Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp...

Tài liệu đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp

.PDF
109
9
122

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ------***----NGUYỄN THỊ HOÀNG YẾN ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ MÃ SỐ: 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. ĐỖ NGỌC QUANG HÀ NỘI - NĂM 2006 Lời cam đoan 1 Mục lục Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Mở đầu .................................................................................................................... 1 Chương 1: THỐNG NHẤT QUAN ĐIỂM VỀ ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG CÁC TỘI PHẠM XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP 1.1 Nhận thức chung về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.............. 7 1.2. Nhận thức chung về đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.................................................................................. 24 Chương 2: TÌNH HÌNH ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG CÁC TỘI PHẠM XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2005 2.1. Thực trạng tình hình các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp từ năm 2000 đến năm 2005 ...................................................................... 33 2.2.Tình hình đấu tranh phòng, chống các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp.................................................................................. 45 Chương 3 : NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG CÁC TỘI PHẠM XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP 3.1. Nhóm giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật ........................ 68 3.2. Nhóm giải pháp về tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp .............. 73 3.3. Nhóm giải pháp về công tác cán bộ của các cơ quan tư pháp ....... 78 3.4. Nhóm giải pháp về công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với các cơ quan tư pháp 84 3.5. Nhóm giải pháp về phát hiện, điều tra, khám phá, xử lý ............... 88 KẾT LUẬN ............................................................................................................. 93 TÀI LIỆU THAM KHẢO 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Hiến pháp Việt Nam năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã khẳng định nhiệm vụ mang tính chiến lược là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực sự của dân, do dân và vì dân. Trước nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định quyết tâm chính trị mạnh mẽ về thực hiện chủ trương và triển khai các nhiệm vụ cải cách tư pháp nhằm một mục tiêu nâng cao chất lượng công tác tư pháp vì sự phát triển chung của đất nước. Trên cơ sở cải cách kinh tế - thực hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước ta đang từng bước tiến hành cải cách hệ thống chính trị (cải cách lập pháp, cải cách nền hành chính Quốc gia và cải cách tư pháp). Trong Bộ máy nhà nước, hệ thống các cơ quan tư pháp đóng vai trò rất quan trọng. Các cơ quan này có chức năng và nhiệm vụ: bảo đảm dân chủ, công bằng cho mỗi công dân trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong hoạt động tư pháp; đảm bảo không để lọt tội phạm, không để xảy ra oan sai đối với người vô tội; mỗi tội phạm xảy ra phải được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh; bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa; bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân lao động; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, nhân phẩm, danh dự của công dân. Với tầm quan trọng đặc biệt đó, trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp, thì bất cứ một hành vi nào làm trái các quy định pháp luật về lĩnh vực hoạt động tư pháp cũng đều gây cho hoạt động tư pháp không được nghiêm minh, dẫn đến trật tự pháp luật bị đảo lộn, mất đi tính tối 4 cao của pháp luật. Điều này sẽ dẫn đến làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan tư pháp nói riêng và làm mất uy tín của Đảng và Nhà nước nói chung. Đất nước ta đang từng bước bước trên chặng đường phát triển kinh tế vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh". Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, nền kinh tế thị trường phát triển, công nghiệp hóa - hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở cửa hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị, Nhà nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà cả trong những lĩnh vực khác như: khoa học - kỹ thuật, giáo dục, văn hóa, pháp luật... Chỉ số GDP bình quân đầu người ngày càng tăng, đời sống của người dân đã được nâng cao hơn rất nhiều so với trước đây. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả to lớn đó, mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng làm nảy sinh hàng loạt các vấn đề mà chúng ta cần quan tâm. Đó là vấn đề gia tăng của tình hình tội phạm nói chung cũng như việc gia tăng các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp. Ngoài những ưu điểm đem lại cho sự phát triển kinh tế, nền kinh tế thị trường cũng mang trong mình những mặt tiêu cực của xã hội: sự suy đồi về đạo đức, đánh mất đạo đức nghề nghiệp, tham nhũng, đua đòi theo lối sống xa hoa, buông thả, vô trách nhiệm,... của một số cá nhân trong các cơ quan công quyền cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc gia tăng của tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp trong những năm gần đây. Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị ngày 02 tháng 06 năm 2005 "về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" đã nói nên tình hình công tác tư pháp trong những năm vừa qua: "Trong những năm qua, thực hiện các Nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết 08-NQ/TW, ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị "về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian 5 tới", công cuộc cải cách tư pháp đã được các cấp ủy, tổ chức lãnh đạo và tổ chức thực hiện với những quyết tâm cao, đạt được nhiều kết quả. Nhận thức và sự quan tâm đối với công tác tư pháp có nhiều thay đổi theo hướng tích cực; chất lượng hoạt động tư pháp đã được nâng lên một bước, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tê, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, những kết quả đó mới chỉ là bước đầu và mới tập trung vào giải quyết những vấn đề bức xúc nhất. Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế, Chính sách hình sự, chế định pháp luật dân sự và pháp luật tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một số bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vấn còn tình trạng oan, sai... Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu..." Như vậy, từ những điều đã phân tích trên đây cho thấy, trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp như hiện nay, thì công tác đấu tranh phòng chống tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp trở nên bức xúc và cấp thiết hơn bao giờ hết. Tất cả những luận cứ trên là lý do cho sự lựa chọn đề tài "Đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp". 2. Tình hình nghiên cứu. Từ khi có Bộ luật hình sự năm 1985, các tội xâm phạm hoạt động tư pháp được quy định thành một chương riêng biệt và cho đến lần pháp điển hóa Bộ luật hình sự lần thứ hai năm 1999, các nhà làm luật đã có những sửa đổi, bổ sung những quy định đối với nhóm tội phạm này cho phù hợp với diễn 6 biến ngày càng phức tạp của tội phạm. Kể từ khi Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực pháp luật, vẫn chưa có một công trình nghiên cứu khoa học hoặc một cuốn sách chuyên khảo nào tiếp cận nghiên cứu một cách toàn diện, cụ thể và chi tiết về tội phạm phạm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Vấn đề này cũng mới chỉ được đề cập đến trong một số bài viết trên các báo, tạp chí, tuy nhiên phạm vi nội dung bài viết mới chỉ đề cập đến một số khía cạnh của vấn đề. Trong khi đó, với điều kiện phát triển kinh tế xã hội như hiện nay, tình hình xã hội lại phản ánh một thực trạng là các tội xâm phạm hoạt động tư pháp nhìn chung có chiều hướng tăng. Chính vì vậy, cần phải có những nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về nhóm tội phạm này trên cơ sở lý luận và thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp ở nước ta trong những năm qua để đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn. Nghiên cứu những vấn đề lý luận về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp và thông qua thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Trên cơ sở giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn diễn biến của các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp từ năm 2000 đến năm 2005, từ đó đánh giá thực trạng tình hình loại tội phạm này, những kết quả đã đạt được, những điểm còn tồn tại, và làm rõ nguyên nhân gây nên những tồn tại trong đấu tranh phòng chống các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp. Nghiên cứu và tìm hiểu những quy luật vận động nội tại, qua đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 7 Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, thống nhất quan điểm về đấu tranh phòng chống các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong thời gian qua và một số giải pháp đấu tranh phòng chống loại tội phạm này. 8 5. Cơ sở khoa học của đề tài. - Cơ sở lý luận: Đề tài thực hiện dựa trên: những cơ sở lý luận là thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: luật hình sự, luật tố tụng hình sự, tội phạm học, xã hội học pháp luật, triết học, tâm lý học, v.v... trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo, báo, tạp chí của các nhà nghiên cứu; quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách hình sự trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp; và các văn bản pháp luật. - Cơ sở thực tiễn: Thực tế công tác đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp ở nước ta từ năm 2000 đến năm 2005. 6. Phương pháp nghiên cứu. Trong phạm vi nội dung của đề tài này, luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về phép biện chứng duy vật và sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp phân tích đánh giá tổng hợp; phương pháp thống kê hình sự; phương pháp điều tra khảo sát; phương pháp so sánh đối chiếu; trao đổi chuyên gia v.v... . 7. Điểm mới của đề tài. Nghiên cứu nhóm tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp một cách toàn diện và có hệ thống trên cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp từ năm 2000 đến năm 2005 ở nước ta. Trên cơ sở nghiên cứu những số liệu các vụ án được điều tra, khám phá, xét xử, đặc điểm nhân thân của những người phạm tội,đánh giá thực trạng tình hình đấu tranh phòng chống các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp (đánh giá những kết quả đã đạt được, những mặt còn tồn tại) từ đó làm rõ những nguyên nhân gây nên tồn tại qua đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm. 9 8. Cơ cấu của luận văn. Cơ cấu của luận văn bao gồm 3 chương, lần lượt đi từ những nghiên cứu về mặt lý luận, tiếp đến là những vấn đề thực tiễn và cuối cùng, đưa ra các giải pháp đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. - Chương 1: Thống nhất quan điểm về đấu tranh phòng, chống các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp - Chương 2: Tình hình và kết quả đấu tranh phòng chống các tội phạm xâm phạm hoạt động tưpháp từ năm 2000 đến năm 2005 - Chương 3: Những giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp. 10 Chương 1: THỐNG NHẤT QUAN ĐIỂM VỀ ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG CÁC TỘI PHẠM XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP 1.1. Nhận thức chung về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp 1.1.1. Vài nét lịch sử phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, trong những năm tháng đầu tiên sau khi giành được độc lập, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Nền kinh tế đất nước vốn rất nghèo nàn, lạc hậu, vừa trải qua nạn đói năm 1945, nền tài chính kiệt quệ, hầu như không có gì, 95% dân số toàn quốc hoàn toàn mù chữ. Trong khi đó, nguy cơ ngoại xâm từ bên ngoài lấy danh nghĩa đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật. Khoảng 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch mượn danh nghĩa Đồng Minh vào giải giáp quân đội Nhật. Ở miền Nam, quân đội Pháp được quân Anh yểm trợ xâm lược chiếm Sài Gòn. Bên trong đất nước, bọn phản động người Việt được sự trợ giúp của đế quốc ngoại bang và tàn quân của chế độ cũ nổi dậy chống phá nhằm lật đổ chính quyền nhân dân non trẻ để thành lập một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng. Đứng trước tình hình đó, nhân dân ta phải thực hiện ba nhiệm vụ lớn là diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm. Chính vì vậy, pháp luật hình sự được xây dựng thời kỳ này chủ yếu tập trung phục vụ ba nhiệm vụ nói trên. Nhưng do tình hình hết sức khẩn trương lúc bấy giờ, nên không thể ban hành kịp các văn bản quy phạm pháp luật cũng như các văn bản quy phạm pháp luật hình sự cần thiết. Do đó, ngày 10/10/1945, nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 47-SL cho tạm thời giữ các luật lệ cũ ở ba miền Bắc, Trung, Nam trong đó có Bộ "Luật hình An Nam", Bộ "Hoàng Việt hình luật", và Bộ "Hình luật pháp tu chính". Điều 1 Sắc lệnh quy định:"cho đến khi ban hành bộ luật pháp duy nhất cho toàn cõi nước Việt 11 Nam, các luật lệ hiện hành vẫn tạm giữ nguyên như cũ" với điều kiện "Những điều khoản trong luật lệ cũ được tạm giữ lại do sắc luật này chỉ thi hành khi nào không trái với nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa" (Điều 12 Sắc lệnh). Do tình hình đất nước lúc bấy giờ nên vấn đề xây dựng pháp luật chưa được quan tâm, các văn bản pháp luật được ban hành thường mang tính thời kỳ, phục vụ những nhiệm vụ trước mắt. Sắc lệnh số 40 ngày 29/3/1946 có quy định: "Những người phụ trách các đề lao, các trại giam, giữ người sau hạn giam mà không có lệnh gia hạn sẽ bị phạt tù từ hai năm đến năm năm và phạt tiền từ 1000 đến 10000 đồng" (Điều 18). Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cũng đã ghi nhận một số nguyên tắc trong hoạt động của cơ quan tư pháp như Điều 68 quy định: "Cấm không được tra tấn, đánh đập, ngược đãi những bị cáo và tội nhân". Để đảm bảo tính đúng đắn của họat động tư pháp, nguyên tắc này cũng đã được ghi nhận trong Sắc lệnh số 150-SL ngày 12/4/1953 về việc thành lập Tòa án nhân dân đặc biệt. Điều 6 Sắc lệnh quy định: "Khi hỏi tuyệt đối không được đánh đập, tra tấn". Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, đất nước ta bị chia làm hai miền: miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, còn miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm thống trị. Trước tình hình đó, pháp luật hình sự thời kỳ này phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và tiến hành cách mạng dân tộc giải phóng miền Nam. Miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước. Đảng và Nhà nước tiến hành cuộc cải cách ruộng đất rộng khắp trên toàn miền Bắc. Để đảm bảo quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của công dân, Chính phủ đã ban hành Luật số 12 103/SL-005 ngày 20/5/1953. Sắc lệnh này quy định trách nhiệm hình sự đối với hành vi tra tấn, dùng nhục hình cũng như một số hành vi khác xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan tư pháp, cụ thể Điều 14 quy định: "Đối với những người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam tuyệt đối nghiêm cấm tra tấn hoặc dùng bất cứ nhục hình nào", "Nếu phạm tội tra tấn, dùng nhục hình sẽ bị xử theo hình luật chung". Điều 16 Sắc lệnh cũng quy định chế tài đối với hành vi bắt, giam người, khám đồ vật, nhà ở thư tín trái đạo luật này thì tùy trường hợp có thể bị thi hành kỷ luật hành chính hoặc bị xử phạt từ 15 ngày đến ba năm tù. Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967, Điều 17 quy định: "Kẻ nào biết rõ phần tử phản cách mạng mà chưa chấp che giấu, tiếp tế, giúp đỡ cho chúng lẩn trốn hoặc cất giấu tang vật thủ tiêu chứng cứ phạm tội của chúng thì bị phạt tù từ hai năm đến mười năm". Kể từ khi miền Bắc tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, số lượng tài sản Nhà nước chiếm tỷ lệ lớn trong nền kinh tế quốc. Mặt khác, thời kỳ này, nền kinh tế Việt Nam mang đậm tính chất kinh tế bao cấp, tội phạm về kinh tế và tội phạm xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa... gia tăng nhiều. Đáp ứng yêu cầu của thực tế và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm, ngày 21/10/1970, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành hai pháp lệnh: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản công dân. Hai pháp lệnh này có quy định về tội bao che cho kẻ xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và tội bao che kẻ xâm phạm tài sản công dân. Với chiến thắng năm 1975, miền Nam được giải phóng, đất nước ta hoàn toàn thống nhất. Cả nước bắt tay vào khắc phục những hậu quả của chiến tranh và tiến hành xây dựng đất nước, khôi phục kinh tế, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Sau thất bại ở Việt Nam, đế quốc Mỹ đã thực hiện nhiều kế hoạch nhằm chống 13 phá chính quyền cách mạng Việt Nam như bao vây cấm vận kinh tế, kích động, dụ dỗ người dân Việt Nam chạy ra nước ngoài hoặc sử dụng người dân Việt sống lưu vong ở nước ngoài chống phá Việt Nam khiến cho tình hình xã hội ở miền Nam chưa được ổn định. Song song với việc chính thức thành lập Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành Sắc luật số 03/SL-76, ngày 15/3/1976, quy định các tội phạm và hình phạt. Sắc luật này trừng trị các tội phản cách mạng, các tội xâm phạm tài sản công cộng, các tội xâm phạm thân thể, nhân phẩm, sức khỏe, tài sản riêng của công dân, các tội kinh tế (đầu cơ, tích trữ, phá rối trị trường, làm hàng giả...), các tội chức vụ, hối lộ, các tội xâm phạm trật tự, an toàn công cộng [6]. Điều 3 Sắc luật quy định: "biết rõ phần tử phản cách mạng mà che giấu thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm". Hướng dẫn thi hành Sắc luật số 03/SL-76, Bộ Tư pháp đã ban hành thông tư số 03/BTP ngày 12/4/1976. Điều 5 Thông tư quy định: "Biết rõ phần tử phản cách mạng mà che giấu, chứa chấp thì bị xử phạt từ 1 năm đến 7 năm tù". Trong nội dung của Thông tư này cũng có một số quy định về những hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp khác như: các hành vi bắt, giam người trái phép, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật trái phép do người có chức vụ quyền hạn thực hiện thì bị xử theo quy định của Điều 7 Sắc luật số 03/SL-76 ngày 15/3/1976, cụ thể như sau: "Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn và tội nhận hối lộ có hai mức hình phạt từ 6 tháng đến 5 năm hoặc đến 15 năm"; hoặc hành vi trốn trại giam hoặc tổ chức cho kẻ khác trốn trại giam không vì mục đích phản cách mạng thì bị xử theo Điều 9 Sắc luật số 03 về tội xâm phạm đến trật tự công cộng, an toàn công cộng với hình phạt tù từ ba tháng đến năm năm, phạt tiền đến 1000 đồng và có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. 14 Như vậy, từ năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự lần thứ nhất (năm 1985), các tội xâm phạm hoạt động tư pháp cũng đã được pháp luật hình sự quy định. Tuy nhiên, những quy định này mới chỉ nằm rải rác ở một số văn bản pháp luật hình sự đơn hành chứ chưa có một văn bản quy phạm pháp luật hình sự nào quy định về nhóm tội phạm này một cách có hệ thống và cụ thể những hành vi nào là hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp. Do vậy, quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp chưa có tính hệ thống, thiếu cụ thể, còn thiếu nhiều, tản mạn và chưa đề cập được hết các khía cạnh và sự phức tạp của các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp dẫn đến việc gặp nhiều khó khăn trong quá trình xử lý các tội phạm này. Đứng trước yêu cầu của tình hình mới, khi đất nước hoàn toàn thống nhất, cả nước thực hiện nhiệm vụ bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ chủ nghĩa xã hội, xây dựng nền kinh tế nước nhà, cùng với việc hoàn thiện hệ thống các cơ quan tư pháp thì vấn đề đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và phòng chống các hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư pháp nói riêng trở nên bức xúc. Để khắc phục những hạn chế trên cần phải có quy định cụ thể và có hệ thống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong văn bản quy phạm pháp luật hình sự. Tại kỳ họp thứ 9, ngày 27/6/1985, Quốc hội khóa VII đã thông qua Bộ luật hình sự, có hiệu lực từ ngày 1/1/1986. Sự ra đời của Bộ luật hình sự năm 1985 đánh dấu bước phát triển cao của hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành là một sự kiện chính trị pháp lý quan trọng, góp phần tích cực vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước ta và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bộ luật hình sự này có sự kế thừa và phát triển luật hình sự của nhà nước ta từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945, với sự tích lũy kinh nghiệm thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm thời gian trước năm 1985, kế thừa 15 những tinh hoa của pháp luật hình sự tiến bộ, thể hiện tính nhân văn, nhân đạo xã hội chủ nghĩa, Bộ luật hình sự ghi nhận được những nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự xã hội chủ nghĩa như nguyên tắc pháp chế, nhân đạo, dân chủ, cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt. Về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, Bộ luật hình sự năm 1985 đã dành một chương riêng ở Phần các tội phạm, cụ thể là Chương X với 19 điều luật, từ Điều 230 đến Điều 248 quy định về nhóm tội phạm này. Trong 19 điều luật này có 1 điều quy định về khái niệm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, 1 điều quy định về hình phạt bổ sung, còn 17 điều quy định 20 tội thuộc nhóm tội xâm phạm họat động tư pháp gồm các tội: - Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội (Điều 231); - Tội ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật (Điều 232); - Tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật (Điều 233); - Tội dùng nhục hình (Điều 234); - Tội bức cung (Điều 235); - Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án (Điều 236); - Tội thiếu trách nhiệm để người bị giam trốn (Điều 237); - Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn tha trái pháp luật người bị tạm giam (Điều 238); - Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn giam người trái pháp luật (Điều 239); - Tội không chấp hành án (Điều 240); - Tội cản trở việc thi hành án (Điều 240); - Tội cung cấp tài liệu sai sự thật (Điều 241); - Tội khai báo gian dối (Điều 241); - Tội từ chối khai báo (Điều 242); - Tội từ chối kết luận giám định (Điều 242); 16 - Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác cung cấp tài liệu sai sự thật, khai báo gian dối (Điều 243); - Tội vi phạm việc niêm phong, kê biên tài sản (Điều 244); - Tội trốn khỏi nơi giam (Điều 245); - Tội che giấu tội phạm (Điều 246); - Tội không tố giác tội phạm (Điều 247). Lần đầu tiên khái niệm pháp lý về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp được ghi nhận một cách hoàn chỉnh trong Bộ luật hình sự. Trong các văn bản trước khi có Bộ luật hình sự chưa đưa ra khái niệm về các tội phạm này mà mới chỉ quy định các hành vi cụ thể bị nghiêm cấm. Theo Điều 230 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: "Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, của tổ chức xã hội và của công dân". Có thể nói, Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời đã đưa ra được một khái niệm tương đối hoàn chỉnh về các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, mô tả cụ thể và rõ ràng các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của từng tội phạm cụ thể cũng như quy định các loại, mức hình phạt tương ứng đối với từng tội phạm. Như vậy, trừ tội bắt, giam, khám người, khám đồ vật, nhà ở, thư tín trái phép và tội tra tấn, dùng nhục hình đã được quy định trong Luật số 103/SL-57 ngày 20/5/1957 bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân, các tội phạm khác mới được quy định tại chương này [14]. Qua mô tả các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của từng tội phạm cụ thể, có thể nói, các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi nguy hiểm cho xã hội do những người ở các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng hoặc những người khác thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý xâm hại đến 17 hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, của các tổ chức xã hội và của công dân. Về hình phạt, pháp luật hình sự trước đây chỉ quy định hình phạt tiền, theo Bộ luật hình sự năm 1985 thì hình phạt được áp dụng đối với từng tội phạm cụ thể được quy định trong mỗi điều luật. Hình phạt đối với các tội này bao gồm: hình phạt tù giam, cải tạo không giam giữ, cảnh cáo. Ngoài hình phạt chính được quy định trong từng điều luật, Bộ luật còn dành riêng một điều quy định hình phạt bổ sung được phép áp dụng. Điều 248 quy định: "Người nào phạm một trong các tội quy định ở các Điều 231 đến 242, thì bị cấm đảm nhiệm những chức vụ nhất định từ hai năm đến năm năm". Nhìn chung, hình phạt được áp dụng đối với các tội phạm này nhẹ, khoảng cách giữa mức tối thiểu và tối đa của hình phạt khá dài. Trên cở sở thực tiễn và tình hình tội phạm đã xảy ra trong những năm trước và dự báo tình hình tội phạm trong những năm tiếp theo, Bộ luật hình sự năm 1985 lần đầu tiên quy định một cách thống nhất, tổng thể và có hệ thống về tội phạm và hình phạt, quy định khá đầy đủ các hành vi nguy hiểm cho xã hội ở mức độ đáng kể bị coi là tội phạm. Việc quy định các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp thành một chương riêng trong Bộ luật cho thấy ý nghĩa quan trọng cụ thể hóa những quy định về chức năng, nhiệm vụ, vị trí, vai trò của các cơ quan tư pháp bằng các quy phạm pháp luật hình sự nhằm bảo vệ cho hoạt động của các cơ quan này khỏi các hành vi xâm hại. Nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, phù hợp với những đổi mới của xã hội, Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997. Tuy nhiên, riêng về chương các tội xâm phạm hoạt động tư pháp thì vẫn tương đối ổn định, chỉ có tội không tố giác tội phạm và tội che giấu tội phạm là có thay đổi chút ít. 18 Qua 15 năm thực hiện, Bộ luật hình sự năm 1985 đã góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, có những đóng góp không nhỏ vào thành công chung của đất nước, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự năm 1985 bộc lộ những hạn chế nhất định, chưa phù hợp với tình hình thực tiễn, chưa chính xác về mặt khoa học. Nhiều tội danh quy định quá chung chung, bố cục một số chương, điều chưa hợp lý; những hành vi phạm tội có tính chất, mức độ nguy hiểm khác nhau lại được để cùng một điều luật, một tội danh với một chế tài xử phạt; khoảng cách giữa mức tối thiểu và mức tối đa trong khung hình phạt của nhiều điều luật quá dài đã tạo ra những sơ hở nhất định, dẫn đến sự tùy tiện khi áp dụng, hiệu quả xử lý không nghiêm, không thống nhất trong việc áp dụng hình phạt. Xuất phát từ tình hình đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy nội lực, hội nhập khu vực và thế giới, đặt ra yêu cầu phải xây dựng một khung pháp luật hoàn chỉnh vừa khuyến khích các yếu tố tích cực của nền kinh tế thị trường phát triển, vừa có những quy định nghiêm cấm với các chế tài nghiêm khắc nhằm phòng ngừa và xử lý nghiêm minh những tiêu cực của cơ chế đó. Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 21/12/1999, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X tại kỳ họp thứ XI đã thông qua Bộ luật hình sự mới có hiệu lực từ ngày 01/07/2000. Về phần các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp cũng được các nhà lập pháp nghiên cứu, xây dựng cho phù hợp với yêu cầu của giai đoạn đổi mới. Bộ luật hình sự năm 1985 đã tổng hợp tương đối đầy đủ các tội phạm này với những quy định cụ thể, Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung trên cơ sở kế thừa Bộ luật hình sự năm 1985 đã cụ thể hóa hơn nữa các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp tạo điều kiện cho việc phòng ngừa tội phạm 19 và xử lý chính xác. Các tội xâm phạm họat động tư pháp được xếp ở chương XXII với 23 điều từ Điều 292 đến Điều 314 gồm 1 điều quy định khái niệm và 22 điều với 22 tội danh cụ thể. So với Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 có số điều luật quy định về nhóm tội phạm này nhiều hơn 4 điều, bổ sung thêm 3 tội danh mới, các tội danh đã được quy định trước đây vẫn giữ nguyên, không tội danh nào bị loại bỏ. Các tội danh thuộc nhóm tội này mới được quy định gồm: Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội (Điều 294); Tội không thi hành án (Điều 305); Tội đánh tháo người bị giam, giữ, người đang bị dẫn giải, người đang bị xét xử (Điều 312). Ngoài việc bổ sung 3 điều luật mới, Bộ luật hình sự năm 1999 có 2 điều luật tách các hành vi được quy định trong cùng một điều (trong Bộ luật hình sự trước đây) thành những điều luật riêng biệt. Cụ thể: tách tội không chấp hành án, tội cản trở việc thi hành án (Điều 240 Bộ luật hình sự năm 1985) thành 2 điều: tội không chấp hành án (Điều 304) và tội cản trở việc thi hành án (Điều 306); tách tội ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật (Điều 232 Bộ luật hình sự năm 1985) thành 2 điều: tội ra bản án trái pháp luật (Điều 295) và tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 296). Lý do của việc tách thành 2 điều riêng biệt là chủ thể và mặt khách quan của hai tội không giống nhau cho nên quy định trong cùng một điều là không khoa học và hợp lý. Về chính sách xử lý, hình phạt áp dụng đối với các tội phạm này, đặc biệt là các tội phạm do cán bộ tư pháp thực hiện bị xử lý nghiêm khắc hơn so với quy định của Bộ luật hình sự năm 1985. Ví dụ, các tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, tội bức cung, tội dùng nhục hình, v.v... đều tăng mức hình phạt lên so với trước đây. Hầu hết các điều luật được quy định thêm nhiều khung hình phạt, cách quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho việc cá thể hóa hình phạt đối với các loại tội phạm khác nhau căn cứ vào mức độ 20 nguy hiểm của hành vi. Hình phạt bổ sung không quy định thành một điều luật riêng biệt mà được quy định ngay trong từng điều luật cụ thể. Một điểm rất quan trọng thuộc chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là loại trừ trách nhiệm hình sự về việc không tố giác tội phạm trong những trường hợp là ông bà, cha mẹ, con cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội. Điều này thể hiện nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự nhà nước ta. 1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Bộ luật hình sự 1999. Trong cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hệ thống các cơ quan tư pháp giữ một vị trí rất quan trọng. Hoạt động tư pháp bao gồm hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, các cơ quan và tổ chức bổ trợ tư pháp thực hiện trong khuôn khổ pháp luật để phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm hình sự nhằm bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội; bảo vệ lợi ích lợi ích của nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, trong hoạt động chung của bộ máy nhà nước, hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp (cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Thi hành án) một mặt góp phần bảo đảm cho hoạt động bình thường của toàn xã hội thông qua việc đấu tranh chống các tội phạm, bảo vệ lợi ích Nhà nước, tính mạng, tài sản, tự do, nhân phẩm, danh dự cho mỗi công dân; đảm bảo dân chủ, công bằng xã hội cho mỗi công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong hoạt động tư pháp; bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm mỗi tội phạm xảy ra phải được phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh đúng người đúng tội, không để lọt tội phạm, không bắt nhầm người vô tội. Mặt khác, nó góp phần tích cực vào việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm, giáo dục cho công dân có ý thức tuân theo pháp luật. 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan