Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật địa vị pháp lý của các doanh nghiệp việt nam kinh doanh ở nước ngoài...

Tài liệu địa vị pháp lý của các doanh nghiệp việt nam kinh doanh ở nước ngoài

.PDF
118
12
106

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ----***---- TRẦN THANH HẢI ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM KINH DOANH Ở NƯỚC NGOÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ----***---- TRẦN THANH HẢI ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM KINH DOANH Ở NƯỚC NGOÀI Chuyên ngành: Luật quốc Tế Mã số: 60 38 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học : TS. Lê Mai Anh Hà Nội – 2013 MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT DOANH NGHỆP VIỆT NAM KINH 6 DOANH Ở NƯỚC NGOÀI Khái niệm doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài 6 1.1.1 Định nghĩa, phân loại doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài 6 1.1.2 Đặc điểm doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài 9 1.1. 1.2. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài 11 1.2.1 Môi trường chính trị - pháp lý nước sở tại 11 1.2.2 Môi trường kinh tế - văn hoá – xã hội nước sở tại 13 1.2.3 Tác động của môi trường nước sở tại đối với doanh nghiệp Việt Nam hoạt 16 động kinh doanh ở nước ngoài 1.3 Vai trò của doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài 18 1.3.1 Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của nước sở tại 18 1.3.2 Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 22 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LÝ CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 34 KINH DOANH Ở NƯỚC NGOÀI 2.1. Cơ sở xác định địa vị pháp lý của doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài 34 2.1.1 Cơ sở lý luận 34 2.1.2 Cơ sở pháp lý 38 2.2 Thủ tục thành lập doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài 49 2.2.1 Thủ tục thành lập theo pháp luật Việt Nam 49 2.2.2 Thủ tục thành lập theo pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư 51 2.2.3 Thủ tục thành lập văn phòng đại diện tại nước ngoài 54 2.3 Quyền và nghĩa vụ pháp lý của doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở 55 nước ngoài 2.3.1 Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động kinh 55 doanh, đầu tư tại nước nhận đầu tư 2.3.2 Quyền và nghĩa vụ của nước sở tại với doanh nghiệp Việt Nam trong việc 62 tiếp nhận đầu tư. 2.3.3 Vấn đề chấm dứt hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam ở 67 nước ngoài 2.4 Thực trạng thể chế pháp lý về địa vị pháp lý doanh nghiệp Việt Nam 70 kinh doanh ở nước ngoài 2.4.1 Thực trạng pháp luật Việt Nam 70 2.4.2 Thực trạng pháp luật nước nhận đầu tư 81 Chương 3: HOÀN THIỆN ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA DOANH NGHIỆP 90 VIỆT NAM KINH DOANH Ở NƯỚC NGOÀI 3.1 Định hướng hoàn thiện địa vị pháp lý doanh nghiệp Việt Nam kinh 90 doanh ở nước ngoài 3.1.1 Từ góc độ kinh tế thị trường 90 3.1.2 Từ góc độ pháp lý 93 3.2. Các giải pháp hoàn thiện địa vị pháp lý doanh nghiệp Việt Nam kinh 96 doanh ở nước ngoài 3.2.1 Các giải pháp tổng thể 96 3.2.2 Các nhóm giải pháp cụ thể 97 3.2.3 Kiến nghị 102 KẾT LUẬN 105 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 107 DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VÀ CÁC CHỮ VIẾT TẮT AFAS Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ AIA Khu vực đầu tư ASEAN APEC Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á BIT Hiệp định đầu tư song phương BOT Xây dựng- Kinh doanh- Chuyển giao BTA Hiệp định thương mại song phương Việt Nam- Hoa Kỳ CDC Hội đồng Phát triển Campuchia CTCP Công ty cổ phần CNTT Công nghệ thông tin DNVN Doanh nghiệp Việt Nam ĐTRNN Đầu tư ra nước ngoài ĐTNN Đầu tư nước ngoài KHCN & CNTT Khoa học công nghệ và công nghệ thông tin NAFTA Hiệp định về thương mại tự do Bắc Mỹ TRIMS Hiệp định về các biện pháp thương mại liên quan đến đầu tư của WTO TNHH Trách nhiệm hữu hạn FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài WTO Tổ chức Thương mại thế giới MFI Khung pháp lý đa phương về đầu tư MFN Đối xử tối huệ quốc MPDF Chương trình Phát triển Kinh tế Tư nhân NT Đối xử quốc gia DANH MỤC CÁC BIỂU Biểu 1.1: Tỷ suất lợi nhuận và khả năng thu hồi vốn đầu tư Biểu 1.2: Tình hình đầu tư ra nước ngoài của một số Tập đoàn nhà nước Biể u 2.1: Vố n ĐTRNN của Viê ̣t Nam trong giai đoa ̣n từ 1989 – 2011 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đầu tư ra nước ngoài là vấn đề mang tính chất toàn cầu và là xu thế của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Đầu tư ra nước ngoài gắn liền với việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tiếp cận gần khách hàng hơn, tận dụng nguồn tài nguyên, nguyên liệu tại chỗ, tiết kiệm chi phí vận chuyển hàng hóa, tận dụng được quota xuất khẩu của nước sở tại để mở rộng thị trường. Những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng, trung bình 7% mỗi năm. Việt Nam ngày càng có thêm nhiều doanh nghiệp có khả năng tài chính cũng như kinh nghiệm để đầu tư ra nước ngoài. Tính đến hết tháng 02/2012, doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư ra hơn 55 quốc gia và vùng lãnh thổ, không những duy trì, mở rộng thị trường truyền thống mà còn khai phá thành công một số thị trường mới. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng nhận thức được tầm quan trọng của pháp luật đối với việc đầu tư ra nước ngoài trong bối cảnh hội nhập sâu vào đời sống kinh tế khu vực và quốc tế, nhất là sau khi Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của WTO. Văn kiện Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định phát triển nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập là: “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng Phải không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế và sức mạnh tổng hợp của đất nước để chủ động, t í c h cực hội nhập quốc tế sâu rộng và có hiệu quả. Phát triển lực lượng doanh nghiệp trong nước với nhiều thương hiệu mạnh, có sức cạnh tranh cao để làm chủ thị trường trong nước, mở rộng thị trường ngoài nước, g ó p phần bảo đảm độc lập, tự chủ của nền kinh tế” [18]. Trên thực tế, để thực hiện đường lối đổi mới nêu trên của Đảng, nhiều DNVN đã hoạt động kinh doanh ở nước ngoài, như đầu tư; mua bán hàng hóa thương mại.... Trong quá trình chiếm lĩnh thị trường nước ngoài, bên cạnh những thuận lợi và lợi ích thu được, DNVN đã và đang đứng trước không ít thách thức, khó khăn, đe dọa lợi ích sống còn khi hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. 1 Vì vậy, để hỗ trợ DNVN đầu tư ra nước ngoài hiệu quả thì việc đảm bảo địa vị pháp lý cho doanh nghiệp trong hoạt động đầu tư ở nước ngoài có ý nghĩa rất quan trọng. Trên phương diện lý luận và pháp lý, điều này đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống về khung thể chế trong và ngoài nước, nhất là những nước DNVN có hoạt động đầu tư, kết hợp với đánh giá thực tiễn hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp để qua đó hoàn thiện thêm địa vị pháp lý của DNVN. Từ những tiếp cận nêu trên, tác giả đã chọn vấn đề nghiên cứu “địa vị pháp lý của các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài” làm đề tài nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu Qua tra cứu thông tin từ Thư viên Quốc gia; và các nguồn thông tin khác cho thấy cho đến thời điểm luận văn đề cập, lĩnh vực đầu tư nước ngoài đã được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu. Các nghiên cứu của các nhà khoa học trong nước có thể kể đến các công trình nghiên cứu ở cấp Luận văn tiến sỹ như: Luận văn tiến sỹ luật học của Trần Thị hòa Bình (1996) “ Địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước ” với nội dung nghiên cứu chủ yếu về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp nhà nước nói chung; Luận án tiến sỹ Luật học của Hoàng Phước Hiệp (1996) “ Cơ chế điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam”, nghiên cứu đã chỉ ra những vấn đề bất cập và những giải pháp hoàn thiện; Luận án tiến sỹ kinh tế của Hoàng Văn Huấn (1996) “Hoàn thiện chính sách và giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài” là những tài liệu tham khảo có giá trị phục vụ việc nghiên cứu đê tài luận văn. Ngoài ra còn một số đề tài khoa học cấp Bộ do Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2008) “Chính sách khuyến khích đầu tư ra nước ngoài từ các nước đang phát triển và chuyển đổi: Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị chính sách cho Việt Nam”; Báo cáo nghiên cứu thực trạng các quy định của pháp luật về điều kiện đầu tư/kinh doanh định hướng cải cách phù hợp với cam kết gia nhập WTO của Việt Nam do Văn phòng Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (2007)…. Các nhà khoa học nước ngoài cũng có một số nghiên cứu đối với đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam như: WONG DO MKAM (1998) “Đầu tư trực tiếp nước ngoài, những mặt hạn chế và thời cơ”; Các 2 báo cáo tại các hội nghị Thương mại ASEAN hàng năm về tình hình đầu tư nước ngoài của Việt Nam.... Nhìn chung, các công trình nghiên cứu Nghiên cứu quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài của các nhà khoa học trong và ngoài nước đã chỉ ra nhiều nguyên nhân tồn tại trong quản lý nhà nước về đâu tư ra nước ngoài nói chung. Nhưng chưa có đề tài nghiên cứu chuyên sâu về địa vị pháp lý của các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài. Hệ thống Pháp luật quy định địa vị pháp lý của doanh nghiệp kinh doanh ở nước ngoài, có vai trò hết sức quan trọng có ý nghĩa quyết định đến hiệu lực, hiệu quả trong kinh doanh, do đó cần được nghiên cứu một cách thường xuyên để điều chỉnh, bổ sung kịp thời. 3. Mục tiêu nghiên cứu 3.1 Mục tiêu tổng quát Thông qua kết quả nghiên cứu, luận văn hướng tới việc xây dựng và kiến giải một số giải pháp cơ bản nhằm từng bước hoàn thiện địa vị pháp lý của doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài. 3.2 Mục tiêu cụ thể Đánh giá thực trạng địa vị pháp lý của các doanh nghiệp Việt Nam tiến hành hoạt động kinh doanh ở nước ngoài trên cả hai phương diện, thể chế pháp lý và thực tiễn hoạt động tại một số quốc gia, như: Cộng hoà dân chủ Lào, Campuchia, Cộng hoà Liên bang Mianma, Liên bang Nga, là những quốc gia có nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang hoạt động kinh doanh, hay địa bàn mới như Mianma, do yếu tố tương đồng về văn hoá, cùng khu vực, có sự hiểu biết lẫn nhau về phong tục tập quán, tạo thuận lợi trong hợp tác kinh doanh những năm qua, để tìm ra những bất cập cần hoàn thiện. 4. Tính mới và những đóng góp của đề tài Vấn đề địa vị pháp lý của các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài đến nay chưa có công trình nghiên cứu trùng tên được công bố, vì thế những vấn đề tác giả nghiên cứu là hoàn toàn mới. Những đóng góp của luận văn làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận và thực tiễn hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam ở nước 3 ngoài, từ đó đưa ra một số đề xuất hoàn thiện thể chế pháp lý về địa vị pháp lý của doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Nội hàm hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài rất rộng, như: hoạt động tìm kiếm thị trường và ký kết các hợp đồng xuất, nhập khẩu hàng hóa mà, hoạt động đấu thầu xây dựng, cung cấp dịch vụ, đầu tư xây dựng xí nghiệp liên doanh ở nước ngoài, nông lâm nghiệp, sản xuất điện, tài chính, ngân hàng, tiếp theo là các lĩnh vực công nghiệp, khai khoáng và vận tải kho bãi, ngoài ra còn có các lĩnh vực khác như thông tin truyền thông, y tế, thương mại bán buôn, xây dựng, dịch vụ, bất động sản... Do điều kiện nghiên cứu, nên tác giả tập trung đi sâu nghiên đối tượng: Doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. Các quy định của pháp luật quy định về đầu tư nước ngoài và quyền nghĩa vụ của doanh nghiệp. Phạm vi nghiên cứu: Tại các quốc gia Cộng hoà dân chủ Lào, Campuchia, Mianma, Liên bang Nga, thời gian từ năm 2005 đến 2012. 6. Phương pháp nghiên cứu Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, những phương pháp khoa học khác, như so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê cũng được sử dụng để giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra. 7. Kết quả đạt được Đưa ra cơ sở lý luận nghiên cứu địa vị pháp lý của doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài. Đưa ra địa vị pháp lý của doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài. Đưa ra giải pháp hoàn thiện địa vị pháp lý của doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài. 8. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, với kết cấu và nội dung nghiên cứu, như sau: Chương 1: Khái quát doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài. 4 Chương 2: Thực trạng pháp lý của doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài. Chương 3: Hoàn thiện địa vị pháp lý của doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài. 5 Chương 1 KHÁI QUÁT DOANH NGHIỆP VIỆT NAM KINH DOANH Ở NƯỚC NGOÀI 1.1 Khái niệm doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài 1.1.1 Định nghĩa, phân loại doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài Đầu tư ra nước ngoài là xu thế tất yếu, đồng thời là lựa chọn phù hợp với điều kiện phát triển của nền kinh tế nước ta hiện nay nhằm tận dụng có hiệu quả tài nguyên tại chỗ (tức nước địa bàn tiếp nhận dòng vốn đầu tư), mở rộng thị trường, cũng như đẩy mạnh quảng bá, tiếp thị hình ảnh Việt Nam ra nước ngoài. Tháng 02/2009, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án "Thúc đẩy đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài". Đây được xem như "bệ phóng" cho các doanh nghiệp mạnh dạn chọn hướng đi đầu tư ra nước ngoài với quy mô và tầm nhìn mang tính chiến lược. Đề án đặt mục tiêu thúc đẩy hơn nữa hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp, nhằm chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường các biện pháp, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài; đồng thời quản lý có hiệu quả hoạt động này, đặc biệt là đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ cũng định hướng doanh nghiệp không chỉ tiếp tục khai thác và phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế Việt Nam trong đầu tư vào các thị trường truyền thống như Lào, Campuchia, các nước trong khu vực, Nga... mà cũng từng bước mở rộng đầu tư sang các nước, thị trường mới như Mỹ La tinh, Đông Âu, Châu Phi. Trước khi nghiên cứu vấn đề này, cần lưu ý một đặc điểm nổi bật của hệ thống pháp luật Việt Nam, đó là sự tồn tại của các quy định vừa riêng rẽ lại vừa chồng lấn về hoạt động đầu tư, kinh doanh và thương mại. Những quy định về các hoạt động này được điều chỉnh bởi 03 đạo Luật riêng tương ứng, gồm: Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và Luật Thương mại. Chính sự khác biệt này đã dẫn đến cách hiểu khác nhau trong các Luật nêu trên về khái niệm "đầu tư", "kinh doanh", "thương mại", và từ đó cũng hình thành các quy định khác nhau về điều kiện thực hiện các hoạt động đầu tư, kinh doanh và thương mại. Điều 3, Luật Đầu tư quy định các khái niệm cơ bản có liên quan đến đầu tư, gồm: 6 "Đầu tư" là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan; "Đầu tư trực tiếp" là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư; "Đầu tư gián tiếp" là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư [36]. Theo quy định tại khoản 2, Điều 4, Luật Thương mại năm 2005, khái niệm “kinh doanh” nói chung và kinh doanh ở nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam nói riêng, là: việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi [46]. Điều kiện kinh doanh là yêu cầu mà doanh nghiệp phải có hoặc phải thực hiện khi kinh doanh ngành, nghề cụ thể, được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định hoặc yêu cầu khác. Khoản 1, Điều 3, Luật Thương mại quy định: "hoạt động thương mại" là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác [46]. Khác với quy định của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp, ngoài những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại, Luật Thương mại không có quy định chung về khái niệm điều kiện hoạt động thương mại mà chỉ xác định về nguyên tắc việc áp dụng các điều kiện này tương ứng với từng hoạt động thương mại đã nêu ở trên. Theo Điều 4, Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 về doanh nghiệp nói chung là: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. 7 Từ những khái niệm chung nêu trên, có thể đưa ra khái niệm chung về doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài là: Doanh nghiệp Việt Nam có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật Việt Nam, pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, các hiệp định song phương và các điều ước quốc tế mà các bên cùng tham gia, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Vì đối tượng đề tài nghiên cứu là doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, nên có thể hiểu doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài là: Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu tư. Hiện nay, loại hình doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài chủ yếu là các loại hình sau: Một là, Công ty trách nhiệm hữu hạn, gồm Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên Công ty trách nhiệm hữu hạn là doanh nghiệp, trong đó: Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt quá năm mươi; Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp; phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định tại các điều 43, 44 và 45 của Luật Doanh nghiệp năm 2005. Công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát hành cổ phần [31]. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu (sau đây gọi là chủ sở hữu công ty); chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không được quyền phát hành cổ phần [31]. Hai là, Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số 8 lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa; Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật này. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn [31]. Ba là, Văn phòng đại diện tại nước ngoài được quy định tại Điều 37, Luật Doanh nghiệp năm 2009. Văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ đại diện theo uỷ quyền cho lợi ích của doanh nghiệp và bảo vệ các lợi ích đó. Tổ chức và hoạt động của văn phòng đại diện theo quy định của pháp luật. Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của doanh nghiệp kể cả chức năng đại diện theo uỷ quyền. Ngành, nghề kinh doanh của chi nhánh phải phù hợp với ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp. Địa điểm kinh doanh là nơi hoạt động kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp được tổ chức thực hiện. Địa điểm kinh doanh có thể ở ngoài địa chỉ đăng ký trụ sở chính. Chi nhánh, văn phòng đại diện và địa điểm kinh doanh phải mang tên của doanh nghiệp, kèm theo phần bổ sung tương ứng xác định chi nhánh, văn phòng đại diện và địa điểm kinh doanh đó. Doanh nghiệp có quyền lập chi nhánh, văn phòng đại diện ở trong nước và nước ngoài. Doanh nghiệp có thể đặt một hoặc nhiều văn phòng đại diện, chi nhánh tại một địa phương theo địa giới hành chính. Trình tự và thủ tục lập chi nhánh, văn phòng đại diện do Chính phủ quy định[31]. 1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài Trong giai đoạn 1989 - 1998, không lâu sau khi thực hiện cải cách, mở cửa và trước khi Chính phủ ban hành Nghị định 22/1999/NĐ-CP về đầu tư ra nước ngoài, cả nước mới chỉ có 18 dự án đầu tư ra nước ngoài, với tổng số vốn đăng ký đạt 13,6 triệu USD. Nhưng từ năm 1999 đến năm 2005 đã có thêm 131 dự án, với tổng số vốn đăng ký đạt khoảng 560 triệu USD, tăng gấp 7 lần về số dự án và hơn 40 lần về tổng vốn đầu tư đăng ký so với giai đoạn trước [6]. 9 Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 78/2006/NĐ-CP, ngày 09 tháng 8 năm 2006, quy định về đầu tư ra nước ngoài và cho đến hết năm 2008 thì số dự án đầu tư ra nước ngoài tiếp tục tăng nhanh, đạt đến con số 221 dự án, tổng số vốn đăng ký đạt 3,36 tỷ USD [51]. Những năm vừa qua, làn sóng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ. Theo số liệu báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính lũy kế đến 20/12/2012 đã có 712 dự án của doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký đạt 12,4 tỷ USD. Đến nay, Việt Nam đã đầu tư vào 60 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong năm 2012, có 75 dự án đầu tư mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký là 1,3 tỷ USD tại 28 quốc gia và vùng lãnh thổ. Lũy kế đến hết năm 2012, vốn thực hiện ước đạt khoảng 3,8 tỷ USD. Riêng năm 2012 vốn thực hiện đạt khoảng 1,2 tỷ USD, tăng 28% so với năm 2011[6]. Qua nghiên cứu cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài trong giai đoạn này thể hiện những điểm đáng lưu ý: Trong bối cảnh hội nhập nền kinh tế toàn cầu, các doanh nghiệp luôn nỗ lực để khẳng định năng lực bản thân và qua hoạt động của công ty xây dựng nên hình ảnh chung cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hoạt động đầu tư ra nước ngoài đã từng bước đi vào nề nếp, có một số dự án đã bước đầu thành công và đã chuyển lợi nhuận về nước. Xu hướng đầu tư ra nước ngoài đang có sự gia tăng đáng kể vào những địa bàn phù hợp với định hướng đầu tư ra của Việt Nam như Lào, Campuchia, Myanmar... và vào những ngành, lĩnh vực chiến lược Việt Nam có kinh nghiệm như dầu khí, thủy điện, trồng cây công nghiệp, viễn thông,... Hoạt động đầu tư ra nước ngoài đã tạo ra việc làm cho hàng nghìn lao động Việt Nam và hàng vạn lao động của nước tiếp nhận đầu tư. Đến nay, đầu tư ra nước ngoài ở nhiều lĩnh vực đã đạt được nhiều thành công như lĩnh vực dầu khí, bưu chính viễn thông. Hệ thống chính sách, pháp luật về ĐTRNN ngày càng được định hình rõ nét hơn và tiếp tục được hoàn thiện theo hướng ngày càng đơn giản hóa các thủ tục ĐTRNN, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các hoạt động ĐTRNN. Ví dụ như việc quy định tại chương II, Nghị định số 78 ngày 09/8/2006, của Chính phủ quy 10 định về thẩm quyền, thủ tục cấp và điều chỉnh Giấy chúng nhận đầu tư, nhưng với yêu cầu thực trạng cần phân cấp mạnh hơn cho cấp tỉnh thực hiện việc này. Bên cạnh đó, cho thấy: tiềm lực của doanh nghiệp Việt Nam về vốn, công nghệ chưa phải là mạnh; kinh nghiệm quản lý còn hạn chế nên khả năng cạnh tranh thua kém một số nước khác (Trung Quốc, Thái Lan) tại nước tiếp nhận đầu tư. Số lượng dự án và quy mô vốn đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài còn nhỏ do năng lực tài chính và kinh nghiệm đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam còn bị hạn chế. Các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động riêng lẻ, manh mún, thậm chí còn cạnh tranh với nhau ngay trên thị trường bản địa thay vì liên kết lại với nhau để tăng tiềm lực, khả năng cạnh tranh và uy tín đối với các cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại. Thậm chí, một vài doanh nghiệp còn vi phạm pháp luật của nước sở tại, gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của các nhà đầu tư Việt Nam ở nước sở tại. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam không cập nhật các chính sách đầu tư ra nước ngoài của Nhà nước, không thực hiện chế độ báo cáo định kỳ, không thực hiện việc đăng ký thay đổi nội dung hoạt động cũng như hình thức đầu và quy mô ĐTRNN đã tạo ra khó khăn cho doanh nghiệp khi ĐTRNN. 1.2. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài 1.2.1. Môi trường chính trị – pháp lý nước sở tại Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, khi doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài về cơ bản là thuận lợi. Ngày nay, do nhu cầu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại hầu khắp các nước trên thế giới nên trên bình diện tổng thể, các nước đều ban hành chính sách khuyến khích, kêu gọi nước ngoài đầu tư. Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp tại một số quốc gia không quá phức tạp (ví dụ ở LB Nga, Lào). Bên cạnh đó, tính chất của các quan hệ hợp tác về kinh tế giữa Việt Nam với các nước Lào, LB Nga, Campuchia… lại là hữu nghị và đối tác chiến lược nên các doanh nghiệp Việt Nam khi hoạt động kinh doanh ở những nước này đã nhận được sự ủng hộ của Chính phủ hai bên. Doanh nghiệp Việt Nam đầu tư tại Campuchia, do quan hệ hữu nghi ̣hơ ̣p tác truyề n thố ng giữa hai nước luôn đươ ̣c duy trì và ngay càng phát triể n tố t đe ̣p . Chính phủ Campuchia luôn dành những ưu tiên và tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt 11 Nam đầu tư, kinh doanh. Việt Nam và Campuchia gần gũi về địa lý, hoạt động trao đổi về kinh tế cũng như đi lại, xuất nhập khẩu hàng hóa, lao động giữa 2 nước rất thuận lợi. Các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh tại Lào, với tình hình an ninh chính trị, xã hội ổn định, hệ thống pháp luật, pháp lý đầy đủ tạo điều kiện tốt cho nhà đầu tư. Quan hệ đặc biệt giữa hai nước, được vun đắp trên tình hữu nghị anh em. Chính phủ Lào luôn dành những ưu tiên và thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư, kinh doanh. Luật Khuyến khích ĐTNN số 11/QH, ngày 22/10/2004, với mục đích khuyến khích ĐTNN quy định nguyên tắc, cơ chế và các điều khoản liên quan đến khuyến khích, bảo vệ và quản lý ĐTNN ở CHDCND Lào nhằm thúc đẩy mối quan hệ hợp tác với nước ngoài, việc sử dụng nguồn vốn, tri thức để mở rộng sản xuất một cách hiệu quả, từng bước phục vụ CNH và HĐH đất nước, góp phần cải thiện đời sống nhân dân ngày một tốt hơn, xây dựng và phát triển một đất nước giầu mạnh. Tạo cơ sở thuận lợi cho DNVN đầu tư, kinh doanh tại đây. Đối với địa bàn kinh doanh tại Nga, vì hệ thống văn bản pháp luật nói chung và pháp luật về đầu tư nước ngoài tương đối hoàn chỉnh, môi trường kinh doanh minh bạch. Ví dụ, như Luật Liên bang số No. 160 – FZ, ngày 09/7/1999 quy định về đầu tư của nước ngoài tại LB Nga được sửa đổi bổ sung ngày 21/3/2002; 25/7/2002; 08/12/2003; 22/7/2005; 03/6/2006, đã xác định những bảo đảm cơ bản, quyền lợi của các nhà đầu tư nước ngoài đối với các khoản đầu tư và các thu nhập, lợi nhuận thu được từ các đầu tư đó; các điều kiện cho những hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài trên lãnh thổ Liên bang Nga [43], và những điều khoản khác đã tạo điều kiện thuận lợi về môi trường pháp lý, cho DNVN đầu tư, kinh doanh những năm qua. Với quốc gia Mianma, là địa bàn mới mở cửa, văn bản pháp quy điều chỉnh về đầu tư nước ngoài cũng đã được ban hành. Ví dụ, như Luật Đầu tư nước ngoài, tháng 02/1998, cùng với hơn nửa thế kỷ qua, chính phủ và nhân dân Mianma luôn dành cho nhau sự ủng hộ về tinh thần và vật chất cho Việt Nam. Trong ASEAN, Mianma luôn coi trọng quan hệ hợ tác nhiều mặt với Việt Nam, và gần đây nhiều đoàn xúc tiến 12 thương mại của Việt Nam sang tìm kiếm cơ hội đầu tư, kinh doanh tại Mianma. Tạo nhiều thuận lợi về pháp lý cho doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh tại đây. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào các quốc gia này, cũng gặp không ít khó khăn, như hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư của một số nền kinh tế đang trong quá trình sửa đổi, hoàn thiện nên có nhiều thay đổi, không thống nhất, thiếu minh bạch và khó tiếp cận. Tại một số nền kinh tế có sự thiếu nhất quán trong áp dụng chính sách, đặc biệt là các quy định do địa phương đặt ra và áp dụng ngoài các chính sách của nhà nước. Ví dụ, chính sách ưu đãi miễn thuế thu nhập doanh nghiệp của Lào được áp dụng trên toàn quốc nhưng địa phương vẫn thu thêm thuế thu nhập. Bên cạnh đó, thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp tại một số nền kinh tế cũng như các thủ tục triển khai thực hiện dự án đầu tư, như vấn đề thủ tục đất đai, phê duyệt thiết kế.v.v., khá phức tạp, kéo dài thời gian, tốn kém về chi phí cho doanh nghiệp, thủ tục thông quan phức tạp. Ví dụ tại LB Nga, Lào. Đánh giá chung thì môi trường chính trị - pháp lý của nước sở tại có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam, chẳng hạn, nếu tình hình chính trị ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp yên tâm đầu tư lâu dài, khả năng thu hồi vốn nhanh và có lợi nhuận và ngược lại, khi chính trị không ổn định thì quá trình đầu tư gặp nhiều trở ngại, rủi ro cao, dễ bị thất bại. Môi trương pháp lý gắn liền với thể chế, quan điểm chính trị, là công cụ quản lý xã hội có mối quan hệ biện chứng không thể tách dời… Do vậy, môi trường pháp lý rõ ràng, minh bạch giúp cho việc thu hút đầu tư nước ngoài được thuận lợi. 1.2.2. Môi trường kinh tế - văn hoá - xã hội nước sở tại Các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới nói chung và cụ thể tại Lào, Campuchia, Nga và Mianma, thời gian qua cho thấy thuận lợi về môi trường, kinh tế - văn hóa – xã hội, giúp cho doanh nghiệp yên tâm đầu tư, phát triển nguồn vốn của mình. Có thể nói, môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội nước sở tại đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp nhận ĐTNN, tạo sự yên tâm cho doanh nghiệp khi đầu tư, kinh doanh. Thực tiễn cho thấy thời gian qua, Lào, Campuchia, Nga và Mianma vẫn là điểm thu hút DNVN. Tuy nhiên, có sự 13 phân hóa rõ rệt tại các thị trường đầu tư, tùy thuộc vào khả năng cạnh tranh của DNVN. Với các nước phát triển như: Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore… DNVN đầu tư khá nhiều dự án quy mô nhỏ mang tính chất thăm dò thị trường, thuộc lĩnh vực dịch vụ. Ngược lại, tại các nước có trình độ phát triển thấp hơn, DNVN có nhiều dự án đầu tư quy mô lớn, có vốn đăng ký tới 1 tỷ USD. Đồng thời các DNVN cũng mạnh dạn đi vào các ngành có khả năng cạnh tranh cao như khai khoáng; sản xuất nông, lâm, thủy sản, thủy điện; xây dựng …, đặc biệt là hai nước Lào, Campuchia. Thị trường là nhân tố quan trọng nhất thu hút ĐTNN. Các nước phát triển là nơi đầu tư hấp dẫn vì có thị trường rộng lớn, dễ tiếp cận và tham gia thỏa thuận thương mại khu vực. Chi phí đầu vào thấp hoặc có sẵn đầu vào sản xuất phù hợp như nguồn tài nguyên, lao động và hạ tầng cũng là những nhân tố chi phí thu hút ĐTNN từ các nước đang phát triển. Đối với nhiều nước đang phát triển, đầu tư tìm kiếm thị trường ở các nước lân cận là rất phổ biến do khai thác lợi thế và dễ tiếp cận thị trường và có nhiều nét tương đồng, ví dụ: Lào có nhiều tiềm năng để các doanh nghiệp Việt Nam có thể hợp tác đầu tư vào các lĩnh vực như thủy điện, thăm dò, khai thác khoáng sản, trồng cây công nghiệp, chế biến nông - lâm sản… Campuchia: Quan hệ hữu nghi ̣hơ ̣p tác truyề n thố ng giữa hai nước luôn đươ ̣c duy trì và ngay càng phát triển tốt đẹp . Chính phủ Campuchia luôn dành những ưu tiên và tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư, kinh doanh tại Campuchia. Việt Nam và Campuchia gần gũi về địa lý, hoạt động trao đổi về kinh tế cũng như đi lại, xuất nhập khẩu hàng hóa, lao động giữa 2 nước rất thuận lợi. Campuchia còn có nhiều tiềm năng mà các doanh nghiệp Việt Nam có thể hợp tác đầu tư như: thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản, trồng cây công nghiệp, cây cao su, sản xuất, chế biến nông - lâm sản... Một số dự án đầu tư mang tính dẫn đường như hàng không, ngân hàng, viễn thông... đã được cấp phép và đi vào hoạt động có hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án khác sớm triển khai thực hiện và đi vào hoạt động. Cùng với môi trường kinh tế thì môi trường văn hóa nước tiếp nhận ĐTNN cũng là yếu tố có tầm ảnh hưởng nhất định đến các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam. Các hiệp định khu vực hướng tới tăng cường hợp tác sâu rộng của các 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan