Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đề tài nông thôn trong tiểu thuyết của ngô ngọc bội...

Tài liệu đề tài nông thôn trong tiểu thuyết của ngô ngọc bội

.PDF
110
25
55

Mô tả:

1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 VŨ THỊ TOAN ĐỀ TÀI NÔNG THÔN TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NGÔ NGỌC BỘI Chuyên ngành: Lý luận văn học Mã số : 60 22 32 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Phan Trọng Thưởng HÀ NỘI, 2012 2 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều tập thể, cá nhân trong và ngoài trường. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành sâu sắc tới quý thầy cô giáo trong Tổ Lí luận văn học - Khoa Ngữ văn và Phòng Sau đại học - Trường ĐHSP Hà Nội 2 đã tận tình giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất trong suốt thời gian tôi học tập tại đây để hoàn thành luận văn này. Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và sự biết ơn sâu sắc đến PGS. TS. Phan Trọng Thưởng đã dành nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn, chỉ bảo và động viên tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin tỏ lời cảm ơn tới Ban lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Yên Bái, Ban Giám hiệu Trường THPT Văn Chấn - Yên Bái đã tạo mọi điều kiện, giúp đỡ và khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thiện luận văn. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới những người thân trong gia đình, bạn bè và đồng nghiệp luôn bên tôi, động viên tôi trong suốt quá trình hoàn thành khóa học. Hà Nội, ngày 10 tháng 6 năm 2012 Tác giả luận văn Vũ Thị Toan 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Phan Trọng Thưởng. Kết quả nghiên cứu này không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm với nội dung công trình khoa học này. Hà Nội, ngày 10 tháng 6 năm 2012 Tác giả luận văn Vũ Thị Toan 4 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Nông nghiệp và nông thôn luôn là mảnh đất màu mỡ phì nhiêu, nuôi dưỡng vun đắp cho bao thế hệ nhà văn trưởng thành và phát triển. Với các tên tuổi như Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Kim Lân trong văn học giai đoạn 1930-1945 thì đến những năm 1960 trở về sau chủ đề ấy lại đựợc khẳng định ở các tên tuổi như: Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Khuất Quang Thụy, Chu Lai, Nguyễn Quang Thiều, Hồ Anh Thái, Hoàng Minh Tường, Nhật Tấn, Phan Tứ, Nguyễn Ngọc Tư… và nhà văn Ngô Ngọc Bội. Đề tài nông thôn luôn là cảm hứng vô tận của các nhà văn trong những thời điểm lịch sử khác nhau và mang những dấu ấn đặc biệt khác nhau. Nó có sức mạnh cổ vũ lớn lao cho người nghệ sĩ nung nấu, nuôi dưỡng đứa con tinh thần của mình ra đời. Nếu như đề tài nông thôn trong văn học giai đoạn trước (1930-1945) chủ yếu đề cập đến vấn đề giai cấp, địa chủ với nông dân và sự áp bức bóc lột của chế độ thực dân phong kiến làm cho đời sống của người nông dân vô cùng cực khổ, thì văn học từ những năm 1960 trở lại đây, đặc biệt là những năm 1960-1986 mảng đề tài này gắn với hợp tác hóa nông nghiệp, với cải cách ruộng đất. Diện mạo nông thôn có nhiều biến đổi và ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của người nông dân. Số phận của người nông dân được miêu tả một cách chân thực và sinh động trong mối quan hệ đa chiều, phức tạp. Bộ máy quản lí của Nhà nước từ cấp thôn, xã đến cấp huyện và cao hơn nữa ngoài những mặt tích cực thì vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế, tiêu cực có tác động trực tiếp đến cuộc sống và tinh thần của người nông dân trong thời kì đổi mới. Trong số những nhà văn tiêu biểu viết về đề tài nông thôn, Ngô Ngọc Bội là một nhà văn thuộc thế hệ trưởng thành gắn bó với làng quê miền Trung 5 du Bắc Bộ. Với sự đa dạng về mặt thể loại như: kí, truyện ngắn, tiểu thuyết nhưng chỉ viết về một đề tài tam nông, nên sáng tác của nhà văn đạt được nhiều thành tựu. Gần đây nhất là giải thưởng: Tác phẩm văn học xuất sắc về Nông nghiệp - Nông dân - Nông thôn do Bộ Nông Nghiệp và Nông thôn và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức ngày 3/6/2011 với tiểu thuyết Lá Non được bạn đọc đón nhận nồng nhiệt. Cũng viết về đề tài nông thôn nhưng phong cách sáng tác trong các tác phẩm của Ngô Ngọc Bội mang những sắc thái riêng, khác biệt với các nhà văn cùng thời. Tác phẩm của ông đã phản ánh mọi chính sách có liên quan đến nông nghiệp trong thời kì đổi mới. Nội dung bao trùm trong các sáng tác của ông là hướng về số phận người nông dân và đời sống nông thôn, những hoạt động đời sống tình cảm và sản xuất trong nông thôn, nông nghiệp. Không gian và thời gian nghệ thuật trong các tác phẩm của nhà văn có sự cách điệu từ không gian và thời gian thường nhật của chính miền Trung du Phú Thọ. Ông được mệnh danh là “người lấy nước ao làng làm mực viết” (Nguyễn Anh Đào). Đây là đề tài không mới nhưng nó như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt của văn học Việt Nam từ xưa cho đến nay. Nếu chỉ nhìn ở bề ngoài, bề nổi thì Ngô Ngọc Bội không thuộc số nhà văn nổi cồn, danh tiếng. Nhưng có những điều nhà văn phát hiện, phản ánh, tiên đoán về con người và xã hội trong một thời kì lịch sử thì không phải nhà văn nào cũng hiểu hết và mạnh dạn bộc lộ. Vì lẽ đó mà những thành tựu về sáng tác của nhà văn được bạn đọc biết đến còn khiêm tốn và dè dặt. Hơn thế đây cũng là niềm yêu thích và đam mê tìm hiểu của người viết luận văn về đề tài nông thôn trong tiểu thuyết của nhà văn, muốn góp phần nhỏ bé của mình qua việc tìm hiểu, nghiên cứu về đề tài này trong văn học nước nhà. Vì thế luận văn có tên là: “Đề tài nông thôn trong tiểu thuyết của Ngô Ngọc Bội”. 6 2. Lịch sử vấn đề Nông nghiệp, nông thôn và nông dân luôn là mảnh đất nuôi dưỡng những giá trị bản sắc văn hóa dân tộc. Song song với đề tài viết về chiến tranh thì đề tài nông thôn cũng làm nên những thành tựu lớn của văn học Việt Nam. Cùng với nhiều nhà văn xuất sắc khác viết về đề tài này, nhà văn Ngô Ngọc Bội đã đóng góp phần nào tài năng của mình trong sự nghiệp phát triển văn học dân tộc thời kì đổi mới. Trong quá trình tìm hiểu và thu thập tài liệu, chúng tôi sưu tập được một số bài viết phê bình, bình luận, nghiên cứu về các sáng tác của nhà văn như sau: Trong buổi Lễ trao giải thưởng cho các tác phẩm văn học, ca khúc sáng tác về đề tài Nông nghiệp - Nông dân - Nông thôn do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phối hợp với Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức vào ngày 3/6/2011 nhà văn Văn Chinh phát biểu về nhà văn Ngô Ngọc Bội: “Trong các lão nông văn học giờ chỉ có Ngô Ngọc Bội còn son sắt với nông thôn. Nhà văn hơn 80 tuổi này có niềm tự hào lạ lùng. Từ Phú Thọ về Hà Nội nhưng chỉ viết về một đề tài tam nông, chỉ in một báo Văn nghệ và chỉ đi một xe đạp”. Ngô Kim Đỉnh trong bài “Phong cách Ngô Ngọc Bội”[10] có đoạn nhận xét về nhà văn:“chỉ viết về nông thôn về người nông dân và cũng chỉ dành ngòi bút mình cho một vùng quê đồi Trung du”[10, tr.5]. Nói về “Tính Đảng trong các tiểu thuyết của Ngô Ngọc Bội”[40], tác giả bài viết đã chỉ ra giá trị trong các tiểu thuyết của Ngô Ngọc Bội là tính Đảng: “tính Đảng thể hiện ở nhà văn Ngô Ngọc Bội là ý thức hướng về phục vụ hàng triệu nông dân lao động sản xuất nông nghiệp với tinh thần khoa học sâu sắc nhất, tinh thần cách mạng triệt để nhẩt nên nó không thể hiện một động cơ cá nhân nào, không có tư lợi về tiền tài, địa vị. Tính chiến đấu ấy nhằm vào tất cả những cái lạc hậu, bảo thủ, lười biếng của nông dân cá thể, nhằm vào cái sai lầm do ấu trĩ, nôn nóng, bồng bột, tuỳ tiện, phe cánh, quan liêu, bảo thủ, tham ô, hủ hoá, lũng đoạn, vô trách nhiệm, thiếu tính khoa học, 7 xa rời nhân dân của cán bộ, đảng viên ở các cấp thôn, xã, huyện, tỉnh. Nó cũng không né tránh cả việc phản ánh phê phán những sai lầm do chính đường lối của Đảng trong chính sách cải cách ruộng đất, chính sách tập thể hoá sản xuất nông nghiệp trong quá trình xây dựng hợp tác xã cấp thấp và cấp cao”[40, tr.17]. Nói như tác giả bài viết thì tính Đảng trong tiểu thuyết của Ngô Ngọc Bội gắn liền với nhân dân, với quần chung lao động, và nhà văn đã chỉ ra phần nào cái gốc rễ sự thất bại của các chủ trương sản xuất lớn trong nông nghiệp. Dương Huy Thiện trên trang “Trang đời trang sách” đã nhận xét về tác phẩm Mênh mang cổng trời của Ngô Ngọc Bội như sau: “Mênh mang cổng trời mang tính tổng hợp với độ chín về bút pháp, thể hiện rõ style Ngô Ngọc Bội. Con người trong tác phẩm là con người có xương, có thịt hệt như người ngoài đời”. Nhà văn Văn Chinh đã dành khá nhiều bài viết của mình về nhà văn Ngô Ngọc Bội. Trong bài viết “Ngô Ngọc Bội - nhà văn của chiếc áo mới mặc buổi đêm” trên mục Chân dung nghệ sĩ văn học nghệ thuật Phú Thọ có đoạn: “Ngô Ngọc Bội, ngoài cái thiên bẩm mạnh mẽ, ông còn một phông văn hoá vững vàng học hỏi và tích tụ từ trí tuệ dân gian. Ông là người tiên khởi về vấn đề dòng họ, tinh thần bè phái phe giáp trong nội bộ ở tiểu thuyết Lá non, hơn mười năm trước cái Mảnh đất lắm người nhiều ma xuất hiện”. Để khẳng định tài năng, chất văn chương nông thôn của Ngô Ngọc Bội như một điểm sáng làm nên vệt sáng của sao chổi văn xuôi, Văn Chinh còn nhận xét: “Người sinh ra chỉ chuyên viết về nông dân, nông thôn, học hành không nhiều nhưng như một ông Phêrô gác cửa thiên đàng văn học, ông đã mở cửa để làm nên vệt sáng của sao chổi văn xuôi gần hai thập kỉ trên báo Văn nghệ. Ấy là thiên lương vậy”. 8 Cũng viết về nhà văn Ngô Ngọc Bội, trên trang Vietbao.vn ngày 14/10/2007 nhà văn - nhà giáo Nguyễn Anh Đào có viết: “Thế mạnh của Ngô Ngọc Bội ham mê và kiên gan với văn chương nhiều hơn là bản năng văn chương. Đọc văn ông như thấy ông đang trèo cọ hom tàn, đang cuốc nương đồi sỏi, hoang dại, giản đơn nhưng không phải ai cũng có thể viết như ông. Một tấm gương nông dân viết văn thành nhà văn”. Trong Hội thảo khoa học nhà văn Ngô Ngọc Bội - Nguyễn Hữu Nhàn với đề tài Nông nghiệp - Nông thôn - Nông dân do Hội Nhà văn Việt Nam và Hội văn học nghệ thuật Phú Thọ phối hợp tổ chức ngày 28/11/2009 tại thành phố Việt Trì - Phú Thọ. Cuộc hội thảo đã đánh giá cao vị trí của nhà văn qua những sáng tác viết về đề tài Nông nghiệp - Nông thôn - Nông dân. Các tác phẩm như Chị Cả Phây, Ao Làng, Ác mộng, Lá non… đã phác họa những bức tranh nông thôn và những người nông dân khi chưa có đường lối đổi mới của Đảng, quẩn quanh tù túng cùng với những “Nỗi riêng khép mở”. Trong cuốn Nhà văn hiện đại Vĩnh Phú do nhóm tác giả biên soạn của Viện văn học thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội TW, gồm 30 nhà văn, nhà thơ quê ở Vĩnh Phú. Về nhà văn Ngô Ngọc Bội do PGS. TS. Mai Hương biên soạn. Chị Mai Hương đã tự đọc và tự ghi âm tặng riêng anh Bội bài chị viết tháng 7/1993. Trong bài viết của mình, PGS. TS. Mai Hương đã đánh rất cao về con người cũng như quá trình sáng tác của nhà văn: “Phải nói ít người có ưu điểm mọi bề như Ngô Ngọc Bội, sinh ra ở nông thôn, đã từng lặn lội trong cải cách ruộng đất, đã qua mười năm liên tục ở cơ sở, cùng vật lộn với người nông dân trong mọi việc: chống úng, chống lụt, chống hạn, chống đói, chống rét, tổ chức hợp tác xã vòng I, vòng II. Và dẫu cho rằng xa rời Trung du về sống giữa đô thành anh vẫn là người trong cuộc. Vẫn da diết, trăn trở, chia từng niềm vui, nỗi buồn cùng người nông dân, cùng xót xa với những thất bại, nổi 9 chìm của quê nghèo”[18, tr.183]. Về nghệ thuật, PGS. TS. Mai Hương cũng rất công bằng, phân minh khi đưa ra lời nhận xét đánh giá về nhà văn như sau: "Đọc anh có người nhận xét: Kết cấu tác phẩm cổ điển, chất phóng sự khá rõ, nhiều chỗ dàn trải, dài dòng. Những nhận xét có thể ít nhiều có lí, nhưng đọc anh, điều ai cũng phải khẳng định: anh đã lao động công phu biết bao trong từng trang sách. Không kể đến những ưu điểm nổi trội anh tiếp nhận được từ quần chúng"[18, tr.188]. Song song với tiểu thuyết thì truyện ngắn và bút kí của Ngô Ngọc Bội cũng đạt được những thành tựu với nhiều tác phẩm xuất sắc như: Đồng lực, Đồi vàng, Tình cát sỏi, Nỗi riêng khép mở, Bộ quần áo mới, Chị cả Phây… Trong bài viết của mình PGS. TS. Mai Hương nói về khả năng sáng tác cũng như tâm tư, tình cảm đầy nhiệt huyết của nhà văn thông qua tác phẩm:“Thực ra Ngô Ngọc Bội không viết nhiều truyện ngắn, nhưng truyện của anh cứ chất chứa một tâm sự, một trăn trở đầy trách nhiệm tâm huyết mà anh đã phát hiện được”[18, tr.186]. Còn bút kí của nhà văn có lẽ không chỉ đạt về chất mà còn cả về khối, hàng loạt các bài bút kí của tác giả như lời nhận xét, đánh giá của PGS. TS. Mai Hương thì đã: “phát hiện, đề cập đến những vấn đề cấp thiết có ý nghĩa tác động trực tiếp đến đời sống… ai đã từng đọc khó có thể bàng quan, không nghĩ, không băn khoăn trăn trở và không thấy một nhu cầu: Phải góp phần giải quyết, tháo gỡ”[18, tr.186]. Trên báo Văn nghệ số 50 (11-12-2010), Nguyễn Văn Chương ở thành phố Vinh - Nghệ An cũng có bài viết “Đọc Hoa Ngọc Bút” của Ngô Ngọc Bội. Bài viết ngoài việc ca ngợi nội dung tác phẩm, khẳng định tài năng viết sáng tạo, hấp dẫn lôi cuốn thì theo Nguyễn Viết Chương, thành công của tác phẩm Hoa Ngọc Bút của nhà văn là: “Đằng sau những câu chữ bình dị, ngôn ngữ mộc mạc, câu văn ngắn gọn đại chúng còn có những lớp ngữ nghĩa tiềm ẩn (vô ngôn) như những lớp quặng trầm tích nằm sâu trong lòng đất có giá trị thông điệp được nhiều điều dành cho người đọc suy ngẫm”[25, tr.22]. 10 Trên đây là một số trong nhiều bài viết chúng tôi sưu tầm được làm minh chứng cho sự quan tâm, yêu thích và cả sự ngưỡng mộ, trân trọng tài năng nhà văn Ngô Ngọc Bội của độc giả với nhiều ý kiến khen, chê khác nhau. Có thể nhận thấy, các bài viết trên mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu, cảm nhận, phê bình, phân tích, lí giải một cách khái quát về đề tài nông nghiệp, nông thôn trong các sáng tác của nhà văn, chứ chưa đi sâu nghiên cứu, lí giải nó một cách cụ thể, có hệ thống vào nhân vật, tác phẩm để thấy được vị trí cũng như giá trị văn chương của Ngô Ngọc Bội trong văn học nước nhà. Nhưng cũng không thể phủ nhận rằng các bài viết ngợi ca, phân tích, khái quát giá trị nội dung cũng như nghệ thuật tác phẩm có giá trị tham khảo, là tư liệu cần thiết và bổ ích đối với các thế hệ quan tâm đến chuyên đề này. 3. Mục đích nghiên cứu Khi tiến hành nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hướng tới những mục đích nghiên cứu sau: Thứ nhất, khi nghiên cứu vấn đề nông thôn trong tiểu thuyết của Ngô Ngọc Bội, chúng tôi cố gắng tái hiện toàn cảnh bức tranh đời sống nông thôn miền Trung du Bắc Bộ thời kì đổi mới trong mối quan hệ phức tạp, đa chiều. Thứ hai, chúng tôi quan tâm đến vấn đề số phận người nông dân trước sự đổi thay của xã hội. Thứ ba, chúng tôi tìm ra những đặc điểm nổi bật về nghệ thuật, thấy được những sáng tạo và đóng góp của nhà văn viết về đề tài nông thôn. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau: Trước hết, luận văn cố gắng tìm hiểu, tái hiện diện mạo nông thôn trong lịch sử văn học từ văn học dân gian đến văn học hiện đại và sự hình thành đội ngũ nhà văn viết về nông thôn. Đó là cơ sở xác lập cảm hứng sáng tác về đề tài nông thôn của nhà văn. 11 Thứ hai, để chứng minh cho tiểu thuyết của Ngô Ngọc Bội đạt được những giá trị nổi bật về nội dung và nghệ thuật, thấy được những điểm riêng và sự cống hiến của nhà văn, luận văn sẽ tập trung tìm hiểu, phân tích, lí giải những vấn đề của nông thôn trong thời kì đổi mới với bản sắc văn hóa, hiện thực xã hội, số phận người nông dân để thấy được tầm nhìn, những dự báo của nhà văn về vấn đề này. Cuối cùng, luận văn đi sâu vào phân tích một số đặc điểm cơ bản về phương diện nghệ thuật thể hiện bức tranh nông thôn trong tiểu thuyết của nhà văn. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Trong phạm vi đề tài nghiên cứu, luận văn chỉ tập trung khảo sát bức tranh nông thôn ở vùng Trung du miền Bắc Việt Nam qua tiểu thuyết của nhà văn Ngô Ngọc Bội. Những vấn đề đó tập trung trong một số tiểu thuyết của nhà văn như: Ao Làng (1975), Lá non (1987), Ác mộng (1990), Gió đưa cành trúc (1992), Mênh mang cổng trời (1996), Tơ vương (2000), Đường trường khuất khúc (2003). 5.2. Phạm vi nghiên cứu Văn học thời kì đổi mới phần lớn phản ánh những vấn đề xã hội như: vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề chiến tranh, hậu chiến tranh, vấn đề con người và quan niệm về giá trị con người trong môi trường xã hội mới… Ở đề tài này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu trong phạm vi tìm hiểu, khai thác vấn đề nông thôn trong tiểu thuyết của Ngô Ngọc Bội. 6. Phương pháp nghiên cứu Với yêu cầu và mục đích hướng tới của đề tài, chúng tôi đã vận dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp thống kê Phương pháp so sánh, đối chiếu Phương pháp phân tích tổng 12 7. Đóng góp của luận văn Luận văn là công trình đầu tiên khảo sát một cách cụ thể về đề tài nông thôn trong tiểu thuyết của Ngô Ngọc Bội. Với một nhà văn suốt đời lặng lẽ góp nhặt những chữ của đời để viết nên trang, phải chăng sự lặng lẽ, âm thầm ấy khiến cho bạn đọc chưa thực sự hiểu hết được giá trị văn chương của tác giả có ý nghĩa to lớn trong quá trình phát triển của văn học dân tộc. Vì thế tác giả luận văn cố gắng tìm hiểu và lí giải về giá trị nội dung cũng như đặc sắc về nghệ thuật trong tiểu thuyết của nhà văn để bạn đọc quan tâm hơn, có cái nhìn khách quan và thiện chí hơn về sự nghiệp văn chương của tác giả. Luận văn cũng đóng góp thêm tiếng nói cá nhân của người nghiên cứu vào việc khẳng định giá trị tác phẩm và tài năng của nhà văn trên văn đàn văn học về đề tài nông thôn. 8. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn có cấu trúc gồm 3 phần: Chương 1: Đề tài nông thôn trong lịch sử văn học Chương 2: Những vấn đề của nông thôn Việt Nam trong tiểu thuyết của Ngô Ngọc Bội Chương 3: Nghệ thuật thể hiện bức tranh nông thôn trong tiểu thuyết của Ngô Ngọc Bội 13 NỘI DUNG Chương 1 ĐỀ TÀI NÔNG THÔN TRONG LỊCH SỬ VĂN HỌC 1.1. Khái quát chung về đề tài nông thôn trong văn học 1.1.1. Đề tài nông thôn trong văn học dân gian Điểm xuất phát và truyền thống của người Việt bắt nguồn từ nền văn minh sông Hồng gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước. Từ xa xưa, bao đời nay, ông cha ta, những người dân đất Việt sinh ra, lớn lên và trưởng thành từ cái nôi của nền văn minh nông nghiệp ấy. Văn học dân gian là chiếc cầu nối chuyển tải những tâm tư, tình cảm của con người, là ngợi ca cuộc sống nông nghiệp của nhân dân ta. Văn học dân gian ngày được nhân dân lao động nhận thức và đón nhận như một hoạt động nghệ thuật (không chuyên nghiệp) trong lao động sản xuất và người nông dân trở thành đối tượng phản ánh chủ đạo trong các bài ca dao, dân ca, tục ngữ... Tên của mỗi thể loại gắn liền với tên của mỗi hình thái lao động cụ thể. Nó được hình thành và được trình diễn kèm theo với hoạt động lao động, gắn bó và quen thuộc với nhiều dân tộc anh em, nhất là các dân tộc Tây Nguyên. Chẳng hạn, dấu hiệu khiến người ta rủ nhau lên rừng phát nương để bắt đầu một vụ sản xuất mới là lời ca lao động hòa cùng tiếng dao rựa chặt cây ồn ã, khẩn trương, nhộn nhịp: Hô… hô… hô… hô… Anh đốn cây to Chị chặt cây nhỏ Cỏ rạp cây ngã Đã bạt bao đời (Dân ca Tây Nguyên) Cuộc sống của người nông dân vất vả một năng hai sương, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, bao cơ cực, nghèo khó, nhọc nhằn ấy được nhân dân 14 lao động gửi gắm trong những bài ca dao, những lời hát ru như thấm sâu vào tâm hồn mỗi con người, nuôi nấng bao thế hệ trưởng thành. Để rồi mỗi khi đi xa, khi nghĩ về quê hương, về cái nôi đã nuôi dưỡng sinh thành ấy lại bồi hồi, xúc động. Chính cuộc sống bần hàn ấy đã giúp con người có nghị lực vượt lên những khó khăn, chông gai, trở ngại trong cuộc sống: Cày đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày Ai ơi bưng bát cơm đầy Rẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần Hay cuộc sống nông nghiệp của người nông dân còn gắn với tình nghĩa vợ chồng, sẻ chia những lúc buồn, vui, đem đến cho họ niềm lạc quan vào cuộc sống nghèo nhưng hạnh phúc, yên bình: Trên đồng cạn, dưới đồng sâu Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa Bằng những câu nói ngắn gọn, súc tích, tục ngữ “diễn đạt rất hoàn hảo toàn bộ đời sống, kinh nghiệm xã hội - lịch sử của nhân dân lao động” (M.Gorki). Tục ngữ vừa tổng kết những kinh nghiệm sống, vừa thể hiện lí tưởng sống của nhân dân trong một hình thức đặc thù mang tính nghệ thuật của ngôn ngữ dân gian. Trong loại tục ngữ về kinh nghiệm và kĩ thuật trồng trọt, chăn nuôi, đánh cá, thì tục ngữ nói về làm ruộng chiếm đa số. Chẳng hạn, kinh nghiệm chăm bón cây trồng được nhân dân đúc kết: - Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân - Một lượt tát, một bát cơm Trong thể loại truyện, thần thoại, sử thi đều phản ánh đến cuộc đời, số phận của con người, đặc biệt là người nông dân lao động. Hình ảnh các nhân vật: cô Tấm (Tấm Cám), Lang Liêu (Bánh Chưng, bánh Dày), Đam Săn (Sử thi Đam Săn), Thánh Gióng (Phù Đổng Thiên Vương)… đều mang dấu ấn và 15 thấm nhuần chất nông dân từ con người, tính cách, suy nghĩ đến hành động để cuối cùng dù có chết thì lòng họ vẫn hướng về nhân dân, sự bình yên no ấm của nhân dân và họ cũng bất tử trong lòng nhân dân. Đây là thời kì mà những thể loại như tiểu thuyết, thơ mới… chưa xuất hiện thì các thể loại của văn học dân gian chiếm vị trí độc tôn và đề tài nông thôn vẫn chiếm một vị trí quan trọng, chi phối nhiều trong các sáng tác văn học làm nên diện mạo của văn học dân gian. 1.1.2. Đề tài nông thôn trong văn học trung đại Tiếp nối quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, bên cạnh mảng văn học dân gian thì văn học giai đoạn này có những bước ngoặt lớn, đó là sự ra đời của văn học viết, sự xuất hiện của văn học chữ Nôm. Những bước ngoặt này mở ra sự phát triển toàn diện, mạnh mẽ của văn học dân tộc. Bên cạnh văn học dân gian đã có văn học thành văn, bên cạnh văn học chữ Hán đã có văn học chữ Nôm, các thể loại văn học cũng rất phong phú và đa dạng như: văn chính luận, thơ, phú, cáo, chiếu, biểu, văn xuôi, văn vần, hịch, truyện truyền kì, kí. Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo là hai cảm hứng lớn, xuyên suốt quá trình tồn tại và phát triển của văn học trung đại Việt Nam. Do ảnh hưởng của mĩ học Trung Hoa mà văn học thời kì trung đại còn hướng tới đề tài cao quý như: tùng, cúc, trúc, mai, trăng, hoa, tuyết, nguyệt. Trong dòng văn chương bác học truyền thống, người sáng tạo chủ yếu là tầng lớp trí thức nho sĩ phong kiến. Quan niệm văn chương của họ không tách rời đạo lí (văn dĩ tải đạo). Họ viết văn, làm thơ để bộc bạch Tâm - Chí - Đạo theo lí tưởng nho gia, đề cao khí phách của người quân tử. Thước đo giá trị văn chương là ở sự thấm nhuần đạo lí, cương thường, nghĩa vua tôi, văn chương nhà nho chỉ say sưa hướng tới cái đẹp: tùng, cúc, trúc, mai, cái uyên thâm của điển tích, điển cố, cái thiện của cái Tâm. Bên cạnh đó thì mảng đề tài viết về nông thôn vẫn có một vị trí quan trọng, là nguồn cảm hứng sáng tác của các nhà văn, 16 nhà thơ xưa. Nhưng, nếu trong văn học dân gian, đề tài nông thôn là tiếng nói phản ánh cuộc sống của người dân lao động: nghèo, thuần nông, lạc quan, yêu đời thì đến với văn học trung đại, đề tài nông thôn tập trung thể hiện cuộc sống thanh nhàn, thú điền viên, ẩn dật nơi thôn quê dân dã với tất cả những gì rất đỗi gần gũi, quen thuộc của cuộc sống và con người thôn quê. Điều đó được thể hiện trong một số tác phẩm của tác gia Nguyễn Trãi: Một cày một cuốc thú nhà quê Áng cúc lan xen vãi đậu kê (Thuật hứng-Bài 3) Nông thôn trong thơ Nguyễn Trãi với công việc đồng áng của nhà nông về rau cỏ, sản vật thường ngày của quê hương, đất nước mình với vẻ đẹp giàu “chất thơ” trong những cảnh vật rất bình thường, đơn sơ, mộc mạc. Nông thôn trong mối quan hệ giữa thiên nhiên với đời sống lao động sản xuất của con người: Ao cạn vớt bèo cấy muống Đìa thanh cỏ ương sen (Thuật hứng - Bài 24) Cũng giống như thơ Nôm Nguyễn Trãi, thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm phản ánh cuộc sống nông thôn với vẻ đẹp bình dị, mộc mạc, tự nhiên: Một mai, một cuốc, một cần câu, Thơ thẩn dầu ai vui thú nào. Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ, Người khôn, người đến chốn lao xao. (Thơ chữ Nôm - Bài 79) Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn nhất và cuối cùng của văn học trung đại. Ông được coi là nhà thơ số 1 viết về nông thôn của văn học dân tộc. Làm nên cái độc đáo của riêng nhà thơ thì chủ yếu là những vần thơ 17 Nguyễn Khuyến viết về nông thôn, với con người, cảnh vật thiên nhiên và phong tục tập quán. Điều kì lạ là nông thôn Việt Nam đã tồn tại hàng ngàn năm và đã xuất hiện nhiều trong thơ ca, nhưng đến với Nguyễn Khuyến, văn học mới thực sự bước xuống ruộng đồng, đến với người dân nơi thôn dã và cuộc sống lam lũ của người nông dân lao động. Tất cả được hiện ra một cách cụ thể và sinh động. Thơ của ông cũng vượt qua được những sáo mòn “tuyết, nguyệt, phong, hoa” của thi ca cổ để miêu tả cảnh thực, tình thực với những hình ảnh cụ thể của cảnh sắc Việt Nam như: ao cá, bờ tre, ngõ trúc, vườn cà, vườn vải... Nội dung chủ yếu trong thơ Nguyễn Khuyến là bức tranh phong cảnh đồng quê, cuộc sống sinh hoạt nông thôn, cảnh làm ăn thất bát, cảnh vỡ đê lụt lội, cảnh sống bần hàn, đạm bạc của người nông dân phải chạy ăn từng bữa, đong đếm, cân đo từng xu: Năm nay cày cấy vẫn chân thua Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa Phần thuế quan Tây, phần trả nợ Nửa công đứa ở, nửa thuê bò Sớm trưa muối cho qua bữa Chợ búa trầu chè chẳng dám mua. (Chốn quê) Ông còn được mệnh danh là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam với chùm thơ thu: Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm. Chùm thơ thu là bức tranh nông thôn về đồng bằng Bắc Bộ, là khung cảnh thiên nhiên đẹp của mùa thu thanh bình, yên ả sống động chứ không ước lệ như trong văn chương, sách vở. Hay trong thơ Tú Xương, cuộc sống của người nông dân cũng hiện lên cụ thể, sinh động với bao nỗi vất vả, cơ cực, cuộc sống mưu sinh đầy khó khăn, khốn khó: Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng 18 Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông... (Thương vợ) Có thể thấy trong văn học trung đại, đề tài nông thôn nhìn chung phản ánh đời sống sinh hoạt của người nông dân nghèo, khó nhọc, nhưng cuộc sống làng quê cơ bản thanh bình, yên ả, lạc quan, yêu đời. 1.1.3. Đề tài nông thôn trong văn học hiện đại 1.1.3.1. Giai đoạn 1930 - 1945 Cùng với quá trình vận động của lịch sử, đến đầu thế kỉ XX, trước những biến động chính trị và xã hội sâu sắc, trước xu thế tư sản hóa đa dạng diễn ra như một tất yếu, nhà nho mất dần vị trí của mình trên vũ đài lịch sử. Do sự ngoại nhập của văn hóa Phương Tây, sự ra đời của các thể loại văn học: truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ đã làm thay đổi căn bản quan niệm và diện mạo văn học truyền thống, từ văn học giáo huấn sang văn học hiện thực. Văn học thời kì này phản ánh sự xâm nhập sâu sắc của chế độ thực dân tới đời sống nông thôn Việt Nam. Một trong những vấn đề nóng được nhiều tác giả quan tâm và phản ánh là đề tài nông thôn và cuộc sống của người nông dân trước những biến chuyển, đổi thay của xã hội. Với các tên tuổi được khẳng định trên văn đàn như: Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Kim Lân, Thạch Lam... đặc biệt là Nam Cao, một cây bút của nền văn học hiện thực phê phán. Văn học giai đoạn này chủ yếu phản ánh cuộc sống tối tăm, bần cùng của người nông dân trong xã hội cũ. Thành công của những trang viết về đề tài nông thôn trong giai đoạn này là các nhà văn đã phản ánh được một cách chân thực, sâu sắc hiện thực bức tranh nông thôn trước Cách mạng tháng Tám. Đó là nông thôn của sưu cao thuế nặng, vô lí và bất công, của những thủ đoạn bóc lột tàn nhẫn, trắng trợn. Đặc biệt là hiện tượng người nông dân bị tha hóa, biến chất cả nhân hình lẫn nhân tính, đồng thời là vẻ đẹp tâm hồn, khát vọng 19 và sức sống mãnh liệt của họ: Chí Phèo (Nam Cao), Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan)... Văn xuôi viết về nông thôn còn mang đậm chất phong tục từ cách cảm, cách nghĩ đến cách thể hiện. Đó là đời sống làm lụng cơ cực, những ước mơ giản dị, những phong tục thuần phác cùng với khung cảnh nông thôn khá êm đềm, yên tĩnh: Chồng con, Sau lũy tre, Con trâu (Trần Tiêu). Còn những sáng tác của Thạch Lam, có nhiều truyện ngắn tuy không trực tiếp miêu tả người nông dân lao động nhưng đã thể hiện rất rõ cuộc sống phẳng lặng, tù đọng, bế tắc, mòn mỏi, ước mơ mong manh, mơ hồ, tội nghiệp của người nông dân trước cách mạng: Hai đứa trẻ, Cô hàng xén... 1.1.3.2. Giai đoạn 1945-1985 Cuộc cách mạng tháng Tám thành công đã đem đến cho người nông dân cuộc sống mới, sinh mệnh mới. Đó là sự giải phóng khỏi kiếp sống nô lệ, tôi tớ. Đây là giai đoạn văn học của công nông binh giảm tô, cải cách. Bao trùm không khí cả nước là nông dân làm chủ cuộc sống tự do cá nhân, làm chủ ruộng đất, nông dân tham gia kháng chiến giải phóng đất nước. Các chiến sĩ cách mạng xuất thân từ nông thôn, từ các làng quê sau lũy tre làng, chân lấm tay bùn, lam lũ, cơ cực nhưng khi có được tiếng gọi thiêng liêng của non sông đất nước thì họ từ anh nông dân trở thành chiến sĩ cách mạng, anh bộ đội cụ Hồ sẵn sàng tiên phong lên đường bảo vệ Tổ quốc. Người nông dân đã trở thành hậu phương vững mạnh, nền tảng vững chắc cho tiền tuyến cả về mặt vật chất lẫn tinh thần. Ý thức được đây là giai đoạn văn học phục vụ kháng chiến, cái tôi hòa chung với cái ta, mỗi cá nhân, mỗi con người luôn luôn vận động theo chiều hướng tích cực và lạc quan của quan điểm cách mạng, mỗi con người sẽ được đánh giá tùy theo những tiêu chuẩn của hành động và lẽ sống của bản thân. Những bà mẹ nghèo nơi hậu phương đã trở thành người Mẹ của tất cả những 20 đứa con nơi chiến trận: chở che, nuôi giấu bộ đội, những người phụ nữ, người vợ đảm đang vừa lo tăng gia sản xuất, vừa lo phục vụ cho hậu phương tiền tuyến, những lớp thanh niên trai trẻ hừng hực khí thế lên đường. Tất cả đều hướng về một mục đích chung to lớn, thiêng liêng lúc bấy giờ là đánh đuổi thực dân Pháp, bảo vệ và giữ vững bờ cõi độc lập của đất nước. Vì thế, đề tài nông thôn giai đoạn này không tách rời thậm chí hòa quyện trong văn học kháng chiến với cái tên: Văn xuôi kháng chiến. Những kí sự: Truyện và kí (Hiền Đăng), Nhật kí ở rừng (Nam Cao), Kí sự Cao Lạng (Nguyễn Huy Tưởng)… Các truyện ngắn, tiểu thuyết: Thư nhà (Hồ Phương), Làng (Kim Lân), Con trâu (Nguyễn Văn Bổng) đều thể hiện những quan điểm chung về con người như thế. Với đặc điểm của văn xuôi thời kì này là khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn nhưng nội dung bao trùm vẫn là hình ảnh người nông dân trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với cách mạng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ sau Cách mạng tháng Tám, diện mạo nông thôn Việt Nam có nhiều thay đổi lớn. Vấn đề nông thôn giai đoạn này với hai sự kiện lớn là: Cải cách ruộng đất và phong trào hợp tác hóa nông nghiệp. Các tác phẩm thể hiện rõ điều này như: Bếp lửa đỏ (Tiểu thuyết-Nguyễn Văn Bổng), Nông dân với địa chủ (Tập truyện ngắn - Nguyễn Công Hoan), Truyện anh Lục (Tiểu thuyếtNguyễn Huy Tưởng), Ông lão hàng xóm (Tập truyện ngắn-Kim Lân), Cái sân gạch, Vụ lúa chiêm (Đào Vũ), Bão biển (Chu Văn), Hãy đi xa hơn nữa, Tầm nhìn xa, Chủ tịch huyện (Tập truyện ngắn-Nguyễn Khải), Gánh vác (Vũ Thị Thường), Đồng tháng năm (Nguyễn Kiên), Trai làng quyền (Nguyễn Địch Dũng), Anh Keng (Nguyễn Kiên). Cái sân gạch, Vụ lúa chiêm thời bấy giờ được xem như một sự kiện văn hóa đặc biệt. Cái sân gạch đã tái hiện được bức tranh nông thôn trong những ngày đầu xây dựng hợp tác xã. Qua những toan tính của lão Am xung quanh việc vào hợp tác, tác giả đã
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất