Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật địa vị pháp lý của thẩm phán trong tố tụng hình sự việt nam...

Tài liệu địa vị pháp lý của thẩm phán trong tố tụng hình sự việt nam

.PDF
128
10
147

Mô tả:

®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt tr-¬ng thÞ h¹nh ®Þa vÞ ph¸p lý cña thÈm ph¸n trong tè tông h×nh sù viÖt nam luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2009 ®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt tr-¬ng thÞ h¹nh ®Þa vÞ ph¸p lý cña thÈm ph¸n trong tè tông h×nh sù viÖt nam Chuyªn ngµnh : LuËt h×nh sù M· sè : 60 38 40 luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: GS.TS Vâ Kh¸nh Vinh Hµ néi - 2009 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Mở đầu Chương 1: Một số vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của Thẩm phán 6 trong tố tụng hình sự Việt nam 1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò của Thẩm phán 6 1.1.1. Khái niệm Thẩm phán, địa vị pháp lý của Thẩm phán 6 1.1.2. Vị trí, vai trò của Thẩm phán 12 1.2. Mối quan hệ của Thẩm phán trong công tác 14 1.3. Một số nguyên tắc tố tụng cơ bản khi giải quyết vụ án hình sự Thẩm phán phải tuân thủ 19 1.3.1. Nguyên tắc pháp chế 20 1.3.2. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật 21 1.3.3. Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án 22 1.4. Quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam 24 1.4.1. Quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán với tư cách là cán bộ Tòa án 24 1.4.2. Quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án hình sự 26 1.5. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán 29 1.5.1. Giai đoạn từ 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật Tố tụng 30 hình sự năm 1988 1.5.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 42 1.6. Quy định của pháp luật một số nước về địa vị pháp lý của Thẩm phán 46 1.6.1. Liên bang Nga 46 1.6.2. Cộng hòa Pháp 52 1.6.3. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 55 Chương 2: Thực trạng các quy định về hoạt động của Thẩm phán 59 theo Bộ luật Tố tụng Hình sự Việt nam và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về hoạt động của Thẩm phán trong tố tụng hình sự 2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về hoạt động của Thẩm phán theo Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam 59 2.1.1. Các quy định về chuẩn bị xét xử 59 2.1.2. Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm 68 2.1.3. Tại phiên tòa xét xử phúc thẩm 75 2.1.4. Xét xử lại bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. 78 2.1.5. áp dụng pháp luật 79 2.1.6. Phổ biến, giáo dục pháp luật 81 2.1.7. Thi hành án 84 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về hoạt động của Thẩm phán trong tố tụng hình sự 85 2.2.1. Những kết quả đạt được và chưa đạt được 85 2.2.1. Nguyên nhân 93 2.2.2.1. Nguyên nhân khách quan 93 2.2.2.2. Nguyên nhân chủ quan Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện các quy định về 94 96 địa vị pháp lý của Thẩm phán trong Tố tụng hình sự việt nam 3.1. Phương hướng hoàn thiện 96 3.2. Giải pháp hoàn thiện 103 3.2.1. Lập pháp 103 3.2.2. Về áp dụng pháp luật 108 3.2.3. Văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật 109 3.2.4. Lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với đội ngũ Thẩm phán 109 3.2.5. Về tổ chức cán bộ 110 Kết luận 114 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 116 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, thực hiện đường lối của Đảng nền kinh tế nước nhà tiếp tục tăng trưởng, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao. Trong thành tựu đó có phần đóng góp tích cực của cơ quan tư pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và sự giúp đỡ của các cơ quan nhà nước, sự ủng hộ và giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, các cơ quan tư pháp đã đạt được nhiều kết quả trong việc ngăn ngừa, đấu tranh tội phạm và các tệ nạn xã hội góp phần vào việc giữ vững an ninh đấu tranh và bảo vệ chính sách bình yên cho nhân dân. Đó là mặt quan trọng của cuộc sống đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Bên cạnh những đóng góp to lớn thì công tác của các cơ quan tư pháp vẫn còn không ít những sai phạm. Những sai phạm này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, tổ chức, gây bức xúc trong xã hội mà qua đó nó còn thể hiện sự yếu kém của pháp luật. Chính vì vậy, công cuộc cải cách tư pháp là nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang được Đảng và Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Từ năm 2002 - 2005, Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị đã ban hành một số nghị quyết về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước và pháp luật. Trong đó nhấn mạnh đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp như Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 "Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới" (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 08), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị "Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng năm 2020" (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 48), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 "Về chiến lược cải 1 cách tư pháp đến năm 2020" (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 49). Trong đó, Nghị quyết 08 đưa ra một trong những nhiệm vụ của cơ quan tư pháp là phải nâng cao chất lượng trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án nhằm ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự, bảo vệ trật tự, kỷ cương, đảm bảo và tôn trọng quyền dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân; chủ trương đề cao vai trò tranh tụng tại phiên tòa. Nghị quyết 08 cũng đã khẳng định: "Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp" [4]. Trong hệ thống các cơ quan tư pháp bảo vệ pháp luật thì Tòa án được coi là trung tâm, là cơ quan nhân danh Nhà nước thực hiện quyền tư pháp, là tâm điểm của cải cách tư pháp. Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa là thành viên của Hội đồng xét xử, là người trực tiếp giải quyết vụ án, cùng Hội đồng xét xử ra các phán quyết của Tòa án liên quan đến quyền lợi của cá nhân, tổ chức. Trong cải cách tư pháp Tòa án được coi là trọng tâm với nhiệm vụ "nâng cao tranh tụng tại các phiên tòa" và khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền lợi ích hợp pháp để ra bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn luật định thì việc lựa chọn đề tài "Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam" làm luận văn Thạc sĩ là điều hết sức cần thiết và có tính thời sự với mong muốn góp phần vào thực hiện nhiệm vụ chung về cải cách tư pháp. 2. Tình hình nghiên cứu 2 Theo thống kê không đầy đủ thì cũng có một số công trình nghiên cứu về chế định Thẩm phán cũng như về địa vị pháp lý của Thẩm phán dưới dạng luận văn cử nhân như: "Chế định Thẩm phán trong tố tụng hình sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn", của Trần Thu Trang; "Địa vị pháp lý của Chánh án, Phó chánh án Tòa án nhân dân, Thẩm phán, Thư ký Tòa án và Hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam", của Nguyễn Thị Hằng; "Cơ sở khoa học của việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán ở Việt Nam hiện nay", của Đỗ Gia Thư; "Nghiên cứu mô hình nhân cách Thẩm phán trong hoạt động xét xử", của Bùi Kim Chí dưới dạng luận án ttiến sĩ… Bên cạnh đó, còn có một số công trình nghiên cứu dưới dạng bài viết đăng trên các tạp chí khoa học về hoạt động thực tiễn của Thẩm phán của các nhà làm công tác thực tiễn, các nhà nghiên cứu khoa học. Thiết nghĩ hơn bao giờ hết trong giai đoạn hiện nay khi Đảng và Nhà nước đang chú trọng đến tiến trình cải cách tư pháp mà trọng tâm là Tòa án, với tư cách là học viên cao học, một cán bộ Tòa án làm công tác thực tiễn tác giả nhận thấy việc nghiên cứu về địa vị pháp lý của Thẩm phán có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn. 3. Mục đích nghiên cứu Việc nghiên cứu đề tài này nhằm làm rõ những vấn đề lý luận, nội dung các quy định về hoạt động của Thẩm phán theo Bộ luật Tố tụng hình sự cũng như tình hình thực tiễn áp dụng pháp luật về hoạt động của Thẩm phán trong tố tụng hình sự. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao địa vị pháp lý của Thẩm phán theo hướng cải cách tư pháp, nâng cao yếu tố tranh tụng tại các phiên tòa như Bộ Chính trị đã đề ra trong các nghị quyết 08, 49 và 48. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về địa vị pháp lý của Thẩm phán và thực tiễn áp dụng các quy định về hoạt động của Thẩm phán. 3 Trên cơ sở mục đích, đối tượng nghiên cứu đã xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu tập trung vào những vấn đề tố tụng hình sự liên quan đến địa vị pháp lý của Thẩm phán và thực tiễn áp dụng. Bên cạnh đó luận văn cũng có tìm hiểu, so sánh với pháp luật của một số nước trên thế giới. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học như: phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, tổng hợp… 6. Ý nghĩa khoa học của đề tài Kết quả nghiên cứu của đề tài giúp cho cơ quan lập pháp lựa chọn giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán, các quy định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa và các quy định liên quan đến quá trình giải quyết vụ án hình sự để phán quyết của Tòa án được khách quan, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm… đảm bảo nguyên tắc hoạt động Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tạo ra hành lang pháp lý vững chắc cho Thẩm phán khi thực hiện nhiệm vụ xét xử. Bên cạnh đó, luận văn còn có ý nghĩa thực tiễn rất lớn cho những người làm công tác thực tiễn mà cụ thể ở đây là Thẩm phán. Giúp cho Thẩm phán có nhận thức đúng đắn về nhiệm vụ quyền hạn và trách nhiệm của họ được pháp luật quy định để từ đó áp dụng cho thống nhất, chính xác, tránh áp dụng tùy tiện. Tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân giám sát hoạt động xét xử của Thẩm phán qua kết quả giải quyết án. Giúp cho những người tham gia tố tụng có những nhận thức hiểu biết đúng đắn về địa vị pháp lý của Thẩm phán để 4 khi ra phiên tòa có sự tôn trọng pháp luật, tôn trọng người tiến hành tố tụng và biết cách để bảo vệ quyền lợi của mình. 7. Những đóng góp mới của luận văn Trên cơ sở nghiên cứu đề tài "Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam" luận văn đã làm rõ những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của Thẩm phán; nghiên cứu thực trạng các quy định pháp luật về hoạt động của Thẩm phán theo Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam; tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về hoạt động của Thẩm phán để thấy được những kết quả đạt được và chưa đạt được, tìm ra những nguyên nhân. Trên cơ sở đó luận văn đưa ra một số giải pháp hoàn thiện nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý của Thẩm phán đặt trong bối cảnh cải cách tư pháp mà Bộ Chính trị đã đề ra. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 2: Thực trạng các quy định về hoạt động của Thẩm phán theo Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về hoạt động của Thẩm phán trong tố tụng hình sự. Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện các quy định về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam. 5 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN 1.1.1. Khái niệm Thẩm phán, địa vị pháp lý của Thẩm phán Trong bộ máy nhà nước, Tòa án nhân dân có một vị trí đặc biệt quan trọng - là cơ quan duy nhất có chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh tế, hành chính, kinh doanh thương mại và giải quyết các công việc khác theo quy định của pháp luật như thi hành án, giải thích pháp luật… Bằng hoạt động của mình, Tòa án bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, quyền dân chủ của công dân, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, nhân phẩm danh dự của công dân và bảo vệ tài sản của Nhà nước. Thông qua hoạt động xét xử, Tòa án góp phần giáo dục công dân ý thức pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống, tham gia cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác. Trong hoạt động xét xử của Tòa án, Thẩm phán được coi là nhân tố, hạt nhân rất quan trọng, nhân vật trung tâm. Xét xử được hiểu là "hoạt động do Tòa án thực hiện để xem xét và giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, lao động, kinh tế với việc tuân thủ nghiêm ngặt các đòi hỏi của pháp luật và trật tự pháp luật, có tính lập luận công bằng và có ý nghĩa bắt buộc chung" [44, tr. 45]. Xét xử đã có từ rất lâu đời nhưng sự ra đời của Thẩm phán lại khá muộn màng. Dưới thời kỳ chiếm hữu nô lệ và phong kiến hình thức nhà nước chủ yếu là quân chủ lập hiến, hoạt động xét xử cũng như hoạt động lập pháp, hoạt động hành pháp đều tập trung vào giai cấp chủ nô và phong kiến mà đại diện là nhà vua. Nhà vua là người nắm toàn bộ quyền hành, đứng đầu Nhà nước ban hành các đạo luật, quyết định tổ chức thực hiện và là người 6 có quyền lực cao nhất. Đến mãi sau này vào khoảng thế kỷ 17 - 18, giai cấp tư sản phát triển mạnh mẽ đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến đã hạn chế dần quyền lực của nhà vua, tiến tới xóa bỏ Nhà nước phong kiến lỗi thời. Trong thời gian này, các học giả tư sản mà tiêu biểu nhất là Montesquieu đã đưa ra luận điểm: phải tách các hoạt động ban hành pháp luật, hoạt động thực hiện pháp luật và hoạt động xét xử, chia quyền lực nhà nước thành 3 loại quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp độc lập với nhau tạo cơ chế kiềm chế đối trọng lẫn nhau, chống lại tư tưởng độc quyền của một người, hay của một cơ quan nào đó, nắm toàn bộ quyền lực nhà nước. Có thể nói sự tách bạch và độc lập giữa Tòa án ra khỏi hai nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp đã hình thành nên một đội ngũ cán bộ mới trong bộ máy nhà nước làm nhiệm vụ xét xử từ xưa đến nay chưa có đó là Thẩm phán [28, tr. 16]. Vậy, Thẩm phán được hiểu như thế nào cho đầy đủ và chính xác? Cũng có nhiều khái niệm (định nghĩa) về Thẩm phán chẳng hạn như: - "Thẩm phán là một chức danh Nhà nước trong hệ thống Tòa án các cấp" [27]. - Theo tác giả Đỗ Gia Thư: "Thẩm phán là người làm việc trong cơ quan Tòa án, chuyên xét xử các vụ án và giải quyết các vụ việc theo thẩm quyền của Tòa án, ra các bản án, quyết định nhân danh Nhà nước" [28, tr. 17]. - Tại Điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 đã đưa ra khái niệm "Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án" [41]. Trải qua sự phát triển của lịch sử cũng như sự phát triển của nền lập pháp từ khi chưa có đội ngũ Thẩm phán đến khi xuất hiện đội ngũ Thẩm phán để từ đó khái niệm về Thẩm phán dần được xuất hiện và ngày càng hoàn thiện hơn. Chúng tôi đồng tình với khái niệm về Thẩm phán được quy định tại Pháp 7 lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002. Đây là khái niệm hoàn chỉnh và đầy đủ về Thẩm phán. Theo khái niệm này thì Thẩm phán phải có tiêu chuẩn và được bổ nhiệm theo thủ tục do pháp luật quy định. Tức là chế độ bổ nhiệm Thẩm phán được thực hiện đối với Tòa án các cấp. Việc bổ nhiệm Thẩm phán phải do người có thẩm quyền bổ nhiệm, tương ứng với 3 cấp Tòa án có 3 ngạch Thẩm phán tương ứng và thẩm quyền bổ nhiệm đối với các ngạch Thẩm phán này cũng khác nhau. Và để được bổ nhiệm làm Thẩm phán thì cán bộ Tòa án phải đáp ứng những tiêu chuẩn về bổ nhiệm Thẩm phán do pháp luật quy định. Chức năng, nhiệm vụ xét xử của Tòa án được thực hiện thông qua hoạt động xét xử trong đó Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa tham gia vào việc ra bản án hoặc quyết định nhân danh Nhà nước, thay mặt Hội đồng xét xử tuyên án hoặc các quyết định tố nhân danh Nhà nước như quyết định đình chỉ xét xử sơ thẩm, quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, quyết định trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa... Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa được phân công giải quyết vụ án có thẩm quyền ra các quyết định tố tụng như quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định trả hồ sơ, quyết định hoãn phiên tòa... Bên cạnh đó, Thẩm phán còn tham gia giải quyết vụ án với vai trò là Thẩm phán - thành viên của Hội đồng xét xử trong trường hợp xét xử theo trình tự sơ thẩm khi Hội đồng xét xử gồm 5 người hoặc theo trình tự phúc thẩm. Ngoài nhiệm vụ xét xử, Thẩm phán còn thực hiện các nhiệm vụ khác thuộc thẩm quyền của Tòa án khi được lãnh đạo phân công. Ví dụ: tham gia vào Hội đồng giảm án tha tù... Nói đến Thẩm phán trước hết phải hiểu đó là người - chuyên hành nghề xét xử. Công việc xét xử của Thẩm phán được coi là một nghề - nghề có tính đặc thù. Bởi lẽ, chỉ có Tòa án mới có chức năng xét xử. Tính đặc thù nghề nghiệp của Thẩm phán được thể hiện ở chỗ: 8 - Nghề này ảnh hưởng lớn đến tính công minh của pháp luật, uy tín về nền công lý của một quốc gia. - Lao động của Thẩm phán chính là lao động trí óc, đầy khó khăn phức tạp dưới sự giám sát nghiêm ngặt của xã hội và công dân; - Thẩm phán là người đại diện cho Nhà nước trực tiếp áp dụng pháp luật do vậy sự công bằng khách quan, tình người là không thể thiếu được của người Thẩm phán; - Hoạt động của Thẩm phán gắn liền với việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân, tổ chức; - Độc lập xét xử là nguyên tắc cơ bản đối với hoạt động của Thẩm phán; - Thẩm phán hoạt động theo một trình tự pháp lý chặt chẽ được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự; - Khi xét xử, Hội đồng xét xử nhân danh Nhà nước để ra bản án hoặc quyết định. Thẩm phán được coi là một chức danh quan trọng không thể thiếu trong tổ chức bộ máy nhà nước, có ý nghĩa quyết định đến việc thực hiện quyền tư pháp. Bởi lẽ, hoạt động xét xử là hoạt động trung tâm thực hiện quyền tư pháp. Ở nước ta Thẩm phán được coi là một chức danh từ năm 2002 và được ghi nhận bằng cơ sở pháp lý tại Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002, còn trở về trước Thẩm phán chỉ được coi là một chức vụ. Đây là một bước ngoặt quan trọng đánh dấu sự thay đổi về nhận thức khoa học, muốn xây dựng đội ngũ Thẩm phán chuyên nghiệp thì trước hết phải coi Thẩm phán là một nghề, có vị trí chức danh nhất định trong xã hội có như vậy Thẩm phán mới có cơ sở điều kiện pháp lý để làm việc và yên tâm cống hiến, phấn đấu cho sự nghiệp của mình. Ngoài ra, Thẩm phán còn được coi là công chức nhà nước. Theo Pháp lệnh cán bộ công chức hiện hành, Thẩm phán được xếp vào ngạch công chức 9 nhà nước được hưởng mọi quyền lợi, nghĩa vụ và chế độ của công chức nói chung. Vậy khái niệm địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng hình sự được hiểu như thế nào? Theo Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên thì "địa vị" được hiểu là "vị trí, chỗ xứng đáng với vai trò tác dụng có được hay vị trí chỗ đứng của cá nhân trong xã hội" [45]. Trong cơ quan Tòa án có nhiều cán bộ, công chức nhưng người thực hiện nghiệp vụ xét xử và có thẩm quyền ra bản án, quyết định nhân danh Nhà nước thì chỉ có Thẩm phán. Đó là việc đưa ra các quyết định mang tính chất bắt buộc chung bằng cách này hay cách khác liên quan đến các quyền và tự do cơ bản, các lợi ích hợp pháp của công dân, của cơ quan nhà nước, của các tổ chức xã hội... Những giá trị xã hội rất cần thiết cho mọi Nhà nước dân chủ thực sự như số phận pháp lý của con người, khẳng định và duy trì pháp chế, trật tự pháp luật có thể tùy thuộc vào những người Thẩm phán. Quyền tư pháp thuộc về các Thẩm phán. Các Thẩm phán thực hiện quyền đó một cách độc lập trong sự phối hợp hoạt động với Hội thẩm nhân dân hoặc Hội thẩm quân nhân. Do đó, họ không chỉ thể hiện với tư cách là cái đảm bảo cho các quyền và các lợi ích hợp pháp, cho pháp chế và trật tự pháp luật mà trong những hoàn cảnh nhất định còn thể hiện với tư cách là vai trò của nhân tố phối hợp với các quyền khác của quyền lực nhà nước, quyền lập pháp, quyền hành pháp. Dưới sự ảnh hưởng của các đặc điểm về các nhiệm vụ được đội ngũ Thẩm phán đảm nhiệm trong vòng nhiều thập kỷ và đã hình thành và thừa nhận địa vị của các Tòa án, của các Thẩm phán cần phải có sự khác biệt so với địa vị pháp lý của các cơ quan nhà nước với những người có chức vụ quyền hạn trong các cơ quan đó. Cùng với thời gian, những người Thẩm phán dần có các quyền và nghĩa vụ chỉ đặc trưng cho họ. Tổng thể các quyền và nghĩa vụ đó tạo thành cái mà chúng ta gọi là quy chế của Thẩm phán, địa vị pháp lý của Thẩm phán. 10 Vậy, địa vị pháp lý của Thẩm phán được hiểu là tổng thể các quyền và nghĩa vụ tố tụng được pháp luật trao cho họ khi thực hiện các hoạt động tố tụng nhân danh Nhà nước và các hoạt động khác thuộc thẩm quyền của Tòa án. Trước hết chúng ta xem xét địa vị pháp lý Thẩm phán dưới góc độ là địa vị pháp lý của một công dân: Thẩm phán là một công dân nên Thẩm phán cũng có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của một công dân được pháp luật hiện hành quy định. Quyền và nghĩa vụ này được quy định tại Hiến pháp - văn bản pháp lý có giá trị pháp lý cao nhất. Ví dụ: Hiến pháp quy định "Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép…" (Điều 73); "Công dân phải trung thành với Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất" (Điều 75); "Công dân có nghĩa vụ đóng thuế và lao động công ích theo quy định của pháp luật" (Điều 80) thì Thẩm phán cũng có các quyền và nghĩa vụ đó. Bên cạnh đó, Thẩm phán là một cán bộ công chức nhà nước nên được hưởng các quyền và phải chịu các nghĩa vụ của một cán bộ công chức nhà nước theo Pháp lệnh cán bộ công chức hiện hành quy định. Tuy nhiên, không phải mọi quyền và nghĩa vụ của cán bộ công chức nhà nước đều được áp dụng cho Thẩm phán vì xuất phát từ chính tính đặc thù của nghề nghiệp mà Thẩm phán đảm nhiệm. Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002, Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân hiện hành đã quy định quyền và nghĩa vụ riêng biệt của người Thẩm phán phù hợp với nghề nghiệp của Thẩm phán. Đây là những cơ sở pháp lý và cũng là hành lang pháp lý cho người Thẩm phán khi thực thi nhiệm vụ của mình được có căn cứ, đúng pháp luật Ví dụ: Thẩm phán không được "Tiếp bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác trong vụ án mà mình có thẩm quyền giải quyết 11 ngoài nơi quy định" (tiết 5 Điều 15) Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Ví dụ: "Thẩm phán có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thi hành những quyết định có liên quan đến việc giải quyết vụ án hoặc những việc khác theo quy định của pháp luật" (Điều 12). Xuất phát từ tính đặc thù, sự nhảy cảm của nghề nghiệp xét xử nên Thẩm phán cũng bị hạn chế bớt quyền hạn của mình khi còn đương nhiệm. Ví dụ Thẩm phán đương nhiệm không được làm luật sư đặc biệt là luật sư tham gia tranh tụng. Chúng ta có thể phân loại quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán theo các dạng sau: - Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán với tư cách là một cán bộ Tòa án; - Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán với tư cách là người tiến hành tố tụng tham gia giải quyết vụ án hình sự (trong đó Thẩm phán là thành viên của Hội đồng xét xử, Thẩm phán là Chủ tọa phiên tòa). Nhưng nói gì đi nữa thì quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được coi là cái gốc dễ để quy định quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán. Có thể nói địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng hình sự đã tạo ra một vị thế riêng biệt cho người Thẩm phán khi thực hiện nghiệp vụ xét xử cũng như khi giải quyết các công việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án khi được lãnh đạo phân công. 1.1.2. Vị trí, vai trò của Thẩm phán Thẩm phán có vị trí trung tâm trong quá trình tố tụng tại phiên tòa. Thẩm phán hầu như quán xuyến mọi việc và giữ ý nghĩa quyết định kết quả xét xử. Thẩm phán là người điều khiển phiên tòa theo quy định của pháp luật. Thẩm phán phải lập kế hoạch cho cả phiên tòa như những chứng cứ nào sẽ 12 được sử dụng, nhân chứng nào được triệu tập, thời gian xét xử... và dự liệu được những vấn đề có thể xảy ra tại phiên tòa. Trong phần thẩm vấn luật không quy định cụ thể phải hỏi ai trước, hỏi vấn đề gì trước nên gần như quy trình xét hỏi được quyết định bởi Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa và là người điều khiển phiên tòa, thấy cần hỏi ai trước, cần làm rõ cái gì trước, xem xét và trình bày cái gì là hợp lý để đảm bảo kết quả, chất lượng xét xử tốt nhất và không làm cho các sự kiện bị rối lên, đồng thời cũng quyết định luôn tình tiết, nội dung nào cần được xét hỏi. Mặc dù người hỏi gồm có cả Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên, luật sư nhưng thực tiễn xét xử tại Việt Nam cho thấy việc xét hỏi được tiến hành chủ yếu bởi Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa, sự tham gia xét hỏi của Luật sư, Kiểm sát viên trong quá trình xét hỏi không mang tính liên tục. Tất cả những điều đó ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng xét xử. Chất lượng xét xử có cao hay không phụ thuộc phần lớn vào người Thẩm phán. Thông qua xét xử các vụ án hình sự, Thẩm phán góp phần to lớn vào việc trừng trị kịp thời, có hiệu quả những kẻ phạm tội nhằm duy trì trật tự kỷ cương phép nước, không chỉ buộc bị cáo phải hành xử đúng pháp luật mà còn tạo nên một môi trường bền vững an toàn cho cá nhân, tổ chức sinh sống và hoạt động. Đứng trước Tòa án, người dân hay cơ quan nhà nước đều được bình đẳng trước pháp luật có quyền và nghĩa vụ như nhau. Thẩm phán bằng lương tâm, trách nhiệm và quyền hạn được giao, bằng trình độ chuyên môn, kinh nghiệm sống và phải có lòng dũng cảm để minh oan cho những trường hợp bị kết án oan, hủy bỏ quyết định sai trái, khôi phục quyền lợi danh dự cho họ, bảo vệ lẽ phải và chính nghĩa. Khẳng định rằng Tòa án là công cụ bảo vệ công lý trong đó Thẩm phán là trụ cột, là chỗ dựa vững chắc cho công dân, tổ chức nhà nước trong việc đấu tranh và phòng chống tội phạm. Bằng việc xét xử tại phiên tòa, Thẩm phán góp phần vô cùng to lớn có hiệu quả trong công tác phổ biến tuyên truyền pháp luật 13 đồng thời thông qua công tác áp dụng pháp luật, rút kinh nghiệm kiến nghị sửa đổi bổ sung hoàn thiện pháp luật. Trong xét xử bắt buộc phải có Thẩm phán, chỉ Thẩm phán mới có quyền xét xử, chính bởi vậy Thẩm phán giữ vị trí, vai trò trọng yếu trong hoạt động xét xử, có tính chất quyết định đến uy tín, chất lượng xét xử của Tòa án. Quần chúng nhân dân có đặt niềm tin vào công lý được hay không đều phụ thuộc vào sự phán quyết cuối cùng của Hội đồng xét xử. Bởi vậy, công việc của người Thẩm phán hết sức nặng nề và nguy hiểm nhưng cũng không kém phần vinh quang. Phương diện hoạt động của Thẩm phán là xét xử, chức năng của Thẩm phán là xét xử, để thực hiện được chức năng này pháp luật nước ta đã cụ thể hóa trong pháp luật tố tụng thành nhiệm vụ quyền hạn của Thẩm phán. Nhìn vào nhiệm vụ, quyền hạn mà pháp luật tố tụng hình sự quy định cho họ đã thể hiện rõ mô hình về người Thẩm phán. 1.2. MỐI QUAN HỆ CỦA THẨM PHÁN TRONG CÔNG TÁC Mối quan hệ của Thẩm phán trong công tác có hai dạng đó là: Mối quan hệ hành chính và mối quan hệ tố tụng. Trong đó mối quan hệ tố tụng gồm có: Mối quan hệ giữa Thẩm phán và người tiến hành tố tụng, mối quan hệ của Thẩm phán với người tham gia tố tụng. Vì Thẩm phán làm nghiệp vụ chuyên môn xét xử nên bên cạnh mối quan hệ hành chính thì mối quan hệ trong tố tụng là chủ yếu. Và đây cũng là mối quan hệ được thiết lập trên cơ sở pháp luật tố tụng hình sự, chỉ phát sinh khi những cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng được xác lập trong quá trình giải quyết vụ án hình sự đồng thời đây cũng là mối quan hệ phối hợp để đảm bảo việc tuân thủ các quy định của pháp luật, nhằm giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. - Mối quan hệ hành chính: Mối quan hệ hành chính là quan hệ giữa Thẩm phán và Chánh án nhưng nó được hiểu dưới hai góc độ khác nhau: 14 Thứ nhất: Mối quan hệ giữa Thẩm phán với tư cách cán bộ cơ quan và Chánh án với tư cách thủ trưởng cơ quan. Đây là mối quan hệ hành chính. Thẩm phán phải làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án chịu sự quản lý của Chánh án, ví dụ như Chánh án có quyền phân công Thẩm phán giải quyết vụ án, tham gia vào Hội đồng giảm án tha tù, viết báo cáo tham luận rút kinh nghiệm xét xử hàng năm đối với cấp huyện, thị xã. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có quyền ký quyết định bổ nhiệm, tái nhiệm, điều động biệt phái Thẩm phán. Với tư cách là cán bộ Tòa án, Thẩm phán phải chịu trách nhiệm, chấp hành nhiệm vụ được giao trước Chánh án. Thứ hai: Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Chánh án với tư cách là Thẩm phán tham gia giải quyết vụ án hình sự. Đây là mối quan hệ tố tụng và chịu sự điều chỉnh của luật tố tụng hình sự, phải độc lập trong xét xử. Lúc này Chánh án không con giữ chức danh quản lý hành chính nữa mà giữ chức vụ Thẩm phán. - Mối quan hệ tố tụng: + Mối quan hệ giữa Thẩm phán và những người tiến hành tố tụng (Hội thẩm Tòa án, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án). Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án: Đây là mối quan hệ tố tụng phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Thẩm phán và Hội thẩm là thành phần của Hội đồng xét xử. Hội thẩm Tòa án đại diện cho quần chúng nhân dân tham gia vào công tác xét xử, giám sát hoạt động của Tòa án góp phần làm cho hoạt động xét xử đúng pháp luật, hợp lẽ công bằng, bảo đảm pháp chế. Hội thẩm Tòa án là người được bầu và được cử theo quy định của pháp luật để cùng Tòa án thực hiện nhiệm vụ xét xử. Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 đều quy định "Việc xét xử của Tòa án nhân có Hội thẩm nhân dân, Tòa án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật". Như vậy, thành phần Hội đồng 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan