Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật đề bài cho rằng anh h (anh trai của chồng cũ) đã xúi bẩy em trai li hôn mình, 3 ...

Tài liệu đề bài cho rằng anh h (anh trai của chồng cũ) đã xúi bẩy em trai li hôn mình, 3 giờ sáng ngày 10102009, t đã thuê m mang xăng đến đốt nhà anh h. hậu

.DOCX
11
129
148

Mô tả:

MỤC LỤC ĐỀ BÀI...........................................................................................................................2 BẢNG TỪ VIẾT TẮT...................................................................................................2 GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG.......................................................................................3 1. Hãy định tội danh đối với hành vi của T và M trong vụ án trên....................3 2. Xác định các tình tiết định khung tăng nặng của tội phạm mà T và M đã thực hiện....................................................................................................................6 3. Giả sử M mới chỉ đổ xăng quanh nhà anh H, chưa kịp đốt thì bị dân phòng phát hiện và bắt giữ. Hành vi phạm tội của M dừng lại ở giai đoạn phạm tội nào? Tại sao?.............................................................................................................8 4. Giả sử cả nhà anh H chỉ bị bỏng nặng với tỉ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 35%, tổng tỉ lệ thương tật là 94%, thì tội danh và khung hình phạt của T và M có thay đổi không? Tại sao?................................................................9 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................11 1 ĐỀ BÀI Cho rằng anh H (anh trai của chồng cũ) đã xúi bẩy em trai li hôn mình, 3 giờ sáng ngày 10/10/2009, T đã thuê M mang xăng đến đốt nhà anh H. Hậu quả là toàn bộ ngôi nhà 2 tầng của anh H bị thiêu rụi, anh H cùng vợ và con gái (6 tuổi) chết ngay tại chỗ. Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại là 250 triệu đồng. Hỏi: 1. Hãy định tội danh đối với hành vi của T và M trong vụ án trên. (2 điểm) 2. Xác định các tình tiết định khung tăng nặng của tội phạm mà T và M đã thực hiện. (1 điểm) 3. Giả sử M mới chỉ đổ xăng quanh nhà anh H, chưa kịp đốt thì bị dân phòng phát hiện và bắt giữ. Hành vi phạm tội của M dừng lại ở giai đoạn phạm tội nào? Tại sao? (2 điểm) 4. Giả sử cả nhà anh H chỉ bị bỏng nặng với tỉ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 35%, tổng tỉ lệ thương tật là 94%, thì tội danh và khung hình phạt của T và M có thay đổi không? Tại sao? (2 điểm) BẢNG TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự TNHS: Trách nhiệm hình sự CTTP: Cấu thành tội phạm 2 GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG 1. Hãy định tội danh đối với hành vi của T và M trong vụ án trên Muốn định tội danh đối với hành vi của T và M trong vụ án trên, ta cần xem xét hành vi khách quan, hậu quả, lỗi…của T và M. *Theo điều 93 BLHS 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009), có thể hiểu tội giết người là hành vi cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng người khác. - Về mặt khách quan của tội phạm: + Hành vi giết người là hành vi tước đoạt trái pháp luật mạng sống của người khác. Hành vi này được hiểu là hành vi có khả năng gây ra cái chết cho người khác, chấm dứt sự sống của họ. Hành vi đó có thể là hành động đâm, chém,có khả năng cứu giúp nhưng không cứu giúp người khác khi thấy họ lâm vào hoàn cảnh nguy hiểm… Trong tình huống này,T đã có hành vi thuê M mang xăng đến đốt nhà anh H và M thực hiện hành vi đốt nhà anh H. Thuê giết người là trường hợp thủ phạm không trực tiếp hành động, mà giấu mặt, dùng tiền hoặc lợi ích vật chất, tinh thần để yêu cầu người khác thực hiện hành vi phạm tội giết người. T tuy không trực tiếp thực hiện hành vi giết người nhưng T đã có hành động là thuê M mang xăng đến đốt nhà H vào lúc 3 giờ sáng. Còn M trong tình huống này đã được T thuê để đốt nhà H. Nếu M không biết trước về mục đích phạm tội của T (không biết mục đích đốt nhà nhằm giết người) và không biết trong ngôi nhà có H, vợ và con gái mà chỉ với mục đích nhận được tiền thù lao khi được thuê để hủy hoại tài sản của người khác mà không có cùng mục đích giết gia đình anh H thì hành vi của M không phải là hành vi khách quan của tội giết người, nên M không phạm tội giết người theo quy định tại điều 93 BLHS. Nếu M được T thông báo trước về mục đích phạm tội của mình mà vẫn thực hiện thì hành vi của M còn cấu thành tội giết người theo quy định tại điều 93 với hình thức đồng phạm. 3 + Hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc của tội giết người quy định tại điều 93 BLHS. Tội giết người chỉ được coi là hoàn thành khi có hậu quả chết người xảy ra. Ở vụ án trên, hậu quả chết người đã xảy ra, cụ thể là anh H cùng vợ và con gái đã chết. - Về mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của tội giết người theo điều 93 BLHS luôn là lỗi cố ý. Ở vụ án trên vì cho rằng anh H xúi bẩy chồng ly hôn mình, nên T có thể đâm ra thù tức anh H, đã thuê M mang xăng đến đốt nhà anh H vào 3 giờ sáng ngày 10/10/2009. Cụ thể: + Xét lỗi của T: Về lý trí T hoàn toàn nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, sẽ tước đoạt đi tính mạng của người khác , thấy trước hậu quả nguy hiểm (chết người) sẽ xảy ra nếu thực hiện hành vi (thuê M mang xăng đến đốt nhà anh H vào 3 giờ sáng ngày 10/10/2009. Đây là thời điểm gần sáng, mọi người trong nhà anh H đang ngủ, không có khả năng tự vệ hay thoát thân nếu có cháy nhà, cho dù anh H có phát hiện ra là nhà mình bị cháy thì cũng khó thoát khỏi đám cháy ấy được). Về ý chí trong trường hợp trên, T mong muốn hậu quả anh H cùng gia đình chết sẽ xảy ra (lỗi của T ở đây là cố ý trực tiếp), hoặc nếu không mong muốn hậu quả xảy ra thì cũng có thái độ chấp nhận nếu hậu quả gia đình anh H bị chết xảy ra (Lỗi của T ở đây là cố ý gián tiếp). Ở đây, ta phải xem xét thái độ của T là muốn giết hay chỉ bỏ mặc gia đình anh H chết để xác định lỗi cố ý trực tiếp hay gián tiếp. + Xét lỗi của M: Về lý trí: M là một người có đầy đủ năng lực TNHS thì hoàn toàn có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, nhận thức hành vi đốt nhà mà mình thực hiện là trái quy định pháp luật, nguy hiểm cho xã hội, biết hậu quả chết người sẽ xảy ra nếu thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đó. Xét về ý chí: tuy không mong muốn nhưng M vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra. Lỗi của M đối với hành vi giết người là lỗi cố ý gián tiếp. Vì theo nguyên tắc một hành vi chỉ cấu thành một tội, nên nếu lỗi của T là cố ý trực tiếp thì T sẽ chỉ phạm tội giết người (Không xem xét hành vi của T là hủy hoại tài sản nữa). 4 *Theo điều 143 BLHS 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) thì tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản bao gồm cả hành vi hủy hoại và cố ý làm hư hỏng tài sản. Trong đó hành vi hủy hoại được hiểu là trường hợp làm cho tài sản mất hoàn toàn giá trị sử dụng, không thể sử dụng được và không thể khôi phục được giá trị ban đầu của tài sản . - Về mặt khách quan của tội phạm: + Hành vi có thể coi là hủy hoại tài sản có thể là hành động (đâp, phá, đốt…) hoặc không hành động (như không tắt máy khi có sự cố dẫn đến máy bị phá hỏng hoàn toàn…) và được thực hiện bằng nhiều phương pháp với những phương tiện và công cụ khác nhau. Trong trường hợp trên, M là người trực tiếp thực hiện hành vi đốt nhà anh H với phương tiện phạm tội là xăng. Xăng là chất dễ bốc cháy, có khả năng hủy hoại tài sản khi bốc cháy. Còn T, tuy không trực tiếp thực hiện hành vi hủy hoại tài sản nhưng T đã có hành động là thuê M mang xăng đến đốt nhà H. + Hậu quả của tội phạm ở đây đòi hỏi là tài sản phải bị hủy hoại. Tội phạm được coi là hoàn thành khi hậu quả này đã xảy ra. Hậu quả trong tình huống nêu trên toàn bộ ngôi nhà 2 tầng của anh H bị thiêu rụi, tổng giá trị tài sản lên đến 250 triệu đồng. - Về mặt chủ quan của tội phạm: + Lỗi của tội phạm này là lỗi cố ý. Người phạm tội biết hành vi của mình có khả năng hủy hoại tài sản nhưng đã thực hiện hành vi đó vì mong muốn tài sản bị hủy hoại hoặc đã có ý thức chấp nhận thiệt hại đó xảy ra để đạt được mục đích khác của mình. Ở đây, T và M đều có lỗi cố ý, cụ thể là cố ý trực tiếp khi cả T và M đều mong muốn sự thiệt hại về tài sản đối với gia đình anh H. + Mục đích hủy hoại tài sản là dấu hiệu bắt buộc của tội này. Ở đây, T và M đều có mục đích hủy hoại tài sản. Vậy nên, để định tội danh của T và M trong tình huống trên, ta cần dựa vào hành vi khách quan, lỗi và mục đích phạm tội của T và M. Nếu lỗi của T là cố ý trực tiếp với hành vi giết người thì tội của T là tội giết người theo điều 93 BLHS (do hành vi hủy hoại tài sản của T chỉ là thủ đoạn của hành vi giết người). Nếu lỗi của T là cố ý 5 gián tiếp với hành vi giết người thì tội của T là tội giết người theo điều 93 BLHS và tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo điều 104 BLHS. Đối với M, nếu M không biết mục đích phạm tội giết người của T thì M chỉ phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hại tài sản theo điều 104 BLHS, nếu M biết trước mục đích phạm tội giết người của T thì M sẽ phạm cả 2 tội giết người theo điều 93 BLHS và tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo điều 104 BLHS. 2. Xác định các tình tiết định khung tăng nặng của tội phạm mà T và M đã thực hiện. *Đối với tội giết người, các tình tiết định khung tăng nặng được thể hiện tại khoản 1 điều 93 BLHS 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009). Theo đó, những tình tiết định khung tăng nặng của T và M (trong trường hợp M phạm tội giết người theo điều 93 BLHS) bao gồm: - Theo điểm a khoản 1 điều 93: “Giết nhiều người”. Đây là trường hợp giết từ 2 người trở lên, có thể cùng 1 lần hoặc nhiều lần khác nhau. T và M đã thực hiện hành vi giết cùng 1 lúc 3 người nhà anh H, bao gồm anh H cùng vợ và con gái. - Theo điểm c khoản 1 điều 93: “Giết trẻ em”. Đây là trường hợp giết người mà đối tượng bị giết là “trẻ em”, tức những người dưới 16 tuổi. Trong tình huống trên, nạn nhân bị chết bao gồm con gái anh H mới được 6 tuổi, thuộc đối tượng là trẻ em. - Theo điểm l khoản 1 điều 93: “Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người”. Đây là trường hợp giết người mà người phạm tội đã sử dụng công cụ, phương tiện hoặc thủ đoạn phạm tội có khả năng làm chết nhiều người. Trong tình huống trên, T và M đã dùng xăng đốt nhà anh H vào lúc 3 giờ sáng. Đốt nhà bằng xăng là hành vi rất nguy hiểm, có khả năng làm chết nhiều người, thậm chí lại còn vào thời điểm gia đình anh H chắc chắn đang ngủ. Hậu quả cụ thể ở đây là cả gia đình anh H gồm 3 người đều chết ngay tại chỗ. - Theo điểm m khoản 1 điều 93: “Thuê giết người hoặc giết người thuê”. Thuê giết người là trường hợp dùng lợi ích vật chất sai khiến người khác thực hiện hành vi giết người theo ý muốn của mình, biến họ thành công cụ trong tay mình. Ngược lại, 6 giết người thuê là trường hợp giết người chỉ vì động cơ kiếm tiền hay lợi ích vật chất khác. Ở đây, T là người thuê giết người (Thuê M) còn M là giết người thuê (giết thuê cho T). Ngoài ra, riêng T còn có thêm tình tiết định khung tăng nặng nữa là theo điểm q khoản 1 điều 93: giết người “vì động cơ đê hèn”. Đây là trường hợp giết người có tính ích kỷ cao, phản trắc, bội bạc với những người thân. Cho rằng anh H (anh trai của chồng cũ) đã xúi bẩy em trai li hôn mình nên T đã thuê M mang xăng đến đốt nhà anh H. Do thù hằn với anh H mà T đã thực hiện hành vi giết người nhằm trả thù cá nhân, cho dù anh H là anh trai chồng cũ – người thân của T. Rõ ràng đây là động cơ đê hèn. *Đối với tội hủy hoại tài sản, các tình tiết định khung tăng nặng được thể hiện tại khoản 2,3 và 4 điều 143 BLHS 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009). Theo đó, những tình tiết định khung tăng nặng của T (trong trường hợp T phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo điều 104 BLHS) và M bao gồm: - Theo điểm b khoản 2 điều 143: “Dùng chất nổ, chất cháy hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác”. Đây là trường hợp mà phương tiện, thủ đoạn phạm tội có tính chất nguy hiểm hơn hẳn so với những phương tiện, thủ đoạn phạm tội bình thường khác, có thể nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc có thể gây ra thiệt hại rất lớn về tài sản, vượt ra ngoài khả năng chi phối của người phạm tội. Cụ thể trong tình huống trên, T đã thuê M đốt nhà anh H bằng xăng – một loại hóa chất nguy hiểm độc hại, dễ bốc cháy khi tiếp xúc lửa. Thậm chí, đám cháy có thể lan ra nhà hàng xóm của anh H, gây thiệt hại vô cùng lớn không những về tài sản mà còn về tính mạng con người. - Theo điểm a khoản 3 điều 143: “Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng”. Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại là 250 triệu đồng, nằm trong khoảng từ 200 triệu đồng đến 500 triệu đồng, thỏa mãn tình tiết định khung tăng nặng trên. - Theo điểm b khoản 4 điều 143: “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Theo thông tư liên tịch về việc hướng dẫn áp dụng 1 số quy định tại chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS năm 1999 thì gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng bao 7 gồm hành vi làm chết 3 người trở lên. Mà trong tình huống trên, anh H cùng vợ và con gái (6 tuổi) chết ngay tại chỗ. Điều đó chứng tỏ hành vi hủy hoại tài sản của T và M gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 3. Giả sử M mới chỉ đổ xăng quanh nhà anh H, chưa kịp đốt thì bị dân phòng phát hiện và bắt giữ. Hành vi phạm tội của M dừng lại ở giai đoạn phạm tội nào? Tại sao? Hành vi phạm tội của M dừng lại ở giai đoạn phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành đối với tội hủy hoại tài sản. Đối với tội giết người, nếu M biết trước về mục đích giết người của T mà vẫn muốn thực hiện thì tội phạm M thực hiện cũng dừng lại ở giai đoạn phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành. Trong luật hình sự Việt Nam quy định các giai đoạn phạm tội của tội phạm bao gồm: chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Trong đó, phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Căn cứ vào thái độ tâm lí của người phạm tội đối với hành vi mà họ đã thực hiện thì phạm tội chưa đạt bao gồm: phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là trường hợp người phạm tội vì những nguyên nhân khách quan chưa thực hiện hết các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả của tội phạm. Xét các dấu hiệu của phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành: - Thứ nhất, người phạm tội đã bắt đầu thực hiện tội phạm. Sự bắt đầu này được thể hiện ở chỗ: Người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong CTTP hoặc đã thực hiện được hành vi đi liền trước hành vi khách quan. Trong tình huống trên, M mới chỉ đổ xăng quanh nhà H, chưa kịp đốt thì bị dân phòng phát hiện và bắt giữ. M đã thực hiện hành vi “đổ xăng quanh nhà H”, đi liền trước hành vi “đốt nhà” (là hành vi khách quan của tội hủy hoại tài sản cũng như của tội giết người). - Thứ hai, người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến cùng (về mặt pháp lý), hành vi của họ chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của CTTP. 8 M ở đây mới chỉ kịp thực hiện hành vi đi liền trước hành vi khách quan, đó là đổ xăng quanh nhà H mà chưa kịp đốt. - Thứ ba, người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến cùng là do những nguyên nhân ngoài ý muốn của họ. Bản thân người phạm tội vẫn muốn tội phạm vẫn muốn tội phạm hoàn thành nhưng tội phạm chưa hoàn thành được. Ở tình huống này, M đã không thực hiện tội phạm được đến cùng do dân phòng phát hiện và bắt giữ, tức do nguyên nhân khách quan. Bản thân M vẫn mong muốn thực hiện đến cùng hành vi phạm tội của mình là đốt nhà anh H. Hành vi của M chỉ dừng lại vì có người khác ngăn chặn chứ không phải do ý muốn chủ quan của M. Qua các dấu hiệu đã phân tích ở trên, có thể kết luận rằng hành vi thực hiện tội phạm của M dừng lại ở giai đoạn phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành. 4. Giả sử cả nhà anh H chỉ bị bỏng nặng với tỉ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 35%, tổng tỉ lệ thương tật là 94%, thì tội danh và khung hình phạt của T và M có thay đổi không? Tại sao? Khẳng định tội danh và khung hình phạt của T và M là không đổi. Lý do: - T và M ở đây là đồng phạm. Đồng phạm được hiểu là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Ở đây, cả T và M đã có hoạt động chung, cố ý thực hiện hành vi đốt nhà anh H và đều có ý thức để gia đình anh M chết. T là người tổ chức còn M là người thực hành. Vì là đồng phạm nên những người đồng phạm không thực hiện tội phạm được đến cùng do những nguyên nhân khách quan thì người thực hành thực hiện tội phạm được đến giai đoạn nào thì họ phải chịu TNHS đến đó. - Xét về hành vi khách quan của T và M đã thực hiện: T và M đã thực hiện hết các hành vi khách quan cho là cần thiết để đốt nhà (và có thể là giết) anh H. Hành vi T thuê M mang xăng đến đốt nhà anh H là không thay đổi. Đây vẫn là hành vi khách quan được quy định trong CTTP của 2 tội giết người và hủy hoại tài sản. - Hậu quả: cả nhà anh H chỉ bị bỏng nặng với tỉ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 35%, tổng tỉ lệ thương tật là 94%. Tuy nhiên tỷ lệ thương tật chỉ là hậu quả pháp lý để xác định T và M giết người ở giai đoạn nào chứ không làm thay đổi tội 9 danh và khung hình phạt dành cho T và M ( Ở đây, T và M vẫn phạm tội giết người nhưng là giết người chưa đạt, và tội phạm hoàn thành đối với tội hủy hoại tài sản). - Lỗi trong trường hợp này của cả T và M vẫn không thay đổi ( vẫn là lỗi cố ý). Việc gia đình anh H không chết mà chỉ bị thương tật không phải ý muốn chủ quan của T và M. Dựa vào những phân tích trên, có thể thấy tội danh và khung hình phạt của T và M là không đổi. Tội danh và khung hình phạt của T và M chỉ thay đổi khi việc gia đình anh H không chết mà chỉ bị thương là do ý muốn chủ quan của T và M (Ví dụ như sau khi đốt nhà anh H, T và M thấy hối hận nên quay lại dập tắt ngọn lửa). 10 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO  Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, tập 1 và tập 2 Trường Đại Học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân.  Mô hình luật Hình sự Việt Nam, Nguyễn Ngọc Hòa, NXB Công an nhân dân.  BLHS Việt Nam năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, NXB Tư pháp.  Bình luận khoa học BLHS Việt Nam 1999, NXB Chính trị quốc gia.  Thông tư liên tịch về việc hướng dẫn áp dụng 1 số quy định tại chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS năm 1999.  1 số trang web: toaan.gov.vn, luathoc.cafeluat.com, luathinhsu.wordpress.com 11
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan