, đứng vững trên đôi chân của chính mình đã được đề cập tới ngay trong bài diễn văn của Emơxơn đọc ở trường Đại học Hacuôt: “Những ngày lệ thuộc tập sự học hỏi các nước khác từ lâu nay đã kết thúc. Hàng trăm triệu con người quanh ta đang lao vào cuộc đời, không thể nào cứ mãi mãi sống nhờ vào những cặn bã thâu lượm từ ngày xưa của nước ngoài”. Những lời lẽ ấy vẫn được coi như tuyên ngôn độc lập của tinh thần Mĩ. Ngay từ thế kỉ XIX người ta đã chứng kiến sự nở rộ của những tài năng lớn: William Howells, Walter Whitman, Mark Twain,… Nối tiếp truyền thống đó, chỉ xét riêng ở lĩnh vực tiểu thuyết nửa đầu thế kỉ XX đã có những tác giả mà ảnh hưởng của họ vượt ra ngoài nước Mĩ: William Faulkner, Ernest Hemingway… Ở châu Âu, theo sự tổng kết của M. Sênơchiê: “Đã hằn sâu trong kí ức và trái tim bạn đọc Pháp bao hình ảnh của những tượng đài kỉ niệm trong hư cấu nghệ thuật đó chính là Hemingway, Faulkner” [31] W. Faulkner là một trong những bậc thầy của tiểu thuyết Mĩ. Riêng ở Pháp, người ta xếp ông vào ba nhà văn có ảnh hưởng lớn nhất tới văn học Pháp sau đại chiến thế giới lần thứ hai bên cạnh Franz Kafka và J. Joyce. C.E. Mahhy coi ông như là hiện thân của “thời đại tiểu thuyết Mĩ”. Năm 1950, Faulkner nhận giải thưởng Nobel văn học và được coi như người “đã phát hiện rất sớm cái phi lí và mặt trái của sự tham gia vào tội lỗi bí ẩn, vô nguyên cớ, phi tâm lí của cộng đồng. Cái cộng đồng ấy nhiều khi không còn là một nhóm người, một mảnh đất, một vùng "điện thờ" man rợ trong tất cả sự văn 5 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu Hà - K32D Văn minh của nó, mà đã đạt tới mức biểu tượng" [9, tr. 701]. Tác phẩm của ông mang sắc thái "trừu tượng hoá ít nhiều về mặt hình thức một xu hướng nhằm khai thác mặt trái của lương tri, một ý định có lúc rời bỏ những vấn đề đạo lí hoặc không tính đến hiện tượng con người trong xã hội, có lúc chỉ xem xét những vấn đề ấy một cách gián tiếp hoặc trừu tượng" [30, tr. 49]. Những tác phẩm nổi tiếng nhất của Faulkner đều lấy khung cảnh từ một vùng mang cái tên hư cấu là Yoknapatopha – bóng dáng thu nhỏ của một không gian có thật thuộc miền Nam nước Mĩ quê hương ông. Từ những câu chuyện cá nhân bao giờ sáng tác của Faulkner cũng vươn tới khái quát thậm chí tiên tri về hiện thực xã hội, về thân phận con người. “Âm thanh và cuồng nộ” có thể coi như tác phẩm tiêu biểu nhất cho tư tưởng thẩm mĩ của Faulkner. Cuốn tiểu thuyết đã mang đến cho ông danh tiếng lẫy lừng nhưng cũng đồng thời là một thách đố đầy quyến rũ cho bất cứ độc giả nào muốn thâm nhập vào thế giới âm u, náo động, đầy âm thanh, cuồng nộ và cũng thấm đẫm tình người của Faulkner. Chính nhà văn đã từng tâm sự rằng: “Truyện không có tựa đề cho tới một ngày, từ sâu thẳm tiềm thức của tôi chợt phát hiện những chữ mà mọi người đều biết: "the sound and the fury". Tôi chấp nhận những chữ đó ngay mà không cần phải suy nghĩ và như thể cùng lúc, những câu tôi trích dẫn từ Shakespeare cũng được ứng dụng một cách tốt đẹp nếu không muốn nói là hoàn mĩ vào câu chuyện đen tối, đầy điên dại và cũng đầy hận thù của tôi”. Có thể nói “Âm thanh và cuồng nộ” gần như là sự phá vỡ triệt để dạng thức của tiểu thuyết truyền thống khi nó đảo lộn, đan xen các dòng thời gian, các sự kiện và tâm trạng. Tác phẩm là một chuỗi những hồi tưởng chập chờn, rộng trải với quá khứ, hiện tại, tương lai quấn quện đầy những cạm bẫy khó có thể tránh nổi. Đã vậy Faulkner còn đặt trùng tên cho những nhân vật khác nhau trong truyện của ông: có hai Quentin (Quentin bác và Quentin cháu), hai 6 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu Hà - K32D Văn Jason (Jason cha và Jason con), hai Maury (Maury Bascomb và Maury Compson mà sau này đổi thành Benjamin hay Benjy). Dường như W. Faulkner muốn rằng chính tổ chức tác phẩm cũng là một thứ “âm thanh và cuồng nộ”. Cuốn tiểu thuyết rất tiêu biểu cho văn chương dòng ý thức với những cách tân táo bạo về kĩ thuật trần thuật trong đó có điểm nhìn nghệ thuật. 1.2. Tiểu thuyết là hình thức đặc biệt của truyện kể. Nhìn đại thể bao giờ tiểu thuyết cũng là một câu chuyện do một người nào đó đứng ra kể lại. Nói đến người kể chuyện là nói tới điểm nhìn được xác định trong “hệ đa phương” với thời gian, không gian, tâm lí… Người kể chuyện là ai, được đặt ở ngôi thứ nhất lộ diện hay ngôi thứ ba ẩn hình? Câu chuyện được kể lại là chuyện mình hay chuyện người, khoảng cách không gian từ nơi sự việc xảy ra tới chỗ đứng của người kể chuyện cũng như độ lệch về mặt thời gian giữa lúc sự việc xảy ra tới khi sự việc được kể lại… Tất cả những vấn đề đó đều được các nhà tiểu thuyết quan tâm từ lâu. Bước sang thế kỉ XX nhất là sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, vấn đề đổi mới nghệ thuật trần thuật được đặt ra một cách bức thiết bởi lẽ những cách kể chuyện truyền thống trước đây với người kể chuyện thấu suốt mọi diễn biến của câu chuyện đã trở nên nhàm tẻ đối với độc giả và phần nào kìm hãm những ý tưởng mới mẻ, độc đáo của người sáng tạo. Xét cho cùng “giá trị của sáng tạo nghệ thuật một phần không nhỏ là do nó đem lại cho người thưởng thức một cách nhìn mới đối với đời sống. Sự đổi thay nghệ thuật bắt đầu từ sự đổi thay điểm nhìn” [13, tr.113]. Hiểu được điều này, các nhà văn đặc biệt chú trọng tới việc đưa ra những thể nghiệm, khám phá sáng tạo mới mẻ liên quan đến người kể chuyện và các điểm nhìn làm đảo lộn cách viết truyền thống. Nằm trong trào lưu của tiểu thuyết hiện đại phương Tây thế kỉ XX, W. Faulkner – nhà văn Mĩ kiệt xuất đã có những tìm tòi, phát hiện độc 7 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu Hà - K32D Văn đáo trong kĩ thuật viết nhất là ở phương diện điểm nhìn để góp phần cách tân và mang lại luồng không khí mới cho tiểu thuyết. Khẳng định vai trò quan trọng của điểm nhìn nghệ thuật trong tiểu thuyết, tác giả khoá luận đi sâu tìm hiểu vấn đề này trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của đại văn hào Mĩ W. Faulkner: “Âm thanh và cuồng nộ”. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề William Faulkner là nhà văn có đóng góp lớn không những đối với văn học Hoa Kì mà còn với cả nền văn học thế giới hiện đại. Ngày nay, ở khắp nơi trên thế giới, tên tuổi ông được nhắc đến với niềm kính trọng sâu xa. Ông là một nhà cách tân táo bạo và là một tiểu thuyết gia lỗi lạc bậc nhất. Trong lĩnh vực tiểu thuyết, ông có thể sánh ngang với những tượng đài bất diệt như: F. Đôtxtôiepxki và trong lĩnh vực khám phá, sáng tạo, cách tân thể loại, ông cùng hàng ngũ với những người tiên phong như: Franz Kafka, James Joyce, M. Proust,... Cùng với "Âm thanh và cuồng nộ", các tác phẩm khác của Faulkner như: Thánh đường; Nắng tháng Tám; Absalom, Absalom!;... đã để lại cho kho tàng văn học nhân loại những di sản vô giá. Đóng góp của Faulkner đối với nền văn học không phải chỉ là ở những sáng tạo về kĩ thuật hay bút pháp mà quan trọng nhất là ở những thông điệp nhân bản của ông gửi đến các thế hệ sau. Cuốn tiểu thuyết thứ tư với cái tên đầy ấn tượng: "Âm thanh và cuồng nộ" đã đem đến cho Faulkner danh tiếng lẫy lừng. Nó xứng đáng được coi là một kiệt tác, góp phần không nhỏ trong việc đưa Faulkner trở thành một nhà văn quan trọng nhất của thế kỉ XX. Tác phẩm này mặc dù đặt ra cho độc giả không ít khó khăn khi lĩnh hội nhưng giá trị tự thân và ảnh hưởng lớn lao của nó đối với văn học hiện đại đã được khẳng định ngày càng mạnh mẽ. Cho đến nay, ý nghĩa tư tưởng cũng như những cách tân táo bạo về mặt nghệ thuật của 8 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu Hà - K32D Văn cuốn tiểu thuyết vẫn là thách đố đầu quyến rũ và trở thành đề tài cho nhiều công trình nghiên cứu khoa học. Có thể kể ra một số ý kiến đánh giá, những nghiên cứu ở nhiều công trình với các cấp độ khác nhau như sau: Các tác giả Mĩ trong "Dẫn luận phê bình văn học" đặc biệt nhấn mạnh tính chất hiện đại của dòng tâm tư ở những sáng tác của Faulkner và các nhà văn xuất sắc khác: "Một biến thái hiện đại của điểm nhìn ở ngôi thứ nhất đó là một phương tiện được gọi là dòng tâm tư (...) Phương tiện này sử dụng bởi James Joyce trong "Ulysses", bởi Virginia Wolf, và đôi khi bởi Faulkner, thường không giống nhau và không nên đồng nhất nó với lời giải thích thêm của người kể chuyện về suy nghĩ của nhân vật" [42, tr. 26]. R. Sezơ trong bài viết "Tiểu thuyết Mĩ và truyền thống" đã đánh giá: "Tác phẩm của W. Faulkner mang sắc thái trừu tượng hoá ít nhiều về mặt hình thức (...) một xu hướng nhằm khai thác mặt trái của lương tri, một ý định có lúc rời bỏ những vấn đề đạo lí hoặc có hoặc không tính đến hiện tượng con người trong xã hội, có lúc chỉ xem xét những vấn đề ấy một cách gián tiếp hoặc trừu tượng" [30, tr. 49]. Đánh giá về những đóng góp của Faulkner đối với cách tân thể loại tiểu thuyết, nhà văn Pháp A.R. Grillet viết: "Tuy rằng sự tan rã của cốt truyện mới hiện rõ được mấy năm nhưng từ lâu cốt truyện đã không còn là nền tảng của tiểu thuyết nữa; chỉ cần nhìn vào các tiểu thuyết lớn ở Pháp, Mĩ từ đầu thế kỉ là đủ rõ; những yêu cầu của cốt truyện đối với Proust không nghiêm ngặt như đối với Flaubert thế kỉ trước; đến Faulkner lại không nghiêm ngặt bằng Proust; đến Beckett lại không nghiêm ngặt như đối với Faulkner" [47, tr. 182 - 183]. John Updike vẫn xác nhận vai trò của W. Faulkner hơn là các nhà văn đương đại: "Thế hệ đương đại Mĩ cho tôi một ấn tượng về đầu óc hẹp hòi, thiếu vắng âm hưởng (...) Về văn chương chúng tôi đã chạm tới độ tan vỡ ảo 9 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu Hà - K32D Văn mộng trong nền văn hóa từng khiến nảy sinh tiểu thuyết Mới tại Pháp vào những năm 50" [46, tr. 33]. Bàn về sự cách tân điểm nhìn nghệ thuật trong tiểu thuyết phương Tây thế kỉ XX, Phùng Văn Tửu viết: "Về đại thể, người ta tìm cách vượt ra khỏi lối viết truyền thống xây dựng thế giới tác phẩm từ một điểm nhìn duy nhất. Điểm nhìn được phân tán ra thành hai, ba hoặc nhiều điểm nhìn khác nhau gắn với những người kể, các địa điểm và thời điểm phân biệt... Hiện tượng kể trên ta bắt gặp rải rác khắp nơi nếu không phải là phổ biến. Nhà văn James Joyce người Ailen được thế giới phương Tây tôn là bậc thầy của văn xuôi thế kỉ XX bên cạnh các bậc thầy khác là nhà văn Tiệp Khắc F. Kafka, nhà văn Mĩ W. Faulkner, nhà văn Pháp M. Proust." [39, tr. 212]. Trong bài: "Âm thanh và cuồng nộ" và sự cách tân tiểu thuyết Gothic của W. Faulkner" đăng trên vn.360 plus.yahoo/ thứ 4.25.03.09, tác giả Hoàng Thị Quỳnh Trang khẳng định: "Âm thanh và cuồng nộ" là tiểu thuyết Gothic của thời hiện đại, mang đậm hơi thở của Hoa Kì trong nỗi đau của buổi giao thời. Không còn những yếu tố rùng rợn trong một không gian rùng rợn, nhưng khi đọc "Âm thanh và cuồng nộ" ta thấy được đóng góp của Faulkner trong việc đổi mới và cách tân tiểu thuyết Gothic. Ông đã kết hợp với những yếu tố của tiểu thuyết trinh thám và tiểu thuyết lịch sử tạo cho câu chuyện thành công ở nhiều phương diện, không những đóng góp cách tân đối với văn chương, nghệ thuật mà còn ở phương diện lịch sử và tư tưởng" [37]. Bài "Nhân vật trùng tên trong "Âm thanh và cuồng nộ" và "Trăm năm cô đơn" của thạc sĩ Trần Thị Anh Phương đăng trên nguyentuyet.violet.vn/ thứ 5.01.10.09 có viết: "Nằm trong trào lưu của tiểu thuyết hiện đại, hai nhà văn kiệt xuất W. Faulkner và G.G. Marquez đã cố tìm tòi những thử nghiệm mới trong kĩ thuật viết, góp phần cách tân tiểu thuyết trên nhiều phương diện. Sáng tác của hai ông đặc biệt trong lĩnh vực tiểu thuyết đã mang lại sự phục sinh kì diệu mà bản thân tiểu thuyết phương Tây trước đó chưa thể vươn tới. 10 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu Hà - K32D Văn Dấu ấn hiện đại trong tiểu thuyết được hai tiểu thuyết gia tài hoa này thể hiện trên nhiều bình diện thi pháp như đồng hiện thời gian, độc thoại nội tâm dòng ý thức, thủ pháp trùng tên nhân vật, những huyền thoại trong Kinh thánh... Bằng kĩ thuật viết độc đáo, hai ông đã mê dụ người đọc, đưa họ vào một khu rừng đầy phù chú của trí tưởng tượng" [28]. Ngoài ra, người viết còn tham khảo một số bài viết giới thiệu về cuốn tiểu thuyết "Âm thanh và cuồng nộ" được đăng trên mạng Internet như: "Đọc "Âm thanh và cuồng nộ" của William Faulkner" (site.voila.fr/vietart - thứ 3.22.02.05) "Âm thanh và cuồng nộ" - tiếng nói tiêu biểu của văn học dòng ý thức" (www.cand.com.vn/ vanhoa/ thứ 5.06.03.08) Qua các bài viết, các công trình nghiên cứu trên, các nhà phê bình đã chỉ ra những đóng góp to lớn của W. Faulkner trong việc cách tân thể loại tiểu thuyết trên cả hai phương diện nội dung và hình thức. Tuy nhiên chưa có công trình nào đi vào tìm hiểu cụ thể về điểm nhìn nghệ thuật - một phương diện quan trọng trong đổi mới kĩ thuật của ngòi bút W. Faulkner. Chính vì lẽ đó, trên cơ sở những gợi ý của người đi trước, tác giả khoá luận mong muốn tập trung khám phá những nét độc đáo, mới mẻ trong kết cấu điểm nhìn ở cuốn tiểu thuyết dữ dội của ông: "Âm thanh và cuồng nộ". 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài này là phát hiện ra những nét độc đáo, mới lạ trong việc tổ chức các điểm nhìn nghệ thuật qua tiểu thuyết "Âm thanh và cuồng nộ" (W. Faulkner) đồng thời thấy được ý nghĩa của những cách tân ấy đối với việc tạo dựng nội dung giá trị tư tưởng cho tác phẩm. Bên cạnh đó còn thấy được vai trò của W. Faulkner với tư cách là một trong những cây bút tiên phong cho những đổi mới về kĩ thuật trần thuật của văn học phương Tây hiện đại. 11 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu Hà - K32D Văn 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 3.2.1. Tìm hiểu những lí luận cơ bản về tổ chức điểm nhìn nghệ thuật trong tác phẩm tự sự. 3.2.2. Tìm hiểu hệ thống điểm nhìn trong "Âm thanh và cuồng nộ" (W. Faulkner). 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Điểm nhìn nghệ thuật trong tiểu thuyết "Âm thanh và cuồng nộ" của W. Faulkner (từ góc độ điểm nhìn nhân vật và điểm nhìn người trần thuật). 4.2. Phạm vi nghiên cứu Với khuôn khổ của một khoá luận tốt nghiệp và khả năng làm chủ tư liệu có hạn, chúng tôi không có tham vọng đi vào tìm hiểu điểm nhìn nghệ thuật trong tất cả các tiểu thuyết của W. Faulkner mà chỉ giới hạn ở cuốn tiểu thuyết "Âm thanh và cuồng nộ". 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, tác giả khoá luận sử dụng chủ yếu những phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp phân tích đối tượng theo quan điểm hệ thống; - Phương pháp hệ thống lịch sử - chức năng; - Phương pháp quan sát đối tượng theo quan điểm loại hình; - Phương pháp so sánh. 6. Bố cục của khoá luận Ngoài phần nghi thức mang tính bắt buộc, phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của khoá luận được triển khai như sau: Chương 1: Khái quát về điểm nhìn nghệ thuật và những cách tân về điểm nhìn trong tiểu thuyết phương Tây hiện đại. Chương 2: Điểm nhìn nghệ thuật trong tiểu thuyết "Âm thanh và cuồng nộ" (từ góc độ điểm nhìn nhân vật và điểm nhìn người trần thuật). 12 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu Hà - K32D Văn NỘI DUNG CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ ĐIỂM NHÌN NGHỆ THUẬT VÀ NHỮNG CÁCH TÂN VỀ ĐIỂM NHÌN TRONG TIỂU THUYẾT PHƯƠNG TÂY HIỆN ĐẠI 1.1. Về khái niệm “điểm nhìn” trong nghiên cứu lí luận văn học 1.1.1. Thuật ngữ “điểm nhìn” Trong bài “Lí thuyết về điểm nhìn của R. Scholes và R. Kellogg” in trên tạp chí “Nghiên cứu văn học” số 10 – 2008, tác giả Cao Kim Lan viết: “Thuật ngữ “điểm nhìn” đã trở nên quen thuộc trong nghiên cứu văn học nói chung và nghiên cứu tự sự học nói riêng, tuy nhiên tầm quan trọng, vị trí và vai trò của nó trong việc tạo dựng, xác lập mô hình cấu trúc tác phẩm, sự chi phối của điểm nhìn trong nghệ thuật kể chuyện đến mức độ nào thì vẫn là một vấn đề còn gây nhiều tranh luận khá gay gắt” [17, tr. 26]. Cũng trong bài viết này, tác giả đã đưa ra cách hiểu đơn giản nhất về điểm nhìn nghệ thuật: “Điểm nhìn chính là một “mánh khoé” thuộc về kĩ thuật, một phương tiện để chúng ta có thể tiến đến cái đích tham vọng nhất: sức quyến rũ của truyện kể. Và dù có sử dụng cách thức nào thì mục đích cuối cùng của người sáng tạo cũng chỉ là mê hoặc độc giả, buộc anh ta phải đọc” và lưu ý thêm “điểm nhìn là điểm xuất phát của cấu trúc nghệ thuật chứ không phải bản thân cấu trúc đó. Cấu trúc nghệ thuật vốn là hằng số không đổi của những quan hệ của các yếu tố nghệ thuật được lựa chọn để đưa vào tác phẩm. Điểm nhìn nghệ thuật chiếu cái nhìn vào các yếu tố được lựa chọn, thêm bớt hoặc nhấn mạnh và chỉ được suy ra từ cái nhìn tổng thể đối với tác phẩm nghệ thuật, theo yêu cầu của người tiếp nhận” [17, tr. 26]. 13 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu Hà - K32D Văn Lại có người xác lập điểm nhìn chính là: “mô tả cách thức tồn tại của tác phẩm như một hành vi mang tính bản thể hoặc một cấu trúc hoàn chỉnh, tự trị đối với cá nhân nhà văn” [15] và “điểm nhìn là sự lựa chọn cự li trần thuật nào đó loại trừ được sự can thiệp của tác giả vào sự kiện được miêu tả và cho phép văn xuôi trở nên tự nhiên hơn, phù hợp với cuộc sống hơn” [15]. “Từ điển thuật ngữ văn học” đưa ra một khái niệm chung nhất về “điểm nhìn nghệ thuật” (tiếng Nga: khudojestvennaya tochka zreniya; tiếng Anh: point of view): “điểm nhìn nghệ thuật là vị trí từ đó người trần thuật nhìn ra và miêu tả sự vật trong tác phẩm” [13, tr. 113]. 1.1.2. Phân loại “điểm nhìn nghệ thuật” 1.1.2.1. Điểm nhìn của người trần thuật, tác giả; của nhân vật trữ tình và của nhân vật trong tác phẩm tự sự “Trong tác phẩm, mọi sự biểu hiện, miêu tả đều từ tác giả mà ra song để tạo nên hình tượng nghệ thuật, tác giả thường tạo ra những kẻ môi giới đứng ra kể chuyện, miêu tả” [33, tr. 182]. Đó có thể là người trần thuật theo ngôi thứ ba ẩn mình và người trần thuật theo ngôi thứ nhất lộ diện đồng thời là nhân vật. Trong hồi kí, tuỳ bút, người trần thuật thường là tác giả hoặc gần với tác giả, thường trực tiếp xưng “tôi”. Trong thơ trữ tình có thể xưng “tôi” hoặc không. “So với nhân vật điểm nhìn tác giả thường là của người đứng ngoài vì tác giả thường có vấn đề suy nghĩ riêng không trùng với nhân vật” [33, tr. 182]. “Điểm nhìn nhân vật thường là điểm nhìn theo cá tính, địa vị, tâm lí nhân vật. Điểm nhìn người trần thuật có thể tựa vào điểm nhìn nhân vật để miêu tả thế giới, theo cảm nhận chủ quan của nhân vật” [33, tr. 182]. 1.1.2.2. Điểm nhìn không gian - thời gian Điểm nhìn ở đây là vị trí của chủ thể trong không gian, thời gian thể hiện ở phương hướng nhìn, khoảng cách nhìn và ở đặc điểm của khách thể 14 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu Hà - K32D Văn được nhìn. Điểm nhìn không gian, thời gian thể hiện qua các từ chỉ thị phương vị, từ chỉ thị thời điểm như: ở đây, đây, kia, hôm nay, nay… khi điểm nhìn người trần thuật trùng với điểm nhìn nhân vật. Khi điểm nhìn người trần thuật không trùng với điểm nhìn nhân vật, người ta có các hình thức: - Điểm nhìn được lược thuật ở tầm khái quát, tầm xa - Điểm nhìn của người trần thuật vận động theo hướng của mình, khi lùi về quá khứ, khi ở phía này, khi ở phía kia trong các tuyến nhân vật. - Khi nhìn trên cao có thể có cảnh câm: chỉ thấy mà không nghe, hoặc chỉ nghe mà không thấy. 1.1.2.3. Điểm nhìn bên ngoài, bên trong Điểm nhìn bên ngoài là người trần thuật miêu tả sự vật từ phía bên ngoài nhân vật. Điểm nhìn bên trong thể hiện cái tự cảm thấy của nhân vật biểu hiện bằng hình thức tự quan sát, tự biểu hiện của nhân vật, bằng hình thức người trần thuật tựa hẳn vào giác quan, tâm hồn nhân vật để biểu hiện cảm nhận về thế giới. Tuy vậy sự phân biệt bên ngoài, bên trong có tính bản thể luận này có ý nghĩa đặc thù đối với nghệ thuật: cái bên ngoài không phải là cái ở bên ngoài mà là cái có thể quan sát từ bên ngoài, còn cái bên trong là cái tự cảm thấy, không thể tự quan sát từ bên ngoài được. Hai mặt này không phải bao giờ cũng nhất trí với nhau do đó phải có điểm nhìn bên trong mới thể hiện được con người hoàn chỉnh. 1.1.2.4. Điểm nhìn đánh giá tư tưởng, cảm xúc Đây là hệ thống quan điểm cảm nhận thế giới, khác với điểm nhìn bên ngoài chỉ ghi nhận đặc điểm nhân vật, đồ vật, điểm đánh giá xuất phát từ trung tâm giá trị, thường là nhân vật chính, người trần thuật. Quan điểm đánh 15 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu Hà - K32D Văn giá thể hiện ở thái độ của chủ thể lời nói đối với khách thể được bộc lộ qua các tính từ đánh giá, cách nhấn mạnh. Bản thân việc lựa chọn người trần thuật mang tư cách, tâm lí xã hội như thế nào đã là thể hiện quan điểm này. 1.1.2.5. Điểm nhìn ngôn từ, quán ngữ Dùng phương tiện ngôn từ thể hiện quan điểm: - Cách gọi tên, xưng hô: hắn, nàng, ông, anh… - Sự phân biệt ngôn từ người trần thuật, nhân vật và tương quan của hai yếu tố này. Bản thân mỗi hình thức ngôn từ đã là một quan điểm: lời trần thuật của người trần thuật luôn đứng trên, đứng ngoài nhân vật. Lời độc thoại nội tâm đứng trong nhân vật. Lời nửa trực tiếp kết hợp hai điểm nhìn trên với nhau. Phải kết hợp các điểm nhìn mới tạo ra điểm nhìn nghệ thuật. Điểm nhìn nghệ thuật là một phạm trù của thi pháp học lịch sử. Khái niệm điểm nhìn giúp người ta giải phẫu cấu trúc nội tại của tác phẩm, phân tích cách cảm thụ, miêu tả và thái độ tư tưởng của tác giả trong tác phẩm. 1.2. Một số cách tân về điểm nhìn nghệ thuật trong tiểu thuyết phương Tây hiện đại 1.2.1. Nhu cầu đổi mới kĩ thuật trần thuật Văn chương nói chung và thể loại tiểu thuyết nói riêng là một loại hình thái ý thức xã hội đặc thù. Nó có nhiệm vụ phản ánh tồn tại xã hội nói cách khác là phản ánh hiện thực cuộc sống đang lưu chuyển ngổn ngang, bề bộn xung quanh. Mối quan hệ giữa văn học và đời sống là mối quan hệ biện chứng. Nói như vậy cũng có nghĩa là những đổi mới trong văn học mà cụ thể là những đổi mới về nghệ thuật bao giờ cũng có một điểm xuất phát từ chính nhu cầu của thực tiễn xã hội, thực tiễn cuộc sống. Thế kỉ XX, văn học phương Tây chứng kiến sự bùng nổ của một loạt cuốn tiểu thuyết với những đổi mới, cách tân táo bạo về kĩ thuật trần thuật: “Dịch hạch” (A. Camus); “Lâu đài”, 16 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu Hà - K32D Văn “Vụ án” (F. Kafka); “Đêm Lisbonne” (E.M. Remarque)… Nguyên nhân của những thay đổi này là ở đâu nếu không phải là ở những biến chuyển có tính chất bước ngoặt của bối cảnh lịch sử - xã hội? Thế kỉ XX là thế kỉ đầy biến động không chỉ đối với phương Tây mà đối với cả nhân loại. Người ta gọi thế kỉ này là “thời lo âu”, “thời kì quặc”, “thời dùng thuốc an thần”,… Bên cạnh vô số những phát minh sáng tạo, người ta cũng thấy không ít những cái xấu xa, đáng lên án: chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân mới, chủ nghĩa phát xít… Sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật thế kỉ XX đã giúp con người phát hiện ra những bí mật của tự nhiên vũ trụ, con người có thể giải đáp những điều mà triết học duy lí trước đó không thể giải quyết được. Tuy nhiên điều này lại kéo theo sự lung lay nghi ngờ vào những nền tảng tinh thần cũ. Con người bắt đầu đối diện với sự hoài nghi và lo âu. Bên cạnh đó sự ra đời của những học thuyết tư tưởng đã ảnh hưởng sâu sắc đến một loạt trào lưu văn học, nghệ thuật, một loạt nghệ sĩ lớn như triết học hiện sinh của Kiêckêga (Đan Mạch) và thuyết phân tâm học của Freud. Các nhà tư tưởng của chủ nghĩa hiện sinh cho rằng trong thế giới ngày nay mọi giá trị tinh thần đang mất hết ý nghĩa mà không thể bù đắp lại được. Điều đó sẽ dẫn tới thảm kịch truyền kiếp “thân phận con người”. Theo họ con người sẽ bị bỏ rơi trong nỗi cô đơn giữa cái hiện hữu thù nghịch cho nên cuộc đời chỉ là một sự vô nghĩa, “sự vô nghĩa sinh ra từ sự đối chiếu giữa lời kêu gọi của con người và sự im lặng của cuộc đời” [13, tr. 75]. Còn thuyết phân tâm học của Freud “xem nghệ thuật như là kết quả của sự thăng hoa của sự ám ảnh vô thức của con người. Chủ nghĩa Freud xem xét quá trình sáng tác nghệ thuật qua sự điều tiết nguyên tắc thoả mãn và nguyên tắc thực tại. Theo Freud, bản chất của sáng tác nghệ thuật đồng thời là cơ chế của quá trình sáng tác, là sự chạy trốn vào thế giới tưởng tượng, phiên dịch 17 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu Hà - K32D Văn những ham muốn vô thức thành các hình tượng nghệ thuật mà xã hội có thể chấp nhận, thái độ “chơi đùa” đối với đời sống như là sự “hiện thực hoá” những ham muốn không được thoả mãn thời thơ ấu và gắn với những trải nghiệm tình dục nhằm giải thoát những ám ảnh bản năng” [13, tr. 91- 92]. Thuyết phân tâm học của Freud là cơ sở của văn chương dòng ý thức rất thịnh hành ở phương Tây thế kỉ XX. Tất cả những nét ghi danh cho một thời đại như trên tất yếu đã làm biến đổi thị hiếu của độc giả và vì thế tác động sâu sắc đến người sáng tạo. Michel Butor đã ví các tiểu thuyết gia như nàng Sheherazade trong “Nghìn lẻ một đêm” phải luôn luôn tìm ra chuyện gì mới để kể mới mong sống sót. Tiểu thuyết muốn tồn tại phải không ngừng đổi mới. Đó là qui luật tất yếu của sự sinh tồn. Bản thân những nghệ sĩ chân chính một khi đã ý thức được sâu sắc sứ mệnh của nghệ thuật, yêu cầu của thời đại họ sẽ không ngừng tìm tòi, cách tân thể loại. Các nhà tiểu thuyết ấy không muốn dẫm chân tại chỗ mà muốn từng ngày từng giờ làm đổi thay bộ mặt của tiểu thuyết, mang lại những giá trị tư tưởng mới mẻ cho sáng tác nghệ thuật và cải tiến, đổi mới kĩ thuật trần thuật để theo kịp thời đại đang tiến những bước rất dài trên tất cả các lĩnh vực. “Những hiện tượng đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây vừa là sản phẩm của những truyền thống, vừa chịu sự chi phối của những đổi mới trong đời sống vật chất và tinh thần của con người hiện đại. Đằng sau đó là cả một thế giới đầy đổ vỡ và hoài nghi, là một thế giới của những con số, của thông tin, của những phát minh mới về thời gian, về nguyên tử, của nhịp sống công nghiệp, xã hội tiêu dùng, thời đại kĩ trị” [39, tr. 11]. E. Fromm giới thuyết về con người trong nền văn minh kĩ trị như sau: “Vấn đề của thế kỉ XIX là “Chúa đã chết” (như Nietzsche đã nói). Vấn đề của thế kỉ XX là con người đã chết trong một phần của ý thức nhân bản. Sự phản ứng với chủ nghĩa duy lí diễn ra trên bình diện tinh thần đã hắt cái bóng lên triết học và 18 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu Hà - K32D Văn nghệ thuật. Như một qui luật tất yếu, tầng lớp văn nghệ sĩ cũng bị xô dạt bởi những trận cuồng phong xã hội” [28]. Tiểu thuyết hiện đại để phản ánh sâu sắc cuộc sống muôn màu, muôn vẻ đó đành phải khước từ cách miêu tả của tiểu thuyết truyền thống. Các nhà văn nỗ lực tìm tòi, thể nghiệm những sáng tạo trong kĩ thuật viết góp phần mang lại sự phục sinh kì diệu mà tiểu thuyết phương Tây trước đó chưa thể vươn tới. Dấu ấn hiện đại trong tiểu thuyết được thể hiện trên nhiều phương diện thi pháp: sự di động các điểm nhìn, thời gian đồng hiện, độc thoại nội tâm dòng ý thức, thủ pháp trùng tên nhân vật, thủ pháp huyền thoại hoá… 1.2.2. Một số biểu hiện cách tân về điểm nhìn nghệ thuật trong tiểu thuyết phương Tây hiện đại 1.2.2.1. Tăng thêm các điểm nhìn Một dạng thức phổ biến của tiểu thuyết truyền thống là người kể chuyện giấu mặt (hay người kể chuyện ở ngôi thứ ba số ít). Người đó đứng bên ngoài, ở một vị trí nào đó quan sát và thấu suốt toàn bộ diễn biến của câu chuyện rồi kể lại cho chúng ta nhưng không tham gia vào các sự kiện được kể. Dù nhân vật người kể chuyện không xuất hiện, ta cũng không thể biết ngoại hình, tâm lí, tính cách ra sao nhưng ta hiểu rằng trước sau vẫn chỉ là một người. Đó là loại tiểu thuyết một điểm nhìn. Trong tiểu thuyết truyền thống, những đoạn đối thoại giữa các nhân vật với nhau không phải là không có nhưng chúng không đủ tư cách để tạo nên những điểm nhìn độc lập bởi lẽ, đối thoại chỉ xuất hiện như “những lời trích dẫn” và “không thoát ra khỏi vùng ảnh hưởng của điểm nhìn duy nhất”. Nói như Phùng Văn Tửu: “Từ một điểm nhìn dẫn đến một giọng là điều khó tránh khỏi, trừ phi nhà văn là người có bản lĩnh, thoát ra được sự chi phối hết sức mãnh liệt của cái bản ngã như một vật thể vượt ra ngoài sức hút của trái đất để hoá thân hoàn toàn vào các nhân vật khác như trường hợp Đôtxtôiepxki với 19 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu Hà - K32D Văn tiểu thuyết phức điệu như M. Bakhtin đã phân tích một cách sâu sắc” [39, tr. 208]. Lối kể chuyện từ một điểm nhìn của người kể chuyện toàn năng không những làm cho câu chuyện giảm đi sức hấp dẫn mà còn thiếu đi “bề dày lịch sử cần thiết”. Một dạng thức phổ biến khác của tiểu thuyết trước kia là việc sử dụng mô hình người kể chuyện ở ngôi thứ nhất xưng “tôi”. Người kể chuyện này đóng vai một nhân vật trong câu chuyện được kể, tham gia vào các sự kiện trong câu chuyện ấy. Mô hình này nhìn chung có phần tạo được cảm giác đáng tin cậy hơn nhưng nó vẫn là loại tiểu thuyết một điểm nhìn. R. Garaudy trong “Về một chủ nghĩa hiện thực không bờ bến” đã có phát hiện khá thú vị khi ông dùng lí thuyết điểm nhìn để giải thích “sự biến dạng” trong tranh lập thể của Picasso. Hội hoạ lập thể dựa trên nguyên tắc “nhiều điểm nhìn” để thay cho nguyên tắc “một điểm nhìn” kiểu “nhòm qua lỗ khoá” của phép vẽ phối cảnh. Có thể liên tưởng điều này tới sự cách tân trong lĩnh vực tiểu thuyết phương Tây hiện đại. Về đại thể, người ta tìm cách vượt ra khỏi lối viết truyền thống xây dựng thế giới từ một điểm nhìn duy nhất. Điểm nhìn được phân tách thành hai, ba hoặc nhiều điểm nhìn khác nhau gắn với những người kể, địa điểm và thời điểm phân biệt. Tiểu thuyết “Đêm Lisbonne” (1965) của nhà văn Đức E.M. Remarque (1898 – 1970) là một ví dụ. Tác phẩm được cấu tạo bởi hai điểm nhìn với hai người kể chuyện đan xen, lồng ghép vào nhau. Câu chuyện được đặt vào trong bối cảnh không gian châu Âu từ Đức, Áo đến Thuỵ Sĩ, Pháp, Bồ Đào Nha trong khoảng thời gian từ 1938, 1939 đến đầu những năm 40 khi quân đội phát xít Hitler chà đạp khắp nơi và bao người Đức chân chính phải sống lưu vong, trốn tránh, chui lủi hết chỗ này đến chỗ khác mong thoát khỏi lưỡi lê , họng súng và những trại tập trung khủng khiếp. Người kể chuyện xưng “tôi” thứ nhất xuất hiện đầu tiên trong tác phẩm là một người Đức, một dân tị 20 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu Hà - K32D Văn nạn đang băn khoăn không biết làm cách nào có được tấm hộ chiếu và tiền mua vé để cùng vợ là Ruth sang lánh nạn ở Hoa Kì. Người kể chuyện xưng “tôi” thứ hai cũng là một người đàn ông Đức tị nạn có hộ chiếu ghi tên là Josef Schwarz và có cả hai tấm vé tàu để ngày mai rời bến. Tấm hộ chiếu ấy thực chất là do một người Áo trước khi chết nhường lại chứ tên ông không phải là Josef Schwarz. Người đàn ông này sẵn sàng nhường hộ chiếu cùng tấm vé cho người Đức kia (chồng Ruth) với điều kiện phải dành đêm còn lại này làm bạn trò chuyện với ông cho ông khỏi cô đơn. Ông đã kể lại cho chồng Ruth nghe biết bao sóng gió, gian nguy của đời mình suốt năm năm qua. Vậy là có hai câu chuyện đan xen vào nhau trong “Đêm Lisbonne”. Hai điểm nhìn đã tạo nên một bức tranh đa diện bổ sung, lồng ghép cho nhau. Hai nhân vật người kể chuyện có vị trí hoàn toàn bình đẳng trước độc giả khi kể lại câu chuyện của mình. Thời gian mà câu chuyện được kể lại chỉ diễn ra trong một đêm của năm 1942 tại thành phố cảng Lisbonne - thủ đô của Bồ Đào Nha nhưng thời gian của những sự kiện được nhắc tới lại kéo dài suốt nhiều năm trên nền không gian rộng mở từ Đức qua Pháp, từ Thuỵ Sĩ qua Ý, từ những viện bảo tàng đến các trại tập trung… Cấu trúc độc đáo này có được rõ ràng là do việc Remarque đã thiết tạo nên hai điểm nhìn trần thuật đan xen nhau. Từ câu chuyện của những cá nhân nhỏ lẻ, cuốn tiểu thuyết muốn khắc hoạ thật đậm nét thân phận của những người dân Đức sống lưu vong trong những năm chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ khi mà bóng đen của chủ nghĩa phát xít đang bao trùm lên khắp châu Âu. Những nhân vật trong tác phẩm đều là người dân tị nạn, họ có số phận, có hoàn cảnh riêng nhưng cũng chỉ là “các hình bóng vật vờ trong cuộc sống, đang sống đấy mà như đã chết rồi, ngay đến cả cái tên cũng không có nữa” [29, tr.215]. Shwart nói : “Nghĩ cũng lạ lùng cho cái cảnh ngộ vô vọng thật. Cái tên của anh ta biến mất. Ta không còn biết ta là ai” [29, tr. 225 - 226]. Câu nói của nhân vật gợi ta nhớ tới lời 21 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu Hà - K32D Văn nhận định của Rôlăng Bactơ: “Thế giới phương Tây đã đi vào ngõ cụt, người ta chỉ còn có thể đặt câu hỏi “Ta là ai?” chứ không thể đặt câu hỏi “Vì sao?” [9, tr. 660]. 1.2.2.2. Di động điểm nhìn từ người kể chuyện sang nhân vật Người đi tiên phong cho sự đổi mới này chính là Franz Kafka – nhà tiểu thuyết vĩ đại người Tiệp Khắc. Trong số ba tiểu thuyết của F. Kafka chỉ có “Vụ án” được coi là đã hoàn thành theo nghĩa đã có một kết thúc. Tác phẩm được kể ở ngôi thứ ba số ít với mở đầu là tiếng nói của một người thứ ba giấu mặt: “Hẳn là người ta đã vu oan cho K. bởi lẽ chẳng làm gì nên tội anh đã bị bắt vào một buổi sáng” [16, tr. 75]. Nhưng nó hoàn toàn khác với tiểu thuyết truyền thống: điểm nhìn không còn đặt ở ngôi kể nữa, nó đã có sự dịch chuyển rõ rệt từ người kể chuyện sang nhân vật. Thế giới trong cuốn tiểu thuyết này chỉ xuất hiện qua mối ám ảnh duy nhất của nhân vật K. đó là việc anh vô cớ bị kết tội. Điểm nhìn nghệ thuật đã bị thu hẹp đến cực điểm, nó bị đông cứng trong một câu hỏi “vì sao”. Ám ảnh về cái phi lí, về bản án vô cớ chụp lên đầu khiến nhân vật quay cuồng trong những phán đoán, những nghi hoặc, những lo âu, khắc khoải. “Giữa người bị kết tội và thế giới quanh anh có một bức tường ngăn cách không thể nào vượt qua được. Anh chỉ còn cách thích nghi với cái phi lí” [9, tr. 660]. Việc chuyển dịch từ điểm nhìn người trần thuật sang điểm nhìn nhân vật sẽ tạo ra một hiệu quả nghệ thuật đó là làm cho đối tượng được miêu tả trở nên khách quan hơn, đáng tin cậy hơn. Nhưng chính điểm nhìn của nhân vật Kafka cũng như đang phân thân. Vẫn là điểm nhìn của nhân vật đấy mà dường như không còn là cảm giác của người trong cuộc nữa. Những giọng nói vô cảm, dửng dưng, lạnh lùng vang lên vào những giây phút gay cấn nhất, quyết định nhất khi nhân vật đang cận kề giữa sự sống và cái chết. Hình như “có một ai đó đứng ngoài ám ảnh để kể lại và nhìn nhận sự vật một cách xa 22
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất