Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo GDCD-GDNGLL Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng trong giảng dạy bộ môn gdcd thpt...

Tài liệu Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng trong giảng dạy bộ môn gdcd thpt

.DOC
24
176
60

Mô tả:

Việc thực hiện giảm tải và tránh sự trùng lặp các chủ đề môn học ở mộ số đơn vị kiến thức, môn học (đơn môn hoặc đa môn), cùng với đó là yêu cầu giảm tải chương trình, hiện nay có rất nhiều hướng tiếp cận nhằm giải quyết vấn đề này, trong đó dạy học theo chủ đề đang được xem la giải pháp tối ưu trong việc không chủ xây dựng chương trình học mà còn cả trong việc tiếp cận kiến thức học, phương pháp dạy học đối với GVBM hiện nay. Dưới đây là sơ lược về vấn đề "dạy học theo chủ đề" và việc ứng dụng vào bộ môn GDCD bậc THPT, do tác giả trình bày. Mới quý thầy cô tham khảo Tác giả: Mai Hữu Thành, THPT Đòan Kết, Tân phú, Đồng Nai Chuyên đề : DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ VỚI VIỆC ỨNG DỤNG TRONG GIẢNG DẠY BỘ MÔN GDCD THPT Chương 1 - DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ VỚI CHỦ TRƯƠNG ĐỔI MỚI GIÁO DỤC HIỆN NAY 1.1. Thế nào là dạy học theo chủ đề? Dạy học theo chủ đề (themes based leraning) là hình thức tìm tòi những khái niệm, tư tưởng, đơn vị kiến thức, nội dung bài học, chủ đề,… có sự giao thoa, tương đồng lẫn nhau, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong các môn học hoặc các hợp phần của môn học đó (tức là con đường tích hợp những nội dung từ một số đơn vị, bài học, môn học có liên hệ với nhau) làm thành nội dung học[1] trong một chủ đề có ý nghĩa hơn, thực tế hơn, nhờ đó học sinh có thể tự hoạt động nhiều hơn để tìm ra kiến thức và vận dụng vào thực tiễn. Dạy học theo chủ đề là sự kết hợp giữa mô hình dạy học truyền thống và hiện đại, ở đó giáo viên không dạy học chỉ bằng cách truyền thụ (xây dựng) kiến thức mà chủ yếu là hướng dẫn học sinh tự lực tìm kiếm thông tin, sử dụng kiến thức vào giải quyết các nhiệm vụ có ý nghĩa thực tiễn. Dạy học theo chủ đề là một mô hình mới cho hoạt động lớp học thay thế cho lớp học truyền thống (với đặc trưng là những bài học ngắn, cô lập, những hoạt động lớp học mà giáo viên giữ vai trò trung tâm) bằng việc chú trọng những nội dung học tập có tính tổng quát, liên quan đến nhiều lĩnh vực, với trung tâm tập trung vào học sinh và nội dung tích hợp với những vấn đề, những thực hành gắn liền với thực tiễn. Với mô hình này, học sinh có nhiều cơ hội làm việc theo nhóm để giải quyết những vấn đề xác thực, có hệ thống và liên quan đến nhiều kiến thức khác nhau. Các em thu thập thông tin từ nhiều nguồn kiến thức. Việc học của học sinh thực sự có giá trị vì nó kết nối với thực tế và rèn luyện được nhiêu kĩ năng hoạt động và kĩ năng sống. Học sinh cũng được tạo điều kiện minh họa kiến thức mình vừa nhận được và đánh giá mình học được bao nhiêu và giao tiếp tốt như thế nào.Với cách tiếp cận này, vai trò của giáo viên chỉ là người hướng dẫn, chỉ bảo thay vì quản lý trực tiếp học sinh làm việc. Dạy học theo chủ đề ở bậc THPT là sự cố gắng tăng cường tích hợp kiến thức, làm cho kiến thức có mối liên hệ mạng lưới nhiều chiều; là sự tích hợp vào nội dung những ứng dụng kĩ thuật và đời sống thông dụng làm cho nội dung học có ý nghĩa hơn, hấp dẫn hơn. Một cách hoa mỹ; đó là việc “thổi hơi thở” của cuộc sống vào những kiến thức cổ điển, nâng cao chất lượng “cuộc sống thật” trong các bài học. Theo một số quan điểm, dạy học theo chủ đề thuộc về nội dung dạy học chứ không phải là phương pháp dạy học nhưng chính khi đã xây dựng nội dung dạy học theo chủ đề, chính nó lại tác động trở lại làm thay đổi rất nhiều đến việc lựa chọn phương pháp nào là phù hợp, hoặc cải biến các phương pháp sao cho phù hợp với nó. Vì là dạy học theo chủ đề nên căn bản quá trình xây dựng chủ đề tạo ra quá trình tích hợp nội dung[2](đơn môn hoặc liên môn) trong quá trình dạy. 1.2. Ưu thế của dạy học chủ đề so với dạy học theo cách tiếp cận truyền thống hiện nay. Mọi sự so sánh giữa bất kì mô hình hay phương pháp dạy nào cũng trở nên khập khiễng bởi mỗi một mô hình hay phương pháp đều có những ưu thế hoặc những hạn chế riêng có. Tuy nhiên, nếu đặt ra vấn đề cho ngành giáo dục hiện nay là: Làm thế nào để nội dung kiến thức trở nên hấp dẫn và có ý nghĩa trong cuộc sống? Làm thế nào để việc học tập phải nhắm đến mục đích là rèn kĩ năng giải quyết vấn đề, đặc biệt là các vấn đề đa dạng của thực tiễn? Có phải cứ phải dạy kiến thức theo từng bài thì học sinh mới hiểu và vận dụng được kiến thức? Làm thế nào để nội dung chương trình dạy luôn được cập nhật trước sự bùng nổ vũ bão của thông tin để các kiến thức của việc học và dạy học thực sự là thế giới mới cho những người học? Việc trả lời các câu hỏi trên đồng nghĩa với việc xác định mục tiêu giáo dục, mô hình dạy học trong thời đại mới. Đồng thời, cũng sẽ chỉ ra cho ta thấy những lợi thế nhất định của từng mô hình khi áp dụng vào giảng dạy. Rõ ràng, nếu căn cứ vào việc tìm câu trả lời cho những câu hỏi này thì dạy học theo chủ đề khi so sánh với dạy học theo cách tiếp cận truyền thống hiện nay, sẽ có những ưu điểm[3] sau: Dạy học theo cách tiếp cận truyền Dạy học theo chủ đề thống hiện nay 1- Tiến trình giải quyết vấn đề 1- Các nhiệm vụ học tập được tuân theo chiến lược giải quyết vấn đề giao, học sinh quyết định chiến lươc học trong khoa học vật lý: logic, chặt chẽ, tập với sự chủ động hỗ trợ, hợp tác của khoa học.. do giáo viên (SGK) áp đặtgiáo viên (Học sinh là trung tâm). (G.viên là trung tâm). 2- Hướng tới các mục tiêu: chiếm 2- Nếu thành công có thể góplĩnh nội dung kiến thức khoa học, hiểu phần đạt tới mức nhiều mục tiêu củabiết tiến trình khoa học và rèn luyện các môn học hiện nay: chiếm lĩnh kiến thứckĩ năng tiến trình khoa học như: quan mới thông qua hoạt động, bồi dưỡng cácsát, thu thập thông tin, dữ liệu; xử lý (so phương thưc tư duy khoa học và các sánh, sắp xếp, phân loại, liên hệ…thông phương pháp nhận thức khoa học: PPtin); suy luận, áp dụng thực tiễn. thực nghiệm, PP tượng tự, PP mô hình, suy luận khoa học…) 3- Dạy theo một chủ đề thống 3- Dạy theo từng bài riêng lẻ vớinhất được tổ chức lại theo hướng tích một thời lượng cố định. hợp từ một phần trong chương trình học. 4- Kiến thức thu được là các khái 4- Kiến thức thu được rời rạc,niệm trong một mối liên hệ mạng lưới hoặc chỉ có mối liên hệ tuyến tính (một với nhau. chiều theo thiết kế chương trình học). 5- Trình độ nhận thức sau quá 5- Trình độ nhận thức có thể đạt trình học tập thường theo trình tự và được ở mức độ cao: Phân tích, tổng hợp, thường dừng lại ở trình độ biết, hiểu và đánh giá. vận dụng (giải bài tập). 6- Kết thúc một chương học, học 6- Kết thúc một chủ đề học sinh sinh không có một tổng thể kiến thức có một tổng thể kiến thức mới, tinh mới mà có kiến thức từng phần riêng giản, chặt chẽ và khác với nội dung biệt hoặc có hệ thống kiến thức liên hệtrong sách giáo khoa. tuyến tính theo trật tự các bài học. 7- Kiến thức còn xa rời thực tiễn mà người học đang sống do sự chậm cập nhật của nội dung sách giáo khoa. 8- Kiến thức thu được sau khi học thường là hạn hẹp trong chương trình, nội dung học. 7- Kiến thức gần gũi với thức tiễn mà học sinh đang sống hơn do yêu cầu cập nhật thông tin khi thực hiện chủ đề. 8- Hiểu biết có được sau khi kết thúc chủ đề thường vượt ra ngoài khuôn khổ nội dung cần học do quá trình tìm 9- Không thể hướng tới nhiềukiếm, xử lý thông tin ngoài nguồn tài mục tiêu nhân văn quan trọng như: rèn liệu chính thức của học sinh. luyện các kĩ năng sống và làm việc: 9- Có thề hướng tới, bồi dưỡng giao tiếp, hợp tác, quản lý, điều hành, ra các kĩ năng làm việc với thông tin, giao quyết định… tiếp, ngôn ngữ, hợp tác. * Điểm tương đồng giữa dạy học chủ đề và dạy học truyền thống là VẪN COI VIỆC LĨNH HỘI NỘI DUNG LƯỢNG KIẾN THỨC NỀN TẢNG, vì thế dạy học theo chủ đề là mô hình dạy học có thể vận dụng vào thực tiển hiện nay dễ dàng hơn một số mô hình khác. Điều cần làm để có thể vận dụng nó là phải tổ chức lại một số bài học thành một chủ đề được cho là sự tích hợp tốt hơn, có ý nghĩa thực tiễn hơn cách trình bày của sách giáo khoa mà chúng ta đang có. * Điểm khác biệt cơ bản dẫn tới nhiều khác biệt ở trên là: Một, dạy học theo chủ đề cũng như một số mô hình tích cực khác, giáo viên không đựoc coi học sinh là chưa biết gì trước nội dung bài học mới mà trái lại, luôn phải nghĩ rằng các em tự tin và có thể biết nhiều hơn ta mong đợi, vì thế dạy học cần tận dụng tốt đa kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng có sẵn của các em và khuyến khích khả năng biết nhiều hơn thế của học sinh về một vấn đề mới để giảm tối đa thời gian và sự thụ động của học sinh trong khi tiếp nhận kiến thức mới, để tăng hiểu biết lên nhiều lần so với nội dung cần dạy. Hai, dạy học theo chủ đề nhắm tới việc sử dụng kiến thức, hiểu biết vào thực tiễn các nhiệm vụ học tập nhắm tới sự lĩnh hội hệ thống kiến thức có sự tích hợp cao, tinh giản và tính công cụ cao, đồng thời hướng tới nhiều mục tiêu giáo dục tích cực khác (VD các năng lực), trong khi dạy học theo truyền thống lại coi trọng việc xây dựng kiến thức nên chỉ nhắm tới các mục tiêu được cho là quá trình này có thể mang lại. Ba, trong dạy học theo chủ đề kiến thức mới được học sinh lĩnh hội trong quá trình giải quyết các nhiệm vụ học tập, đó là kiến thức tổ chức theo một tổng thể mới khác với kiến thức trình bày trong tất cả các nguồn tài liệu. Hơn nữa, với việc học sinh lĩnh hội kiến thức trong quá trình giải quyết nhiệm vụ học tập, cũng mang lại một lợi thế to lớn đó là mở rộng không gian, thời gian dạy học, tinh giản thời gian dạy, độ ứng dụng thực tế cao hơn nhiều. Bốn, với dạy học theo chủ đề, vai trò của giáo viên và học sinh cơ bản là thay đổi và khác so với dạy học truyền thống. Người giáo viên từ chỗ là trung tâm trong mô hình truyền thống đã chuyển sang là người hướng dẫn, học sinh là trung tâm. 1.3. Tại sao nên quan tâm đến dạy học theo chủ đề trong tiến trình đổi mới giáo dục hiện nay? * Về mặt lý luận Hiện nay, có ba lý do quan trọng cần lưu tâm và đặt chúng ta phải nghĩ đến một giải pháp làm thế nào để đáp ứng và giải quyết được ba vần đề này, chình là: Một, trước yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục – trong đó chú trọng đổi mới phương pháp, cách tiếp cận dạy học theo định hướng phát huy tính tích cực của học sinh. Hai, tính giới hạn về định lượng nội dung trong sách giao khoa và quá trình bùng nổ thông tin, tri thức kèm theo đó là nhu cầu cập nhật kiến thức vô hạn đối với sự học của người học. Ba, với cách tiếp cận giảng dạy truyền thống hiện có, liệu chúng ta đủ khả năng để thực hiện các mục tiêu dạy học tích cực như; tăng cương tích hợp các vấn đề cuộc sống, thời sự vào bài giảng; tăng cường sự vận dụng kiến thức của học sinh sau quá trình học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn; rèn luyện các kĩ năng sống phong phú vốn rất cần cho người học hiện nay? Thêm vào đó, ngoài việc quá trình dạy học hướng tới định hướng nội dung học như đã có, thì đổi mới dạy học hiện nay còn có tham vọng tiến xa hơn đó là định hướng hình thành NĂNG LỰC cho học sinh. Do đó, dạy học theo chủ đề với những lợi thế về đặc điểm như đã so sánh ở trên so với dạy học theo cách tiếp cận truyền thống, đặc biệt là nó có thể giải quyết được ba vấn đề trên, chính là bước chuẩn bị tương đối phù hợp cho đổi mới chương trình và sách giáo khoa trong thời gian tới. * Trên phương diện thực tiễn Cần khẳng định rằng, mục tiêu giáo dục hiện nay của chúng ta đã bắt đầu chuyển hướng sang chú trọng tới định hướng phát triển năng lực học sinh. Theo đó, chúng ta kì vọng vào quá trình dạy học, kiểm tra đánh giá chú trọng tăng cường tính vận dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề thực tiễn của người học và nhờ vào quá trình đó các năng lực được hình thành. Tuy nhiên, trong thực tế, diện mạo đời sống xã hội không hiện diện đầy đủ ở bất cứ bài nào trong chương trình học. Nói cách khác, không thể gom hết toàn bộ xã hội sinh động vào nội dung chương trình của bất kì một môn học nào như một dạng kim chỉ nam xuyên suốt, kinh điển, giáo điều. Thực tế trên cho thấy, khi giải quyết một vấn đề trong thực tiễn, bao gồm cả tự nhiên và xã hội, đòi hỏihọc sinh phải vận dụng kiến thức tổng hợp hoặc liên quan đến nhiều môn học. Vì vậy, dạy học cần phải tăng cường theo hướng tích hợp đa chiều, liên môn. Do đó, hệ quả là buộc chúng ta phải xây dựng các chủ đề để tiến hành dạy học. Tất nhiên, việc xây dựng các chủ đề trong dạy học cũng không tham vọng sẽ giải quyết việc đưa toàn bộ thực tiễn vào chương trình, thậm chí mô hình này cũng chưa thể tạo ra một phương pháp giáo dục hoàn toàn mới, nhưng quan trọng hơn hết chính là nó mở đường cho giáo viên và học sinh tiếp cận với kiến thức theo một hướng khác. Không phải là sự thụ động mà là chủ động của học sinh. Không phải là sự tiếp nhận kiến thức sau khi học mà có thể là ngay khi làm nhiệm vụ học. Nó cũng không chỉ dừng ở mục tiêu “đầu vào” về kiến thức mà nó còn hướng tới định hướng “đầu ra” (tức khả năng vận dụng kiến thức vào giải quyết thực tiễn[4]) nhờ vào việc xác định các năng lực cần phát triển song song với những mục tiêu về chuẩn nội dung kiến thức, kĩ năng trong chương trình học. Ngoài ra, một thực tế khác cũng đáng quan tâm: hiện nay, ít nhiều trong chương trình học (bao gồm cả trong một bộ môn theo bậc hoặc các môn khác nhau theo một bậc) cũng có nhiều đơn vị kiến thức có tính giao thoa, liên hệ tương đối gần hoặc trùng lặp. Ví dụ 1: Ở cấp độ đơn môn, môn GDCD bậc THPT, các đơn vị bài: bài 8 – Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, (GDCD 11, tr 81); bài 7 – Công dân với các quyền dân chủ (GDCD 12, tr 68 - 78), nội dung có sự liên hệ; Hoặc: bài 12 – Công dân với tình yêu hôn nhân và gia đình (GDCD 10); mục 1 bài 4 – Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội (GDCD 12, tr 32 -35), nội dung có sự liên hệ gần nhau và phát triển cao hơn ở tầm nhận thức lũy tiến từ khối 10 lên khối 12, từ giáo dục ý thức đạo đức lên ý thức pháp luật. Ví dụ 2: ở cấp độ liên môn như: bài 14 – Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc (GDCD 10, tr95); bài 14 – Chính sách quốc phòng an ninh (GDCD 11, tr 110); và bài 5 – Chính sách quốc phòng an ninh và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa (GDQP) có nội dung tương đối gần và có sự lặp lại ở một số khái niệm. Nhằm tránh hiện trạng trên, cũng như nhằm tạo ra một đơn vị kiến thức học có tính sâu sắc hơn, có tính liên hệ tổng thể, bao quát và đầy đủ hơn, thì việc xây dựng các chủ đề tích hợp các nội dung như đã trình bày là cần thiết. Chương 2 NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN TRONG VIỆC ỨNG DỤNG DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ ĐỐI VỚI BỘ MÔN GDCD THPT 2. 1. Tình hình ứng dụng việc dạy học theo chủ đề trong bộ môn GDCD hiện nay Dạy học theo chủ đề không phải là mô hình dạy học hoàn toàn mới trên thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc quan tâm đến mô hình này mới chỉ dừng lại ở bước đầu tiếp cận. Song, căn cứ vào thực tiễn và kế hoạch đổi mới căn bản nền giáo dục hiện nay, có thể khẳng định mô hình dạy học này sẽ còn tiếp tục được nghiên cứu và thử nghiệm để có được những bài học kinh nghiệm xác đáng trước khi chính thức áp dụng phục vụ cho chủ trương đối mới căn bản, toàn diện giáo dục hiện nay. Nhìn lại quá trình tiếp cận và triển khai, có thể liệt ra một số chủ trương lớn và các hoạt động bổ trợ liên quan đã và đang cụ thể hóa trong “khâu chuẩn bị” trong lộ trình xây dựng mô hình dạy học theo chủ đề ở nước ta như sau: + Chủ trương giảm tải, cắt bỏ nhiều nội dung không cần thiết và trùng nhau gây áp lục và khó khăn cho việc dạy và học trong suốt những năm qua. + Tập huấn về đổi mới kiểm tra đánh giá đầu ra theo định hướng phát triển năng lực học sinh (2014). Thực chất, đây là khâu “đi tắt, đón đầu” trong lộ trình trang bị kiến thức cần thiết cho giáo viên dần tiếp cận việc dạy học theo chủ đề, trước khi có sự đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục trên phương diện nội dung, đó là: cơ cấu lại môn học sau năm 2015. Đây cũng là bước đệm quan trọng của Bộ GD & ĐT nhằm trang bị cho giáo viên những kỹ năng, thao tác, quy trình để giáo viên có thể áp dụng trước vào khâu kiểm tra đánh giá học sinh khi các em tham gia vào một tiết học theo chủ đề. + Bên cạnh đó, trong năm 2014, việc triển khai Hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá… theo công văn số 5555/ BGDĐT, ngày 18/10/2014 của Bộ giáo dục và Đào tạo, theo đó; mỗi tổ chuyên môn (trong đó có môn GDCD) xây dựng ít nhất một học kỳ 02 chủ đề để giảng dạy thử, dự giờ, phân tích, rút kinh nghiệm…cũng là khởi đầu quan trọng giúp giáo viên có được vốn hiểu biết nhất định về thế nào là xây dựng tiết dạy, bài dạy theo chủ đề trước khi có khung chương trình cụ thể. + Ở Đồng Nai, các nội dung trên cũng đã được tổ chức, kèm theo đó là Kế hoạch tổ chức Hội thi Sử dụng kiến thức liên môn để giải quyết nội dung bài dạy ở các bộ môn năm 2014(trong đó có môn GDCD) cũng là minh chứng cho thấy tình hình ứng dụng dạy học theo chủ đề hiện nay là có cơ sở và được quan tâm nhiều từ các phía ban ngành. Các hoạt động trên, chính là tiền đề thuận lợi giúp giáo viên bộ môn có cơ hôi tiếp cận mô hình dạy học này trong giai đoạn sắp tới mà không vấp phải sự bỡ ngỡ, khó khăn ngay khi chúng ta bước vào giai đoạn thực hiện khung chương trình đổi mới giáo dục. 2. 2. Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện dạy học theo chủ đề đối với bộ môn GDCD bậc THPT Bất kì môn học nào hiện nay khi đối diện với vấn đề dạy học theo chủ đề cũng gặp khó khăn nhất định. Phần vì đây là cách tiếp cận mới. Hơn nữa, chưa có một khung chương trình thống nhất hoặc hướng dẫn địa chỉ cần xây dựng chủ đề trong chương trình học hiện hành...v.v. Không những vậy, khó khăn này còn thể hiện ở chỗ: không chỉ bởi sự độc lập[5] hay sự khác biệt tương đối về mặt nội dung[6] mà còn xuất phát từ phía giáo viên bộ môn với những hạn chế như: sự hiểu biết sâu, rộng về kiến thức liến khối, liên môn; khả năng, kinh nghiệm nắm bắt các thao tác, quy trình xây dựng chủ đề; kĩ năng vận dụng phương pháp dạy học linh hoạt đối với từng chủ đề mình xây dựng. Tuy nhiên, ngoài khó khăn cũng không phải không có những thuận lợi khi áp dụng. Trong bài viết, xin được nêu ra lợi thế xét trên cả hai khía cạnh: nội dung và khả năng hiện nay của giáo viên dạy bộ môn GDCD THPT (bao gồm kiến thức, kĩ năng sử dụng kĩ thuật, phương pháp dạy học). Về phần nội dung Một, như đã biết, bộ môn GDCD có nội dụng học là vô cùng bao quát, phổ biến. Nội dung môn học trang bị bao gồm thế giới quan và nhân sinh quan, cũng như các vấn đề cơ bản của đời sống xã hội trên rất nhiều lĩnh vực có tính thực tiễn, gần gũi. Do đó, nội dung đề cập đến một lượng kiến thức dồi dào, thực tiễn, sinh động, không trừu tượng (như toán, hóa, lý…). Điều này cũng có nghĩa là khi xây dựng chủ đề, nhất là chủ đề liên môn, giáo viên sẽ có trước tiên là nhiều môn học, đề tài được chọn để đưa vào tích hợp, thêm vào đó trong quá trình dạy các nhiệm đặt ra đối với học sinh cũng dễ dàng được tiến hành một cách chất lượng và đảm bảo bởi hai yêu tố: nguồn tài liệu dồi dào (từ thực tiễn, hoặc kiến thức liên môn khác mà học sinh sẵn có) và tri thức thực tiễn sẵn có từ học sinh. Vì là bộ môn trang bị thế giới quan và nhân sinh quan cũng như các vấn đề cơ bản của đời sống xã hội, nên quá trình tích hợp xây dựng chủ đề liên môn, bản thân đơn vị kiến thức môn GDCD trong chủ đề thường là được sử dụng thường xuyên làm kim chỉ nam cho định hướng giải quyết vấn đề của học sinh, do đó giáo viên cũng dễ dàng kiểm soát được nội dung cơ bản của chủ đề môn học, không rơi vào tình trạng sa đà, lệch chuẩn. Hai, bộ môn GDCD cũng là bộ môn có chứa nhiều đơn vị kiến thức liên đới nhau theo chủ đề từng chương mục[7]. Ví dụ: GDCD 10- Phần thứ nhất, toàn bộ nội dung chỉ xoay quanh chủ đề thế giới quan, phương pháp luận (triết học); Phần thứ 2: Nội dung xoay quanh chủ đề đạo đức học. Trong chủ đề này có thể chia ra các chủ đề nhỏ như: Đạo đức và các phạm trù cơ bản (tích hợp 2 bài 10 và 11); Hoặc như, trong phạm vi bậc THPT, chủ đề Đạo đức với đời sống, chúng ta cũng tìm thấy nội dung có sự liên hệ và đưa vào chủ đề là Mối quan hệ giữa Pháp luật và đạo đức (mục c. bài 1, GDCD 12, tr 9) Do đó, việc xây dựng chủ đề là khá dễ dàng, ngay cả khi môn này nhận thêm nhiệm vụ tích hợp, lông ghép các chủ đề ngoài giờ lên lớp khác. Ví dụ: lồng ghép, tích hợp giáo dục phòng chống tham nhũng[8] và học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh[9], cũng có thể được đưa vào chủ đề Đạo đức với đời sống. Ba, bộ môn GDCD cũng là bộ môn có nội dung liên hệ nhiều với các bộ môn như Sử, Địa, Văn, Sinh học, GDQP, NGLL… Do đó, khi dạy theo chủ đề, học sinh dễ dàng tiếp cận hơn, dễ dàng nhận nhiệm vụ học tập nhờ vào sức tự tin về kiến thức sẵn có khi yêu cầu giải quyết nhiệm vụ thực tiễn. Vì thế, môn học cũng hứa hẹn thái độ tích cực, hứng thú và chủ động hơn từ phía học sinh. Về khả năng của giáo viên Khả năng của giáo viên bao gồm: kiến thức, kĩ năng sự dụng kỹ thuật, phương pháp dạy học. Ưu thế vượt trội của giáo viên GDCD so với các giáo viên khác chính là việc quen thuộc với nhiều phân loại kiến thức khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội và nhân văn. Từ triết, đạo đức học, kinh tế chính trị, pháp luật học cho đến các chủ đề nhỏ từng được đưa vào giảng dạy tích hợp, lồng ghép hàng chục năm qua như giáo dục kĩ năng sống, giáo dục trật tự ATGT, giáo dục sức khỏe giới tính, bình đẳng giới, tích hợp giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, giáo dục chủ quyền biển đảo, giáo dục bảo vệ môi trường, giáo dục phòng chống các tệ nạn xã hội, …. Do vậy, dữ liệu các kênh tri thức liên môn là vô cùng phong phú, dồi dào. Đây cũng là các chủ đề dễ dàng được giáo viên tích hợp thành chủ đề để đưa vào giảng dạy nếu được áp dụng mô hình dạy học này. Ngoài ra, về phương diện sử dụng kĩ thuật và phương pháp dạy học, không chỉ riêng giáo viên GDCD mà ở các bộ môn khác cho đến nay, về cơ bản đã từng tiếp cận và kinh qua tương đối thành công rất nhiều các kĩ thuật và phương pháp dạy học tích cực (vd: như phương pháp dự án, thảo luận nhóm, trực quan…), điều này vô cùng hữu dụng và là tiền đề cho việc sử dụng nó vào việc khai thác các đơn vị kiến thức trong tiết dạy học theo chủ đề. Về cơ bản, dạy học theo chủ đề rất cần những phương pháp này để khai thác nội dung bài học, cũng như đây là cách để học sinh liên hệ thực tiễn. Đối với học sinh Khả năng đón nhận cao vì trước hết, các chủ đề được xây dựng theo dạng tích hợp, liên môn có tính thực tiễn sinh động nên chủ đề học bao giờ cũng hấp dẫn, dễ tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. Học các chủ đề tích hợp, liên môn, học sinh được tăng cường vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức một cách máy móc. Quan trọng hơn là các chủ đề tích hợp, liên môn giúp cho học sinh không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau, vừa gây quá tải, nhàm chán, vừa không có được sự hiểu biết tổng quát cũng như khả năng ứng dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu thế, riêng với môn học GDCD khi áp dụng dạy học theo chủ đề cũng gặp một số khó khăn, như: + Giáo viên chưa chuẩn bị tâm lý, ngại thay đổi. + Học sinh vẫn coi GDCD là môn phụ. + GDCD là môn học có tần suất và nội dung được đưa vào tích hợp nhiều những vấn đề khác ngoài chương trình, do đó có thể gây khó khăn và lúng túng cho giáo viên khi xác định nội dung xây dựng chủ đề hoặc phá vỡ kết cấu nội dung, làm nhạt nội dung chính của chương trình. + Thời gian học 1 tiết trên lớp, khiến chủ đề khi đưa vào giảng dạy dễ bị chia nhỏ, manh mún, ảnh hưởng đến việc trình bày sản phẩm, kết quả học tập của học sinh. Đồng thời, khiến chủ đề học dễ rơi vào tình trạng chỉ là một dạng thức hình thành trên cơ sở của tổng đại số đơn thuần các đon vị kiến thức (không liên hệ, không mở rộng, không lũy tiến). + Độ ngắn dài hay nội dung chủ đề phụ thuộc rất nhiều vào nhóm năng lực mà từng giáo viên, từng môn, từng địa phương đề ra trong quá trình giáo dục, khó thống nhất dễ gây xáo trộn chương trình chung. + Quan trọng hơn hết là chưa có một khung chương trình xây dựng các chủ đề, từ đơn môn đến liên môn. Do đó, điều này cần sự bàn bạc, thống nhất giữa các giáo viên trong tổ bộ môn và giữa các bộ môn, thậm chí là những nhà quản lý giáo dục, các chuyên gia giáo dục để có sự thống nhất đồng bộ, đảm bảo không thiếu sót hoặc lặp lại kiến thức, không tạo ra tính ỷ lại ở bộ môn này cho môn khác; không tạo ra sự mầu thuẫn giữa các quan điểm lập trường chuyên môn người dạy giữa các môn; không quan trọng hóa môn học này hay môn học khác trong quá trình tích hợp theo chủ đề. 2.3. Xây dựng chủ đề dạy học trong bộ môn GDCD và những điểm cần chú ý Trước tiên, cần tái khẳng định lại rằng; dạy học theo chủ đề là một cách tiếp cận hoàn toàn mới mẻ. Do đó, việc đưa ra những định hướng trong quá trình xây dựng chủ đề, bao gồm cách thức, quy trình và những nguyên tắc xây dựng chủ đề chỉ là những gợi mở, tham khảo và chờ đợi sự đóng góp tích cực từ kinh nghiệm giảng dạy của giáo viên trực tiếp tham gia thực hiện mô hình này để chuyên đề có tính khả dụng. Tuy nhiên, từ các dữ liệu nghiên cứu, hầu hết đều cho rằng, trước khi bắt tay vào xây dựng chủ đề học (không chỉ đối với môn GDCD mà còn cả đối với các môn học khác) cần nắm vững những điểm sau: Một là; Chủ đề tích hợp được soạn theo yêu cầu hình thành một năng lực nào đó cho học sinh trong thực tiễn. Các năng lực này tùy vào tình hình thực tế tại cơ sở có thể thay đổi tùy vào trình độ của học sinh. Hai là; Công cụ của dạy học theo chủ đề là: giáo án về chủ đề đó, có liên quan đến ít nhất kiến thức của hai đơn vị nội dung học hoặc bài trong một bộ môn hoặc hai bộ môn trở lên. Trong quá trình này, phương pháp dạy học có thể sử dụng chính các phương pháp tích cực trong dạy học hiện nay để khai thác chủ đề (phương pháp dự án, thảo luận…). Đồng thời, chú trọng đến yếu tố Công nghệ thông tin như một phương tiện hỗ trợ đắc lực khi khai thác chủ đề. Ba là; Kết quả chủ yếu, căn bản cần đạt được khi dạy học theo chủ đề phải trả lời cho câu hỏi: Sau chủ đề học, học sinh biết làm gì? Hình thành năng lực gì? Bốn là; Tùy theo nội dung chương trình sách giáo khoa hiện nay mà việc xây dựng chủ đề dạy học có thể là: Chủ đề tích hợp: dành cho giáo viên (đưa kiến thức từ đời sống đến bài dạy); Chủ đề liên môn: dành cho học sinh (đưa kiến thức từ nhiều môn học để giải quyết các tình huống trong thực tiễn cuộc sống). Chủ đề dạy học: tập hợp các đơn vị kiến thức gần nhau để xây dựng thành một chủ đề. Tuy nhiên, ranh giới giữa các hình thức chủ đề trên cũng tương đối. Đôi khi, một chủ đề dạy học vẫn có thể bao gồm cả những đặc điểm của hai chủ đề còn lại (cách phân loại này chỉ có tác dụng đối với giáo viên khi muốn xác định cấp độ đơn giản hay phức tạp của nội dung tích hợp trong chủ đề, ứng với trình độ, năng lực cụ thể của học sinh). Năm là; Hình thức dạy học chủ đề tích hợp có thể được tiến hành dạy luôn trong chương trình. Quỹ thời gian lấy ở các bài đơn lẻ, đã được dạy trong bài dạy tích hợp. Có thể dạy trong nhiều tiết, nên từ 2-3 tiết/chủ đề. Không gian tổ chức có thể tại lớp, sân trường… khuyến khích không gian trải nghiệm (các hoạt động thực hành, trải nghiệm, xưởng sản xuất, đi thực tế, tham quan…) . Sáu là; đối với những kiến thức liên môn nhưng có một môn học chiếm ưu thế thì có thể bố trí dạy trong chương trình của môn đó và không dạy lại ở các môn khác. Trường hợp nội dung kiến thức có tính liên môn cao hơn thì sẽ tách ra thành các chủ đề liên môn để tổ chức dạy học riêng vào một thời điểm phù hợp, song song với quá trình dạy học các bộ môn liên quan. Chương 3 ĐỊNH HƯỚNG QUY TRÌNH XÂY DỰNG, SOẠN GIẢNG CHỦ ĐỀ HỌC TRONG BỘ MÔN GDCD BẬC THPT VÀ NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH KHAI THÁC CHỦ ĐỀ TRONG GIẢNG DẠY 3.1. Các bước cơ bản xây dựng chủ đề và tiến trình soạn giảng chủ đề học môn GDCD bậc THPT Khó khăn nhất hiện nay của giáo viên bộ môn chính là việc định hình quy trình xây dựng và tiến hành soạn giảng một chủ đề. Trong thực tế, chưa có sự thống nhất cuối cùng để đưa ra một hướng dẫn cụ thể, tất cả mới dừng lại ở việc tìm tòi, vừa thử nghiệm vừa rút kinh nghiệm. Theo tìm hiểu bước đầu của tác giả, để xây dựng một chủ đề đảm bảo tính khoa học và đáp ứng các mục tiêu dạy học, có thể tiến hành tuần tự theo các bước sau: Bước 1: Xác định nội dung, phạm vi kiến thức muốn đưa vào chủ đề. Nội dung có thể là sự tích hợp một đơn vị kiến thức trong một bài, nhiều bài, một môn, nhiều môn. Yêu cầu: Có sự liện hệ tri thức gần nhau, giao thoa hoặc trùng lặp hay có độ liên đới lũy tiến, đi lên phù hợp trình độ nhận thức của học sinh. Bước 2: Căn cứ các nội dung đã được xác định tích hợp, giáo viên tiến hành xây dựng chủ đề. Yêu cầu: Tên chủ đề bao quát các đơn vị kiến thức muốn tích hợp, kết cấu nội dung chủ đề phải hợp lý, các đơn vị kiến thức trong chủ đề phải theo trình tự nhận thức từ dễ đến khó, đơn giản đến phức tạp hoặc nhóm thành các chủ đề nhỏ phù hợp với nhiệm vụ học tập được giao cho học sinh. Chủ đề xây dựng vừa đúng, đủ, phù hợp và đảm bảo các yêu cầu về chuẩn kiến thức, kĩ năng trong chương trình chuẩn, cũng như các năng lực cần xây dựng, kiểm tra, đánh giá đối với học sinh. Bước 3: Tiến hành soạn giáo án theo chủ đề đã xây dựng. Có thể tham khảo theo mẫu sau: Ngày soạn: ………………… Tuần: từ tuần… đến tuần….. Ngày dạy: từ ngày … đến ngày…. tiết……. Tiết: từ tiết….. đến TÊN CHỦ ĐỀ:……………………………… Số tiết: …………………………… I. MỤC TIÊU (chung cho cả chủ đề) 1.Kiến thức: …………………………… 2.Kỹ năng: …………………………….. Lưu ý: Đảm bảo chuẩn kiến thức, kỹ năng theo chương trình hiện hành, trên quan điểm phát triển năng lực học sinh[10]. 3. Năng lực cần phát triển…………… Lưu ý: a. Bao gồm những năng lực chuyên biệt ở từng đơn vị kiến thức, bài hoặc chương cần phát triển cho học sinh khi học xong chủ đề. b. Trong số các năng lực cần phát triển đó, giáo viên sắp xếp theo thứ tự ưu tiên từ trên xuống dưới tùy vào mục đích, yêu cầu và dung lượng của các đơn vị kiến thức được tích hợp trong chủ đề đó. II. BẢNG MÔ TẢ CÁC NĂNG LỰC CẦN PHÁT TRIỂN Nội dung chủ đề Nhận biết ………… ………. hiểu ……… …….. ………… ………. Thông thấp ……… …….. ……… …….. Vận dụng dụng cao ………… ….. ……… …….. Vận ……… …….. ………… ….. ……… …….. Lưu ý: 1. Giáo viên mô tả chi tiết các mức độ cần đạt để phát triển năng lực cho HS, cơ sở của bảng mô tả này là các năng lực mà giáo viên đã đưa ra ở mục 3 phần I (mục tiêu). 2. Giáo viên không nhầm lẫn giữa bảng mô tả với ma trận đề kiểm tra. III. HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC 1. Đối với chủ đề là một bài dạy với thời lượng là 1 tiết (45 phút ) hoặc nhiều tiết (bài có nhiều nội dung) giáo viên thiết kế hoạt động dạy học tương tự hoạt động dạy học trong các giáo án theo quy định hiện hành, như sau: HOẠT ĐỘNG L CỦA GIÁO VIÊN HOẠT ĐỘNG CỦA HS NỘI DUNG ĐẠT ĐƯỢC Hoạt động 1: Nội I. Nội dung dung 1 Nhiệm vụ a, b,c ……………………………………… 1: …………………. …… Hoạt động 2: Nội II. Nội dung dung 2 Nhiệm vụ a, b,c …………………………………….. 2: …………………. …… Hoạt động 3: Nội III. Nội dung dung 3 Nhiệm vụ a, b, ……………………c………………… 3: …………………. …… …………………… …….. ……………………… ……. ……………… …….. 2. Đối với chủ đề có nhiều bài dạy (có thể các bài dạy trong 1 chương hoặc không phải là 1 chương nhưng có nhiều nội dung liên quan[11]…) giáo viên có thể tham khảo mẫu thiết kế như sau: HOẠT ĐỘNG HOẠT ĐỘNG CỦA HS NỘI DUNG L CỦA GIÁO VIÊN Hoạt động ĐẠT ĐƯỢC 1: I. Nội dung Nội dung 1 Nhiệm (bài 1) vụ a, b, c, ……………................ 1: …………………… …. ……………… ……………. Hoạt động 2: II. Nội dung Nội dung 2 Nhiệm (bài 2) vụ a, b, c, ……………………… 2: …………………… …. ……………… …………… Hoạt động Nội dung 3 (bài 3) 3: III. Nội dung Nhiệm vu a, b, ……………………… c, 3: …………………… …. ……………… ……………. ………………………… ………………. ……………… ………..... Ngoài ra, các bước còn lại như củng cố, chuẩn bị nội dung học mới tương tự như giáo án theo quy định hiện hành. Lưu ý: Về thời gian dạy dạng chủ đề có nhiều bài dạy Giáo viên tự bố trí thời gian hợp lý cho từng nội dung nhưng phải đảm bảo cung cấp cho học sinh những kiến thức, kỹ năng và những năng lực cần phát triển như đã yêu cầu ở phần mục tiêu và không được ít hơn hoặc nhiều hơn thời gian dành để dạy cho một chương hoặc cho nhiều bài (đã gộp lại thành một chủ đề) theo tổng số tiết đã được quy định trong phân phối chương trình. Bước 4: Dựa trên các nhiệm vụ học tập được đư ra theo kế hoạch, giáo viên tiến hành thực hiện dự án dạy. Ở bước này, giáo viên cần bám sát những nhiệm vụ học của học sinh, đề ra các phương pháp phù hợp khai thác hiệu quả nội dung chủ đề. Tiết dạy học theo chủ đề thường được tiến hành giống như một tiết học bình thường ngay tại lớp học hoặc ngoài trời, nơi không gian trải nghiệm. Tuy nhiên, dạy học theo chủ đề thướng gắn với các nhiệm vụ học tập và gắn với giải quyết các vấn đề thực tiễn nên khâu chuẩn bị có thể sẽ phải tiến hành trước tiết dạy nhiều tuần. Các dự án cần có kế hoạch theo dõi tiến trình thực hiện để có cơ sở kiếm tra, đánh giá các năng lực học sinh ngay trong quá trình thực hiện nhiệm vụ học tập. Bước 5:Sau khi dạy học theo chủ để giáo viên có thể tiến hành kiểm tra đánh giá việc học theo chủ đề với những câu hỏi/ bài tập phù hợp. Thông thường trong dạy học chủ đề có một số lưu ý về câu hỏi/ bài tập như sau: Một, phải căn cứ vào bảng mô tả ở trên giáo viên mới tiến hành xây dựng các câu hỏi và bài tập tương ứng[12] để khai thác và kiểm tra đánh giá học sinh. Hai, câu hỏi/ bài tập đưa ra nhằm kiểm tra, đánh giá việc tiếp thu kiến thức, kỹ năngtrong đó chú ý đến các năng lực cần phát triển sau khi học sinh học xong chủ đề (tương tự như câu hỏi/bài tập mà giáo viên dùng để củng cố bài trong các tiết dạy hiện nay). Ba, đối với câu hỏi/ bài tập liên quan đến phát triển năng lực học sinh yêu cầu câu hỏi/bài tập đưa ra phải đánh giá được 4 mức độ như trong bảng mô tả (nhận biết, thông hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao) trong đó ưu tiên những câu hỏi/bài tập gắn liền với thực tiễn đòi hỏi học sinh vận dụng kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm của bản thân để giải quyết các tình huống thực tiễn đó. Bốn, sau mỗi chủ đề giáo viên có thể kiểm tra học sinh dưới dạng đề kiểm tra 15 phút. Nếu sau chương hoặc sau các bài không nằm trong
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan