Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Dạy học nội dung thao tác lập luận bác bỏ trong sgk ngữ văn 11...

Tài liệu Dạy học nội dung thao tác lập luận bác bỏ trong sgk ngữ văn 11

.PDF
87
89
109

Mô tả:

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2 Khãa luËn tèt nghiÖp MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 3 2. Lịch sử vấn đề 4 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 8 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 9 5. Phương pháp nghiên cứu 9 6. Đóng góp của khoá luận 9 7. Bố cục của khoá luận 10 NỘI DUNG CHƯƠNG 1 THAO TÁC LẬP LUẬN BÁC BỎ TRONG VĂN BẢN NGHỊ LUẬN 1.1. Khái niệm văn bản nghị luận 11 1.2. Các thao tác lập luận trong văn bản nghị luận 13 1.2.1. Thao tác chứng minh 13 1.2.2. Thao tác giải thích 14 1.2.3. Thao tác phân tích 15 1.2.4. Thao tác tổng hợp 17 1.2.5. Thao tác lập luận so sánh 18 1.2.6. Thao tác lập luận bình luận 19 1.3. Thao tác lập luận bác bỏ trong văn bản nghị luận 19 1.3.1. Khái niệm thao tác lập luận bác bỏ 19 1.3.2. Đặc điểm thao tác lập luận bác bỏ 22 1.3.3. Cách thức bác bỏ 25 NguyÔn ThÞ §Ëu 1 K32D - Ng÷ V¨n Tr­êng §HSP Hµ Néi 2 Khãa luËn tèt nghiÖp CHƯƠNG 2 DẠY HỌC NỘI DUNG “THAO TÁC LẬP LUẬN BÁC BỎ” TRONG SGK NGỮ VĂN 11 2.1. Thao tác lập luận bác bỏ trong SGK Ngữ văn 28 2.2. Việc dạy- học nội dung “Thao tác lập luận bác bỏ” trong SGK 29 Ngữ văn 11 2.2.1. Việc dạy nội dung "Thao tác lập luận bác bỏ" của giáo viên 30 2.2.2. Việc học nội dung "Thao tác lập luận bác bỏ" của học sinh 30 2.3. Nội dung cơ bản của “ Thao tác lập luận bác bỏ” trong SGK Ngữ văn 31 2.3.1. Nội dung bài lí thuyết 32 2.3.2. Nội dung bài thực hành 34 2.4. Qui trình dạy học bài “ Thao tác lập luận bác bỏ” 35 2.5. Qui trình dạy học bài “ Luyện tập thao tác lập luận bác bỏ” 38 CHƯƠNG 3 THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 3.1. Mục đích, yêu cầu thực nghịêm 38 3.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm 39 3.2.1. Đối tượng thực nghiệm 39 3.2.2. Địa bàn thực nghiệm 39 3.3. Kế hoạch thực nghiệm 39 3.4. Nội dung thực nghiệm 39 3.4.1. Giáo án 1 40 3.4.2. Giáo án 2 64 3.5. Kết quả thực nghiệm 73 KẾT LUẬN NguyÔn ThÞ §Ëu 83 2 K32D - Ng÷ V¨n Tr­êng §HSP Hµ Néi 2 Khãa luËn tèt nghiÖp Tài liệu tham khảo 84 Phụ lục NguyÔn ThÞ §Ëu 3 K32D - Ng÷ V¨n Tr­êng §HSP Hµ Néi 2 Khãa luËn tèt nghiÖp MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong cuộc sống cũng như trong sách báo, ta có thể gặp những ý kiến sai lầm, những bài viết lệch lạc thiếu chính xác, không phù hợp với chân lý. Điều đó dẫn đến một yêu cầu là phải chỉ ra chỗ sai, chỗ chưa đúng để từ đó nêu ra những điều đúng, những chính kiến chính xác. Vậy làm thế nào để khẳng định chân lí, bảo vệ sự thật? Để giải quyết vấn đề này, con người nhất thiết phải thực hiện công việc bác bỏ. Bác bỏ chính là sự phản bác để gạt đi, phản đối những ý kiến những nhận định không chính xác. Trong văn bản nghị luận cũng vậy, bác bỏ là một trong những thao tác lập luận quan trọng được sử dụng thường xuyên. Cùng với thao tác chứng minh, giải thích, bình luận, so sánh...góp phần làm cho công việc nghị luận đạt hiệu quả cao. Như vậy có thể nói rằng: lập luận bác bỏ là một bộ phận không thể thiếu trong kĩ năng làm văn nghị luận. Tuy nhiên thao tác này trước đây chưa thực sự được chú ý. Bằng chứng là chương trình Làm văn (cải cách giáo dục) có đề cập đến thao tác chứng minh, giải thích, phân tích, bình luận...nhưng lại không bàn đến thao tác lập luận bác bỏ. Đến lần thay SGK mới này, các nhà biên soạn đã thực sự quan tâm và đưa bác bỏ vào nội dung chương trình Làm văn, với bài học cụ thể là: “ Thao tác lập luận bác bỏ’’ SGK Ngữ văn 11, tập 2. Do đây là vấn đề mới, kiến thức khó nên việc dạy học bài “ Thao tác lập luận bác bỏ” của giáo viên và học sinh còn gặp nhiều khó khăn. Giáo viên còn cảm thấy lúng túng khi dạy. Học sinh còn e ngại sợ sệt khi học vì đây là vấn đề mới. Điều này dẫn đến tình trạng luẩn quẩn khi áp dụng vào bài làm. Thậm chí còn có NguyÔn ThÞ §Ëu 4 K32D - Ng÷ V¨n Tr­êng §HSP Hµ Néi 2 Khãa luËn tèt nghiÖp học sinh không biết cách bác bỏ, không biết cách lập luận hoặc lập luận không chính xác. Do vậy bài làm không có sức thuyết phục. Vậy, làm thế nào để việc dạy việc học đạt hiệu quả? Đó chính là lý do vì sao chúng tôi chọn đề tài “ Dạy học bài “ Thao tác lập luận bác bỏ” trong SGK Ngữ văn 11, tập 2.” 2. Lịch sử vấn đề Trong các công trình Làm văn hiện nay, có thể khẳng định một điều rằng: bác bỏ là một thao tác lập luận còn khá mới mẻ chưa được nhỉều tác giả quan tâm nghiên cứu. Tuy vậy có thể kể đến một số công trình như: * Trong cuốn Làm văn 12 ( Tài liệu giáo khoa thí điểm: Ban khoa học Tự nhiên, Ban khoa học Tự nhiên- Kĩ thuật) các tác giả Trần Đình Sử (Chủ biên), Trần Đăng Suyền, NXB Giáo dục, 1995 [15, 3] có đề cập đến vấn đề “ Phản bác trong văn nghị luận”. Các tác giả cho rằng trong văn nghị luận không chỉ có việc khẳng định ý kiến được cho là đúng mà còn cả việc phản bác ý kiến được xem là sai. Một ý kiến là đúng hay sai suy cho cùng do thực tế kiểm nghiệm. Song xác định đúng sai trên phương diện lí thuyết là rất có ý nghĩa, bởi lí thuyết có tác dụng soi sáng thực tiễn, thuyết phục lí trí. Sau đó các tác giả đã nêu khái quát về phản bác, yêu cầu của phản bác và các phương pháp phản bác. Phản bác không phải là việc giản đơn tuyên bố ý kiến của đối phương là sai rồi nói cạnh nói khoé, chế giễu. Phản bác trong văn nghị luận phải được chứng minh qua các luận cứ, luận chứng thì mới có giá trị. Việc phản bác phải căn cứ vào các yếu tố của một ý kiến, bao gồm ba thành phần cơ bản: luận điểm, luận cứ, luận chứng. Người ta muốn phản bác thì phải vạch ra sai lầm của một trong ba thành phần đó: sai lầm về luận điểm, sai lầm về luận cứ, hoặc sai lầm trong NguyÔn ThÞ §Ëu 5 K32D - Ng÷ V¨n Tr­êng §HSP Hµ Néi 2 Khãa luËn tèt nghiÖp phép biện chứng, tuỳ thuộc vào mức độ khiếm khuyết của ý kiến mà người viết lập luận để phản bác. Có những ý kiến đúng nhưng luận cứ lựa chọn không tiêu biểu, không chính xác. Có khi luận cứ chính xác nhưng phân tích khiên cưỡng cũng đưa đến luận điểm sai. Có khi luận điểm được phát biểu không chuẩn, quá bao quát, trừu tượng, to tát, không phù hợp với luận cứ thành ra suy diễn, tán róc. Trong những trường hợp như vậy, sự phản bác đều có tác dụng vạch ra khuyết điểm để khắc phục, nâng cao trình độ hiểu biết và đánh giá sự vật. “ Phản bác là bàn bạc để tìm ra chân lý, vạch ra những chỗ “vô lí”, “ thiếu lí”. Do vậy “phản bác” phải đảm bảo những yêu cầu sau: + Phải có tính chân thực, khoa học, khách quan. + Người phản bác phải đọc kĩ ý kiến định phản bác, cần hiểu ý kiến đó trong tính toàn vẹn, trong ý định khoa học, trong luận đề, trong lịch sử vấn đề, trong luận cứ và luận chứng. Phản bác phải lựa chọn những vấn đề đích đáng, không phải là việc vạch lá tìm sâu, chấp vặt. Có như vậy thì ý kiến phản bác mới có ý nghĩa và có sức thuyết phục. Thái độ phản bác đúng đắn, lập trường phản bác chính nghĩa sẽ có tác dụng nâng cao nhân cách người phản bác. Trong trường hợp ngược lại thì phản bác có thể làm hại tư cách người phản bác. + Ngoài yêu cầu về thái độ, phương pháp còn có yêu cầu về kĩ thuật, luận chứng và hành văn. Bài phản bác phải trình bày rõ ràng, khúc chiết, có sai lầm của ý kiến sai và trình bày rõ ràng ý kiến đúng của mình, tránh nước đôi nhập nhằng hiểu thế nào cũng được. Phương pháp phản bác thì có: + Phản bác luận điểm. + Phản bác luận cứ. NguyÔn ThÞ §Ëu 6 K32D - Ng÷ V¨n Tr­êng §HSP Hµ Néi 2 Khãa luËn tèt nghiÖp + Phản bác luận chứng và cách lập luận Tuy nhiên, tác giả cũng khẳng định ba cách bác bỏ trên cũng được tách bạch ra để giới thiệu. Trong thực tế để bác bỏ triệt để một luận điểm sai, cần phải vận dụng cả ba cách từng bước từng phần rõ ràng cho người đọc thấy luận điểm cần bác bỏ là không thể đứng vững được. * Qua đây ta có thể thấy rằng: nhóm các tác giả Trần Đình Sử, Trần Đăng Suyền đã khẳng định phản bác như là một trong những kĩ năng quan trọng của văn nghị luận. Nhưng trong một thời gian dài sau đó, phản bác lại không được đề cập đến trong hầu hết các tài liệu làm văn. Phải đến tận khi làm SGK thí điểm năm 2004 nhóm tác giả do Phan Trọng Luận (chủ biên) mới lại tiếp tục đề cập đến “ Nghị luận phản bác” trong cuốn Ngữ văn 11, tập 2, bộ 2: Ban khoa học Xã hội và Nhân văn (SGK thí điểm) NXB Giáo dục, 2004 [123, 5] đã dự kiến dành hẳn 2 tiết cho dạy học bài “ Nghị luận phản bác” và một tiết cho học sinh luyện tập “ Viết đoạn văn phản bác”. Qua đó nhằm giúp cho học sinh hiểu: đặc trưng và thao tác cơ bản của phản bác ý kiến. Từ đó có thể viết được bài nghị luận phản bác có nội dung đơn giản, phù hợp với trình độ của học sinh trung học phổ thông. Và phản bác là dùng lí lẽ và dẫn chứng để bác bỏ những quan điểm, những ý kiến sai lệch hoặc thiếu chính xác...Từ đó nêu ý kiến đúng có tính thuyết phục. Thao tác phản bác: + Nêu quan điểm, ý kiến sai lệch, dẫn chứng minh họa, tác hại của sai lầm + Dẫn chứng trái ngược để phủ nhận. + Hoặc dùng lí lẽ trực tiếp phê phán sai lầm. Khi phản bác, người viết dùng giọng văn rắn rỏi, dứt khoát mang tính chiến đấu, có sức thuyết phục cao. NguyÔn ThÞ §Ëu 7 K32D - Ng÷ V¨n Tr­êng §HSP Hµ Néi 2 Khãa luËn tèt nghiÖp * Song song với bộ SGK do tác giả Phan Trọng Luận (chủ biên), tác giả Trần Đình Sử ( Tổng chủ biên) cũng đưa bài học về “Lập luận bác bỏ” vào trong chương trình SGK thí điểm, Ban Khoa học Xã hội và Nhân văn, bộ 1, tập 2, Ngữ văn 11, NXB Giáo dục, 2004 với các bài cụ thể như sau: 1. Lập luận bác bỏ trong văn nghị luận (2 tiết) 2. Viết đoạn văn lập luận bác bỏ (1 tiết) 3. Luyện nói bác bỏ trong thảo luận, tranh luận (1 tiết) Sau đó tác giả cũng đưa ra khái niệm lập luận bác bỏ, yêu cầu về bác bỏ, thao tác lập luận bác bỏ và luyện tập về viết đoạn văn bác bỏ, luyện nói bác bỏ trong tranh luận, thảo luận. Về khái niệm lập luận bác bỏ: tức là chứng minh sự việc, ý kiến nào đó là sai. Sai tức là không đúng sự thật, trái lôgic, quy kết quá đáng nên chưa đúng bản chất. Muốn bác bỏ có sức thuyết phục thì phải tuyệt đối tôn trọng sự thật, tôn trọng ý kiến của đối phương, không xuyên tạc, không bịa đặt, tìm bằng chứng đáng tin cậy thì mới có sức thuyết phục Thao tác lập luận bác bỏ cũng có ba cách là: + Bác bỏ luận điểm: Muốn bác bỏ luận điểm thì trước hết hãy trích dẫn đầy đủ luận điểm đó một cách khách quan, trung thực để làm đích bác bỏ. Có nhiều cách bác bỏ luận điểm:  Dùng thực tế để bác bỏ.  Dùng biện pháp phân tích để chỉ ra chỗ sai, phiến diện của luận điểm.  Dùng lối phản chứng: đưa ra và chứng minh một luận điểm trái ngược với luận điểm cần bác bỏ. NguyÔn ThÞ §Ëu 8 K32D - Ng÷ V¨n Tr­êng §HSP Hµ Néi 2 Khãa luËn tèt nghiÖp  Dùng phép suy để làm cho cái sai của luận điểm cần bác bỏ được bộc lộ đầy đủ. + Bác bỏ luận cứ: tức là vạch ra tính chất sai lầm, giả tạo trong dẫn chứng và lí lẽ của đối phương Có ba hướng bác bỏ luận cứ:  Hoặc vạch ra luận cứ không xác thực.  Chỉ ra lý lẽ phi lí.  Vạch ra sự né tránh sự thực của đối phương. + Bác bỏ lập luận: tức là vạch ra sự mâu thuẫn, không nhất quán, phi lôgíc trong lập luận của đối phương, chỉ ra sự đổi thay, đánh tráo khái niệm trong quá trình lập luận. * Như vậy cùng bàn về một vấn đề nhưng cách hiểu, cách trình bày đánh giá của các tác giả đã có sự khác nhau. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến những khó khăn cho người giảng dạy nội dung này ở trường phổ thông. Hơn nữa, điều đó còn dẫn đến tình trạng lúng túng, gượng gạo, thậm chí còn luẩn quẩn thiếu chính xác trong việc sử dụng thao tác lập luận này để trình bày một vấn đề hợp lí và thuyết phục. Trong khi đó việc dạy học thao tác lập luận bác bỏ trong SGK Ngữ văn 11 cần phải dựa trên một cơ sở lí thuyết thống nhất, hợp lí để học sinh thực sự hiểu và biết vận dụng những tri thức đó vào bài viết hoặc vấn đề gặp phải trong cuộc sống hàng ngày. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Từ việc xác định ra những tri thức cơ bản của thao tác lập luận bác bỏ, chúng tôi hướng tới mục đích là: Tổ chức dạy học nội dung này cho học sinh, NguyÔn ThÞ §Ëu 9 K32D - Ng÷ V¨n Tr­êng §HSP Hµ Néi 2 Khãa luËn tèt nghiÖp qua đó góp phần giúp cho học sinh có đủ kiến thức và tự tin khi sử dụng thao tác lập luận bác bỏ, cũng như vận dụng kết hợp thao tác lập luận này với các thao tác lập luận khác như phân tích, chứng minh, so sánh....để làm bài văn nghị luận đạt hiệu quả cao. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích của đề tài, khóa luận phải hướng tới những nhiệm vụ cơ bản sau:  Trình bày hệ thống những kiến thức cơ bản về thao tác lập luận bác bỏ.  Nêu ra các định hướng cho việc dạy học bài này đạt hiệu quả.  Vận dụng những tri thức đó vào việc dạy học bài “Thao tác lập luận bác bỏ” trong SGK Ngữ văn 11.  Đánh giá hiệu quả của việc vận dụng các tri thức đó vào dạy học. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Xuất phát từ nội dung của đề tài, chúng tôi tập trung nghiên cứu thao tác lập luận bác bỏ trong văn bản nghị luận. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Đề tài này của chúng tôi tập trung nghiên cứu và đưa ra một phương hướng dạy học bài “ Thao tác lập luận bác bỏ” trong SGK Ngữ văn 11(bộ chuẩn) - Và việc kết hợp với các thao tác khác trong việc làm bài văn nghị luận. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện nhiệm vụ mà đề tài đặt ra, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp tổng hợp lý luận và thực tiễn. NguyÔn ThÞ §Ëu 10 K32D - Ng÷ V¨n Tr­êng §HSP Hµ Néi 2 Khãa luËn tèt nghiÖp - Phương pháp phân tích ngôn ngữ. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm. 6. Đóng góp của khóa luận Với khóa luận này, chúng tôi mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc tìm ra những hướng dạy học Làm văn để hoạt động dạy học đạt hiệu quả cao nhất. Đồng thời thông qua nội dung về lập luận bác bỏ chúng tôi mong muốn việc vận dụng thao tác này của học sinh trong quá trình tạo lập văn bản nghị luận để văn bản của các em thực sự có giá trị. 7. Bố cục của khóa luận Khóa luận bao gồm 3 phần: - Phần : Mở đầu - Phần : Nội dung - Phần : Kết luận Riêng phần Nội dung có 3 chương:  Chương 1: Thao tác lập luận bác bỏ trong văn nghị luận.  Chương 2: Dạy học nội dung “Thao tác lập luận bác bỏ” trong SGK Ngữ văn 11.  Chương 3: Thực nghiệm sư phạm. NguyÔn ThÞ §Ëu 11 K32D - Ng÷ V¨n Tr­êng §HSP Hµ Néi 2 Khãa luËn tèt nghiÖp NỘI DUNG CHƯƠNG 1 THAO TÁC LẬP LUẬN BÁC BỎ TRONG VĂN BẢN NGHỊ LUẬN 1.1. Khái niệm văn bản nghị luận Văn bản nghị luận là một thể văn ra đời từ rất sớm, tồn tại và phát triển đến ngày nay. Khác với văn miêu tả, kể chuyện nhằm tái hiện con người và cuộc sống bằng ngôn ngữ, chủ yếu khơi gợi, tác động vào cảm xúc, tưởng tượng của người đọc ( người nghe). Văn nghị luận lại thiên về trình bày các ý kiến, lý lẽ của người viết nhằm thuyết phục người đọc về một vấn đề nào đó trong cuộc sống xã hội. Muốn thuyết phục người đọc, văn nghị luận phải có luận điểm rõ ràng, có lý lẽ thuyết phục, có dẫn chứng chính xác. Để hiểu rõ hơn vấn đề này, chúng ta hãy xét ngữ liệu sau: Hai biển hồ Người ta bảo ở Palextin có hai biển hồ....Biển thứ nhất gọi là biển Chết. Đúng như tên gọi, không có sự sống nào bên trong cũng như xung quanh biển hồ này. Nước trong hồ không có một loại cá nào có thể sống nổi. Ai ai cũng đều không muốn sống gần đó. Biển thứ hai là biển Galilê. Đây là biển hồ thu hút nhiều khách du lịch nhất. Nước ở biển hồ lúc nào cũng trong xanh mát rượi, con người có thể uống được mà cá cũng sống được. Nhà cửa được xây cất rất nhiều ở đây. Vườn cây xung quanh tốt tươi nhờ nguồn nước này. Nhưng điều kì lạ là cả hai biển hồ này đều được đón nhận nguồn nước từ sông Gioócđăng. Nước sông Gioócđăng chảy vào biển Chết. Biển Chết đón nhận và giữ riêng cho mình mà không chia sẻ nên nước trong biển Chết trở nên mặn chát. Biển hồ Galilê cũng đón nhận nguồn nước từ sông Gioócđăng rồi từ NguyÔn ThÞ §Ëu 12 K32D - Ng÷ V¨n Tr­êng §HSP Hµ Néi 2 Khãa luËn tèt nghiÖp đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch, nhờ vậy nước trong hồ luôn sạch và mang lại sự sống cho cây cối, muông thú, con người. Một định lý trong cuộc sống mà ai cũng đồng tình: Một ánh lửa sẻ chia là một ánh lửa lan toả, một đồng tiền kinh doanh là một đồng tiền sinh lợi. Đôi môi có hé mở mới thu nhận được nụ cười. Bàn tay có mở rộng trao ban, tâm hồn mới tràn ngập vui sướng. Thật bất hạnh cho ai cả cuộc đời chỉ biết giữ cho riêng mình “ Sự sống” trong họ rồi cũng sẽ chết dần chết mòn như nước trong lòng biển Chết....” ( Theo “ Quà tặng cuộc sống”) Bài văn trên gồm 4 đoạn. Đoạn đầu và đoạn thứ hai kể chuyện về hai biển hồ ( biển Chết và biển Galilê ) ở Palextin. Hai đoạn văn này có giọng văn tự sự. Đến đoạn thứ ba cách hành văn thay đổi hẳn, người viết từ thực tế về hai biển hồ đưa ra những suy ngẫm, những triết lí về cuộc sống, về cách sống ở trên đời. Và vấn đề cần bàn bạc ở đây chính là hai cách sống trái ngược nhau: sống chia sẻ, chan hoà, cởi mở với mọi người thì sẽ có hạnh phúc. Còn ngược lại sống khép kín chỉ biết giữ cho riêng mình thì thật bất hạnh. Để làm sáng tỏ luận điểm, tác giả đã khéo léo sử dụng thao tác chứng minh, giải thích, phân tích, bình luận xung quanh câu chuyện rất sinh động về hai biển hồ. Hai biển hồ cùng tiếp nhận nguồn nước từ sông Gioócđăng. Nhưng kì lạ là cùng có khởi nguồn, khi chảy vào biển Chết, biển Chết đón nhận và giữ riêng cho mình nên nước trở nên mặn chát, không có một sinh vật nào sống trong biển Chết, không có loại cá nào sống nổi và ai ai cũng đều không muốn sống gần đó. Ngược lại, biển hồ Galilê thì sự vật quây quần, tốt tươi, phát triển “ nước trong hồ trong xanh mát rượi, người có thể uống được mà cá cũng sống được. Nhà cửa được xây cất rất nhiều ở đây. Vườn cây xung quanh tốt tươi nhờ nguồn nước này”. Từ đó tác giả dần dần khẳng định NguyÔn ThÞ §Ëu 13 K32D - Ng÷ V¨n Tr­êng §HSP Hµ Néi 2 Khãa luËn tèt nghiÖp luận điểm chính trong đoạn thứ tư “ Thật bất hạnh cho ai cả cuộc đời chỉ biết giữ cho riêng mình “Sự sống” trong họ rồi cũng sẽ chết dần chết mòn như nước trong lòng biển Chết...”. Cách trình bày như vậy chính là phương thức biểu đạt của văn nghị luận. Từ sự phân tích trên, chúng ta có thể khẳng định : “ Văn bản nghị luận là một kiểu văn bản, trong đó, người nói ( người viết ) đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng về một vấn đề nào đó và thông qua cách bàn luận mà làm cho người đọc ( người nghe) hiểu, tin, tán đồng những ý kiến của mình và hành động theo những điều mà mình đề xuất ( đối với vấn đề đó )”. 1.2. Các thao tác lập luận trong văn bản nghị luận Đối với văn bản nghị luận, một trong những đặc trưng quan trọng nhất là việc tổ chức lập luận. Lập luận là sự tổ chức các luận điểm và luận cứ, lí lẽ và các dẫn chứng nhằm làm sáng tỏ vấn đề để người đọc hiểu, tin, đồng tình với điều mà người viết đặt ra và giải quyết. Chính vì vậy mà chương trình SGK Ngữ văn trung học phổ thông đã trình bày một chuỗi những bài học về các thao tác lập luận như phân tích, so sánh, bác bỏ, bình luận....Trước khi đi tìm hiểu khái quát từng thao tác trên đặc biệt là thao tác lập luận bác bỏ, chúng ta phải tìm hiểu “ thao tác” là gì? Thao tác được hiểu một cách đơn giản là việc thực hiện những động tác theo trình tự và yêu cầu kĩ thuật nhất định. Để tạo lập một văn bản nghị luận, trong quá trình triển khai nội dung văn bản nhiều khi người viết phải sử dụng đến các thao tác. Những thao tác đó gọi là thao tác nghị luận. Thao tác nghị luận chính là những động tác được thực hiện theo trình tự và yêu cầu kĩ thuật được quy định trong hoạt động nghị luận nhằm đạt NguyÔn ThÞ §Ëu 14 K32D - Ng÷ V¨n Tr­êng §HSP Hµ Néi 2 Khãa luËn tèt nghiÖp đến một mục đích nhất định. Trong văn nghị luận chúng ta thường gặp các thao tác như chứng minh, giải thích, bình luận, so sánh, bác bỏ....Cụ thể như sau: 1.2.1. Thao tác chứng minh Chứng minh là một thao tác lập luận. Đặc điểm cơ bản của thao tác này là người viết dùng lí lẽ và dẫn chứng để minh chứng xác nhận, khẳng định, bênh vực một cách chắc chắn sự đúng đắn của một ý kiến, một nhận định, một vấn đề giả định người đọc đã thừa nhận hoặc thừa nhận một phần. Nhờ có thao tác này mà trong quá trình tạo lập văn bản nghị luận, người viết mới có thể làm rõ sự đúng sai,phải trái trong nội dung vấn đề và đó là cách để người viết dẫn dắt người tiếp nhận tìm đến một chân lí. Khi thực hiện thao tác này cần chú ý: - Hệ thống dẫn chứng phải sát thực và phù hợp với vấn đề sắp xếp một cách trình tự, hợp lý, tránh hình thức liệt kê. Dẫn chứng phải được dẫn dắt, phân tích, bình luận. - Lí lẽ phải được giải thích, phân tích, bình luận hoặc tổng hợp một cách rõ ràng, dễ hiểu, lập luận phải chặt chẽ, đồng thời phải kết hợp cả lí lẽ và dẫn chứng tạo sức thuyết phục cho người đọc. - Dẫn chứng trong văn bản chứng minh có thể là số liệu, là tài liệu đã được thừa nhận, là câu chuyện thực được kể lại, là danh ngôn của một ai đó. Lí lẽ trong văn bản chứng minh có thể là những đạo lí được mọi người thừa nhận. 1.2.2. Thao tác giải thích Trong đời sống hàng ngày, khi muốn giúp ai đó hiểu rõ vấn đề, hoặc hiểu đúng một vấn đề nào đó, con người phải tìm mọi cách để làm rõ vấn đề đó, nội dung đó. Việc làm rõ vấn đề như vậy gọi là giải thích. NguyÔn ThÞ §Ëu 15 K32D - Ng÷ V¨n Tr­êng §HSP Hµ Néi 2 Khãa luËn tèt nghiÖp Giải thích là thao tác làm cho người khác hiểu rõ, hiểu đúng, hiểu đầy đủ một vấn đề bằng lí lẽ (có dẫn chứng hỗ trợ). Trong làm văn nghị luận giải thích là một thao tác được thực hiện nhằm lí giải hoặc làm rõ vấn đề và qua đó người viết có thể bàn luận một cách cụ thể, sâu sắc nội dung của vấn đề đó. Giải thích thường là một quá trình diễn dịch: đi từ một khái niệm, một nhận thức khái quát đến những cái cụ thể, sinh động, dễ hiểu hơn. Khi sử dụng thao tác giải thích cần phải tiến hành theo trình tự các bước sau: + Xác định nội dung vấn đề cần bàn luận. + Tìm nội dung, các bộ phận, các từ, ngữ trong vấn đề được trình bày một cách chưa rõ ràng cần được giải thích. + Tiến hành giải thích bằng cách nêu định nghĩa, nêu biểu hiện, nêu nguyên nhân, chỉ ra các mặt lợi, hại của vấn đề cần giải thích. Sau đó người viết có thể phân tích hoặc tổng hợp hoặc chứng minh, bình luận nội dung của vấn đề vừa giải thích. + Chốt lại vấn đề. Như vậy có thể nói rằng trong bài văn nghị luận, thao tác giải thích là một thao tác lập luận quan trọng. Nó giúp cho người đọc (người nghe) hiểu được vấn đề một cách cặn kẽ, rõ ràng và người viết tạo được sức hấp dẫn, thuyết phục trong bài văn nghị luận của mình. 1.2.3. Thao tác lập luận phân tích Mỗi sự vật, hiện tượng bao giờ cũng được tạo bởi nhiều yếu tố. Các yếu tố này không tồn tại độc lập mà có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau trong một chỉnh thể thống nhất. Trong quá trình nhận thức, việc chia nhỏ đối tượng thành nhiều yếu tố sâu chuỗi xem xét một cách kĩ càng nội dung và mối quan hệ bên trong cũng như bên ngoài của chúng gọi là phân tích. NguyÔn ThÞ §Ëu 16 K32D - Ng÷ V¨n Tr­êng §HSP Hµ Néi 2 Khãa luËn tèt nghiÖp Mục đích của phân tích là làm rõ đặc điểm về nội dung, hình thức, cấu trúc và các mối quan hệ bên ngoài của đối tượng (sự vật, hiện tượng). Khi phân tích cần chia tách đối tượng theo những yếu tố quan hệ nhất định (quan hệ giữa yếu tố tạo nên đối tượng, quan hệ nhân quả, quan hệ giữa đối tượng với đối tượng liên quan, quan hệ giữa người phân tích với đối tượng phân tích). Phân tích cần đi sâu vào từng yếu tố, từng khía cạnh song cần đặc biệt lưu ý đến quan hệ giữa chúng với nhau trong một chỉnh thể toàn vẹn thống nhất. Để tiến hành phân tích, chúng ta phải thực hiện theo trình tự sau: + Xác định nội dung vấn đề hoặc nội dung của luận điểm cần phân tích. + Tiến hành xác định các khía cạnh, các bộ phận của nội dung cần phân tích. + Sắp xếp các khía cạnh, từng bộ phận theo trình tự đã sắp xếp. Cần lưu ý tới mối quan hệ giữa các khía cạnh để từ đó lựa chọn các phép liên kết cho thích hợp với nội dung của chúng. + Dùng ngôn ngữ để lập luận, có thể trình bày bằng cách kết hợp với các ví dụ minh họa. + Cuối cùng chốt lại vấn đề cần phân tích. Khi phân tích vấn đề cần phải được tiến hành theo những nguyên tắc nhất định. Đó là: + Phải đảm bảo sự phân chia phản ánh đúng bản chất tổ chức của đối tượng. Để làm được điều này, chúng ta phải phân xuất được từng khía cạnh, từng bộ phận của vấn đề và sắp xếp chúng theo một trình tự cụ thể. + Phải đáp ứng tốt nhất cho mục đích thực hiện. Khi phân tích vấn đề chúng ta cần căn cứ vào mục đích phân tích vấn đề, phải xác định cụ thể phân tích vấn đề như vậy để làm gì? Từ việc xác định mục đích phân tích như thế, chúng ta NguyÔn ThÞ §Ëu 17 K32D - Ng÷ V¨n Tr­êng §HSP Hµ Néi 2 Khãa luËn tèt nghiÖp lựa chọn cách thức phân chia vấn đề sao cho tương ứng với mục đích thực hiện thao tác này. + Khi phân tích vấn đề, chúng ta phải phân chia theo cùng một cơ sở. Thông thường, chúng ta chọn mục đích phân tích để làm cơ sở phân chia. + Phải tuân theo nguyên tắc cấp bậc khi phân chia. Tức là chia thành các bộ phận lớn rồi tiếp tục chia thành các bộ phận nhỏ, không được phân chia một cách nhảy vọt, thiếu tính hệ thống. Trong văn bản nghị luận, thao tác phân tích nhằm giúp cho người tiếp nhận văn bản có thể hiểu rõ từng khía cạnh của vấn đề bàn luận. 1.2.4. Thao tác tổng hợp Khi tạo lập văn bản nghị luận, kết quả của sự phân tích mới chỉ cho phép hiểu về các bộ phận riêng lẻ mà chưa hiểu biết hoàn chỉnh về đối tượng. Muốn nhìn nhận đối tượng trong sự thống nhất hữu cơ của nó thì người viết sử dụng tới thao tác lập luận tổng hợp. Tổng hợp là thao tác ngược lại với phân tích. Tổng hợp có nghĩa là gom lại những hiểu biết về từng bộ phận từng khía cạnh làm thành hiểu biết chung, đầy đủ, toàn bộ đối tượng. Trong văn nghị luận, thao tác này thường được thực hiện sau các thao tác lập luận khác như giải thích, chứng minh, phân tích...Nó là cơ sở để người viết chốt lại vấn đề một cách chính xác và khoa học. Các bước thực hiện thao tác tổng hợp : + Xác định nội dung đã được trình bày trước đó. + Xác định mối quan hệ giữa các nội dung, các bộ phận đã trình bày. + Xác định đặc điểm, đặc trưng, tính chất cơ bản của các vấn đề đã được trình bày đó. + Gộp các vấn đề đó lại theo trình tự đã được triển khai trước đó. NguyÔn ThÞ §Ëu 18 K32D - Ng÷ V¨n Tr­êng §HSP Hµ Néi 2 Khãa luËn tèt nghiÖp + Rút ra kết luận hay nêu ra chân lý nào đó. + Có thể dẫn sang một nội dung mới hoặc mở rộng vấn đề được bàn luận. Để có thể tiến hành thao tác tổng hợp, chúng ta phải tuân thủ những nguyên tắc sau: + Chỉ tổng hợp cái chung, cái đồng nhất trong từng bộ phận (chỉ được thực hiện khi chúng ta xác định nội dung của từng bộ phận). + Chỉ tổng hợp theo từng cấp bậc (giúp chúng ta tổng hợp các vấn đề một cách khoa học, đảm bảo phù hợp với nội dung và đặc điểm của vấn đề được bàn luận. Trong bài văn nghị luận, thao tác tổng hợp thường được thể hiện trong một vài câu văn. Thông thường đó là cách để người viết chốt lại vấn đề hoặc kết luận cho một nội dung nào đấy. Trong quá trình tạo lập văn bản nghị luận, phân tích và tổng hợp là hai thao tác có mối quan hệ mật thiết với nhau. Phân tích là thao tác giúp cho con người nhận thức vấn đề trong từng biểu hiện, từng khía cạnh của chúng, còn tổng hợp là thao tác giúp cho con người có thể bao quát toàn bộ vấn đề. 1.2.5. Thao tác lập luận so sánh So sánh cũng là một thao tác lập luận được dùng để tìm ra điểm giống nhau và khác nhau giữa các đối tượng và qua sự so sánh ấy mà giúp cho con người nhận thấy rõ đặc điểm, vai trò, giá trị của vấn đề được bàn luận. Khi tiến hành so sánh, người viết phải có cách so sánh linh hoạt mềm dẻo nếu không cẩn thận sẽ rơi vào tình trạng so sánh các yếu tố khồng tương đồng dẫn tới sai lệch, lầm lạc. Yêu cầu khi tiến hành so sánh (cách so sánh) là: NguyÔn ThÞ §Ëu 19 K32D - Ng÷ V¨n Tr­êng §HSP Hµ Néi 2 Khãa luËn tèt nghiÖp + Đối tượng (sự vật hiện tượng...) đưa ra so sánh phải có mối liên quan với nhau về một mặt, một phương diện nào đó. + So sánh phải dựa trên tiêu chí rõ ràng. + Kết luận rút ra từ sự so sánh phải chân thực giúp cho việc nhận thức đối tượng (sự vật, hiện tượng....) được chính xác, sâu sắc hơn. Như vậy, có thể nói rằng : thao tác lập luận so sánh được thực hiện khi những sự vật, hiện tượng phải có mối liên hệ với nhau. Và qua so sánh sẽ giúp cho việc nhận thức sự vật, hiện tượng sâu sắc hơn. 1.2.6. Thao tác lập luận bình luận Bình luận là một thao tác lập luận quan trọng không thể thiếu trong văn bản nghị luận. Trong quá trình trình bày vấn đề để thể hiện suy nghĩ quan điểm của mình đối với vấn đề nghị luận, người viết phải dùng ngôn ngữ, lí lẽ để thể hiện suy nghĩ, thái độ quan điểm như vậy gọi là bình luận. Như vậy, bình luận là cách người viết dùng ngôn ngữ, lí lẽ, lập luận để bàn luận, đánh giá, phê bình, nhận xét, tỏ thái độ của bản thân về một sự kiện, một vấn đề nào đó và qua đó đi đến những nhận định, những kết luận đúng đắn, sâu sắc. Đồng thời thông qua việc bình luận người viết có thể thể hiện tư tưởng, tình cảm, quan điểm của mình về vấn đề nào đó. Khi thực hiện thao tác bình luận, chúng ta phải tuân thủ theo các bước : + Xác định nội dung cần bình luận (luận điểm). + Làm sáng rõ ý nghĩa vấn đề cần bình luận thông qua phân tích, chứng minh, giải thích. + Dùng lí lẽ và dẫn chứng để chỉ ra tính đúng sai, tính chân lý của vấn đề tạo cơ sở cho việc đánh giá, nhận xét vấn đề đó. + Dùng lí lẽ lập luận để bàn, để bình và đánh giá nội dung vấn đề. NguyÔn ThÞ §Ëu 20 K32D - Ng÷ V¨n
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất