ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ THANH
ĐẤU THẦU CỦA CÁC NHÀ THẦU TRONG NƯỚC
TRONG ĐẤU THẦU XÂY LẮP QUỐC TẾ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2012
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ THANH
ĐẤU THẦU CỦA CÁC NHÀ THẦU TRONG NƯỚC
TRONG ĐẤU THẦU XÂY LẮP QUỐC TẾ
Chuyên ngành
Mã số
: Luật Quốc tế
: 60 38 60
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Bá Chiến
Hà Nội - 2012
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đấu thầu là một lĩnh vực mới tại Việt Nam, Luật đấu thầu chính thức
được ban hành năm 2005. Chưa đầy 6 năm thực thi Luật đấu thầu trong thực
tế nhưng cũng cho chúng ta thấy được một bức tranh rất đa dạng, sinh động
về lĩnh vực này. Mục đích của đấu thầu là nhằm chọn ra nhà thầu có khả năng
đáp ứng tốt nhất yêu cầu đòi hỏi của bên mời thầu thực hiện dự án, thực hiện
công việc. Mặt khác đấu thầu còn là một hình thức lựa chọn nhà thầu một
cách công bằng, khách quan tạo điều kiện cho tất cả chủ thể có khả năng đều
có cơ hội tham gia thầu.
Thực hiện chính sách đổi mới của Đảng và nhà nước, những năm qua
khối lượng đầu tư nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng đã tăng lên rõ rệt.
Nhiều công trình quy mô lớn có công nghệ, kỹ thuật mới mà các nhà thầu xây
dựng và tư vấn xây dựng của Việt Nam chưa đảm đương được, đòi hỏi phải
đấu thầu quốc tế. Đến nay đã có nhiều nhà thầu pháp nhân nước ngoài vào
thực hiện tư vấn xây dựng xây lắp công trình tại Việt Nam. Việc quy định các
nhà thầu phải liên doanh liên kết với nhà thầu Việt Nam hoặc phải thuê thầu
phụ Việt Nam đã thực hiện một phần việc bảo hộ thị trường xây dựng trong
nước, tạo điều kiện cho các nhà thầu Việt Nam có điều kiện học hỏi, nâng cao
trình độ quản lý và tiếp cận với công nghệ, kỹ thuật tiên tiến. Nhờ đó một số
nhà thầu đã vươn lên, tham dự và trúng thầu một số gói thầu lớn thuộc các dự
án có đấu thầu quốc tế.
Tuy nhiên đứng trước thực trạng những công trình xây dựng ngay trên
đất nước mình mà tất cả mọi công việc vẫn lệ thuộc vào người nước ngoài.
Không chỉ bị bóp nghẹt về khả năng tài chính và còn làm giảm vị thế cũng
như khả năng nắm bắt khoa học kỹ thuật. Nếu không nhanh chóng tự làm chủ
dự án thì không những không đem lại công việc thực sự cho người lao động
4
mà giá trị kinh tế thu được cho đất nước bị chia sẻ. Có nhiều gói thầu xây lắp
quốc tế có nhà thầu trong nước tham gia song nhà thầu thắng thầu lại là các
nhà thầu nước ngoài, họ vượt nhà thầu trong nước về năng lực tài chính, đó là
nhà thầu nước ngoài chào giá thấp lợi dụng ngay ưu thế về khoa học công
nghệ của họ. Rồi sau đó họ có thể bán thầu cho chính nhà thầu Việt Nam thực
hiện. Thực trạng này làm cho nhà thầu Việt Nam thua cuộc trên chính sân
nhà. Nhưng thực lực nhà thầu Việt Nam có thể không thua kém gì so với nhà
thầu nước ngoài.
Sở dĩ có tình trạng đó là do nhiều nguyên nhân khác nhau, cả nguyên
nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Trong đó, đặc biệt có nguyên
nhân từ hệ thống pháp luật về đấu thầu nói chung và đấu thầu xây lắp quốc tế
nói riêng với tư cách là cơ sở nền tảng để các nhà thầu trong nước vận dụng
áp dụng trong quá trình tham gia các gói thầu quốc tế. Những nội dung trên
đặt ra yêu cầu cấp thiết đó là nghiên cứu tìm ra những giải pháp tốt nhất để
khắc phục những tồn tại và tăng cường hiệu quả hệ thống pháp lý nhằm tạo
công cụ tốt nhất cho các nhà thầu trong nước trong quá trình tham gia đấu
thầu xây lắp quốc tế. Xuất phát từ thực trạng nêu trên tôi chọn đề tài nghiên
cứu luận văn là: “Đấu thầu của các nhà thầu trong nước trong đấu thầu xây
lắp quốc tế”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong khoa học pháp lý nước ta, từ trước đến nay chưa có một công
trình nghiên cứu chuyên sâu về Pháp luật đấu thầu của các nhà thầu trong
nước trong đấu thầu xây lắp quốc tế. Trong số những văn bản pháp luật về
đấu thầu đã ban hành tuy đã có riêng Luật đấu thầu nói chung nhưng việc đề
cập đến quy định về đấu thầu quốc tế nói chung, đấu thầu xây lắp quốc tế nói
riêng chỉ vỏn vẹn ở một số Điều của Luật và một số các văn bản dưới luật
hướng dẫn kèm theo (Khoản 6 Điều 4; Điều 13; Điều 14 Luật Đấu thầu của
Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam số 61/2005/QH11 ngày
29/11/2005 và Luật đấu thầu sửa đổi bổ sung năm 2009) nhưng khi áp dụng
5
vào thực tế thì mức độ phù hợp của văn bản còn hạn chế và nhiều thiếu sót.
Nhìn chung, vấn đề pháp luật quy định về đấu thầu của các nhà thầu trong nước
trong đấu thầu xây lắp quốc tế mới chỉ dừng lại ở nét chung cơ bản, chưa có sự
phân tích chuyên sâu, các quy định còn chung chung, chưa thật sự phù hợp khi
áp dụng vào thực tiễn khiến cho tình hình các nhà thầu trong nước khi tham gia
đấu thầu xây lắp quốc tế đạt hiệu quả không cao. Điều này đòi hỏi sự cần thiết
phải có những công trình nghiên cứu tổng hợp các quy định pháp luật về đấu
thầu xây lắp quốc tế đã có đồng thời kết hợp những bất cập và tồn đọng được
rút ra từ thực tế thực hiện các gói thầu xây lắp quốc tế của các nhà thầu trong
nước nhằm góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật Đấu thầu nói chung và
pháp luật đấu thầu của các nhà thầu trong nước trong quá trình tham gia đấu
thầu xây lắp quốc tế nói riêng.
3. Mục đích, ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài luận văn
Mục đích của luận văn là:
- Làm sáng tỏ vấn đề về pháp luật đấu thầu của các nhà thầu trong nước
trong quá trình tham gia đấu thầu xây lắp quốc tế từ góc độ lý luận và pháp lý.
- Làm sáng tỏ những quy định của pháp luật hiện hành về đấu thầu của
các nhà thầu trong nước trong quá trình tham gia đấu thầu xây lắp quốc tế.
- Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn đấu thầu của các nhà thầu
trong nước trong quá trình tham gia đấu thầu xây lắp quốc tế. Từ đó kiến nghị
những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này.
Ý nghĩa của luận văn:
- Ý nghĩa lý luận
+ Luận văn sẽ là tài liệu phục vụ cho việc học tập, giảng dạy và nghiên
cứu khoa học tại các cơ sở đào tạo Luật ở Việt Nam, đặc biệt đối với chuyên
ngành Tư pháp Quốc tế.
6
+ Nội dung luận văn có ý nghĩa thiết thực, bổ ích, cần thiết cho mọi cá
nhân, tổ chức khi tìm hiểu vấn đề đấu thầu của các nhà thầu trong nước trong
quá trình tham gia đấu thầu xây lắp quốc tế.
- Ý nghĩa thực tiễn
Chúng tôi mong rằng những kiến nghị khoa học trong luận văn sẽ
không chỉ được sử dụng trong vấn đề pháp điển hoá Luật Đấu thầu nói chung
và góc độ pháp luật đấu thầu của các nhà thầu trong nước trong quá trình
tham gia đấu thầu xây lắp quốc tế nói riêng mà còn được áp dụng trong thực
tiễn đối với các nhà thầu trong nước đang rất cần thiết có một hệ thống quy
định rõ ràng về vấn đề này để dần nâng cao năng lực của nhà thầu trong nước
trong đấu thầu xây lắp quốc tế.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đây là đề tài tương đối rộng, do vậy Luận văn không có tham vọng
nghiên cứu toàn diện các vấn đề về lĩnh vực Đấu thầu của các nhà thầu trong
nước trong đấu thầu xây lắp quốc tế mà chủ yếu đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu ở
góc độ Pháp luật về đấu thầu đối với các nhà thầu trong nước trong đấu
thầu xây lắp quốc tế.
5. Điểm mới của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên đi sâu vào phân tích một cách toàn
diện, đầy đủ và có hệ thống vấn đề Pháp luật về đấu thầu của các nhà thầu
trong nước trong đấu thầu xây lắp quốc tế. Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích
những quy định hiện hành của Nhà nước về vấn đề này, đối chiếu với thực tế
các công trình xây lắp quốc tế có nhà thầu trong nước tham gia, chỉ ra những
ưu điểm, nhược điểm và đề xuất hiệu chỉnh những bất cập cần phải khắc
phục, góp phần hoàn thiện pháp luật.
7
6. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận duy vật biện chứng của chủ
nghĩa Mác - Lê nin kết hợp với những quan điểm, đường lối, chủ trương của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về pháp luật về đấu thầu của các
nhà thầu trong nước trong đấu thầu xây lắp quốc tế.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: phương
pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp
thống kê, phương pháp đối chiếu, phương pháp chứng minh...
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, luận văn có kết cấu thành ba
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp luật đấu thầu đối với các nhà thầu
trong nước trong đấu thầu xây lắp quốc tế.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật đấu thầu đối với các nhà
thầu trong nước trong đấu thầu xây lắp quốc tế.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật Đấu thầu đối với các nhà
thầu trong nước trong đấu thầu xây lắp quốc tế.
8
Chương 1
Cơ sở lý luận và pháp luật đấu thầu đối với các nhà thầu trong nước
trong đấu thầu xây lắp quốc tế
1.1 Các khái niệm
1.1.1. Khái niệm đấu thầu
Thuật ngữ “đấu thầu” đã xuất hiện trong thực tế xã hội từ xa xưa. Theo
Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học xuất bản năm 1998) thì đấu thầu được
giải thích là việc “đọ công khai, ai nhận làm, nhận bán với điều kiện tốt nhất
thì được giao cho làm hoặc được bán hàng (một phương thức giao làm công
trình hoặc mua hàng)”. Như vậy bản chất của việc đấu thầu đã được xã hội
thừa nhận như là một sự ganh đua (cạnh tranh) để được thực hiện một việc
nào đó, một yêu cầu nào đó.
Trên thực tế đã tồn tại một số định nghĩa về thuật ngữ đấu thầu trong
các văn bản khác nhau. Tuy nhiên, bản chất của thuật ngữ về đấu thầu dù dưới
dạng Quy chế hay Luật cũng đều sử dụng một thuật ngữ có xuất xứ từ tiếng
Anh là “Procurement” (nghĩa là mua sắm). Như vậy quy chế Đấu thầu, Luật
Đấu thầu đồng nghĩa với Quy chế Mua sắm (Procurement Regulation) hoặc
Luật Mua sắm (Law on Procurement).
Từ khi đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới, nền kinh tế đã mở cửa
với thế giới thì bắt đầu xuất hiện khái niệm “đấu thầu”. Theo định nghĩa về
thuật ngữ “đấu thầu” trong Luật Đấu thầu của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩ Việt Nam số 61/2005/QH11 ngày 29/11/2005, tại khoản 2 Điều 4
“Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời
thầu để thực hiện gói thầu thuộc các dự án quy định tại Điều 1 của Luật này
trên cơ sở bảo đảm tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh
tế”, dự án tại Điều 1 của Luật đấu thầu là các dự án sử dụng vốn nhà nước:
“Luật đấu thầu điều chỉnh các hoạt động đấu thầu để lựa chọn nhà thầu cung
9
cấp dịch vụ tư vấn, mua sắm hàng hoá, xây lắp đối với gói thầu thuộc các dự
án sau đây: 1. Dự án sử dụng vốn nhà nước từ 30% trở lên cho mục tiêu đầu
tư phát triển, bao gồm: a) Dự án đầu tư xây dựng mới, nâng cấp mở rộng các
dự án đã đầu tư xây dựng; b) Dự án đầu tư để mua sắm tài sản kể cả thiết bị,
máy móc không cần lắp đặt; c) Dự án quy hoạch phát triển vùng, quy hoạch
phát triển ngành, quy hoạch xây dựng đô thị, nông thôn; d) Dự án nghiên cứu
khoa học, phát triển công nghệ, hỗ trợ kỹ thuật; đ) Các dự án khác cho mục
tiêu đầu tư phát triển;…”. Do vậy bản chất của đấu thầu là quá trình lựa chọn
nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu để thực hiện gói thầu thuộc
các dự án sử dụng vốn nhà nước. Kết quả của sự lựa chọn là có hợp đồng
được ký kết với các điều khoản quy định chi tiết trách nhiệm của hai bên. Một
bên là nhà thầu phải thực hiện các nhiệm vụ như nêu trong Hồ sơ mời thầu
(có thể là dịch vụ tư vấn, cung cấp hàng hoá hoặc chịu trách nhiệm xây dựng
một công trình…), một bên là chủ đầu tư có trách nhiệm giám sát, kiểm tra,
nghiệm thu và thanh toán tiền. Như vậy thực chất của quá trình đấu thầu ở
Việt Nam đối với các dự án sử dụng vốn nhà nước là một quá trình chi tiêu,
sử dụng tiền của Nhà nước.
Mỗi phương thức giao dịch trên thị trường đều có các đặc điểm riêng
khác nhau. Những đặc điểm riêng đó sẽ tạo nên những nét đặc trưng của
chúng, quyết định đến quy trình tổ chức ký kết, thực hiện các hợp đồng có
liên quan. Vì vậy, việc nghiên cứu phát triển các đặc điểm riêng này một cách
thấu đáo là một công việc không thể thiếu được của những người tham gia
đấu thầu. Hoạt động đấu thầu có một số đặc điểm sau đây:
* Trên thị trường chỉ một người mua và nhiều người bán:
Người mua trên thị trường phần lớn thường là những tổ chức, cơ quan,
các chủ đầu tư được Chính phủ cấp tài chính mua sắm hàng hoá, dịch vụ, xây
dựng công trình thường. Nhưng cũng có những trường hợp người mua thiếu
vốn phải đi vay mà điều kiện đòi hỏi phải mở thầu. Do có khó khăn về mặt
nghiệp vụ, kinh nghiệm kinh doanh cho nên họ phải lợi dụng sự cạnh tranh
10
giữa các nhà thầu để từ đó lựa chọn được người bán thích hợp nhất và có các
điều kiện giao dịch tối ưu nhất. Ngược lại, các nhà thầu cung cấp hàng hoá,
dịch vụ được tự do cạnh tranh với nhau để giành quyền cung cấp và kết quả
của sự cạnh tranh đó đã làm cho giá cả tiến gần lại với giá thực trên thị
trường, điều mà bất cứ người mua nào cũng mong đợi.
* Đấu thầu tiến hành theo những điều kiện quy định trước:
Mặc dù được tự do cạnh tranh giành quyền cung cấp nhưng các nhà thầu
phải thực hiện theo những điều kiện mà Bên mời thầu đã quy định trước. Hay
nói một cách khác, người mua chỉ có một nhưng họ đã nêu ra những điều kiện
ràng buộc rất chặt chẽ, buộc các nhà thầu phải tuân theo. Trong đấu thầu, các
điều kiện tài chính, các điều kiện kỹ thuật thường được thể hiện trong Hồ sơ
mời thầu. Các nhà thầu một khi thoả mãn tốt nhất các điều kiện mà Bên mời
thầu đưa ra mới mong có hy vọng trúng thầu, cá biệt có những trường hợp các
nhà thầu đã thoả mãn đầy đủ các điều kiện kỹ thuật, tài chính và uy tín, nhưng
vì không tìm được đối tác liên doanh, liên kết nên đã không giành được hợp
đồng. Và cũng có những nhà thầu không tìm được nhà thầu theo quy định nên
cũng không trúng thầu. Chính vì những lý do nói trên trong đấu thầu thì thị
trường thuộc về phía mời thầu, họ “vừa là người bị động, vừa là người chủ
động” là như vậy.
* Tính đặc biệt của đấu thầu còn thể hiện trong việc xác định thời
gian và địa điểm mở thầu và những vấn đề khác có liên quan.
Thời gian mở thầu phải được quy định trước, thông thường nó được thực
hiện sau khi thông báo mời thầu một số ngày nhất định. Khoảng thời gian này
tuy ước tính nhưng người ta phải tính toán sao cho hợp lý. Ngày giờ, địa điểm
sẽ được xác định cụ thể trong Hồ sơ mời thầu. Khi mở thầu các nhà thầu
thường phải có mặt nghe công bố tính hợp lệ của đơn chào và ký vào một
biên bản đã được chuẩn bị trước. Bên mời thầu sẽ công bố công khai một số
chỉ tiêu cơ bản của Hồ sơ dự thầu.
* Trong đấu thầu ngoài Bên mời thầu, nhà thầu, còn có sự hiện diện
của người thứ ba, đó là người tư vấn.
11
FIDIC, WB, ADB đều cho rằng “kỹ sư tư vấn” là người đảm bảo hạn
chế tới mức tối đa các tiêu cực phát sinh. Những thông đồng thoả hiệp làm
cho chủ dự án bị thiệt hại, vì vậy người kỹ sư tư vấn phải có trình độ, năng
lực chuyên môn để giúp chủ dự án giải quyết các vấn đề kỹ thuật với các
nhà thầu.
Với nền kinh tế thị trường việc hoạt động đấu thầu thực sự hết sức cần
thiết, ở góc độ xây lắp nói riêng, một hoạt động chiếm phần lớn giá trị đầu
tư của cả nước càng cần có khung pháp lý điều chỉnh kỹ càng. Khái niệm
đấu thầu quy định trong Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11 ngày 29/11/2005
của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Luật sửa đổi bổ
sung một số điều liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản của luật xây dựng số
38/2009/QH12, ngày 29/06/2009 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã cho chúng ta cái nhìn khái quát về bản chất hoạt động
đấu thầu.
1.1.2. Khái niệm nhà thầu trong nước
Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11 ngày 29/11/2005 của Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Luật sửa đổi bổ sung một số điều
liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản của Luật xây dựng số 38/2009/QH12,
ngày 29/06/2009 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại
Khoản 18 Điều 4 đưa ra khái niệm nhà thầu trong nước “Nhà thầu trong nước
là nhà thầu được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam” và khái
niệm nhà thầu nước ngoài tại khoản 19 Điều 4 “Nhà thầu nước ngoài là nhà
thầu được thành lập và hoạt động theo pháp luật của nước mà nhà thầu mang
quốc tịch”. Từ hai khái niệm nêu trên chỉ ra rất rõ rằng nhà thầu trong nước
khác với nhà thầu nước ngoài ở yếu tố quốc tich pháp nhân. Tuy nhiên nhìn
nhận lại khái niệm nhà thầu theo Luật đấu thầu và Luật sửa đổi luật đấu thầu
đưa ra chưa bao quát hết tính chủ thể tham gia đấu thầu là các nhà thầu trong
nước bởi lẽ nhà thầu tham gia đấu thầu theo quy định tại Điều 8 Luật đấu
thầu: Tư cách hợp lệ của nhà thầu là cá nhân “Nhà thầu là cá nhân có tư cách
12
hợp lệ khi có đủ các điều kiện sau đây: 1. Năng lực hành vi dân sự đầy đủ
theo quy định pháp luật của nước mà cá nhân đó là công dân; 2. Đăng ký
hoạt động hợp pháp hoặc chứng chỉ chuyên môn phù hợp do cơ quan có thẩm
quyền cấp; 3. Không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.”, khái niệm nhà thầu
trong nước nêu trên mới chỉ đề cập đến nhà thầu với tư cách là nhà thầu tổ
chức, thiếu hẳn nhóm chủ thể là cá nhân, bởi khi đấu thầu hình thức đấu thầu
rộng rãi là hình thức lựa chọn nhà thầu không giới hạn chủ thể đấu thầu tham
gia. Ở hình thức lựa chọn nhà thầu này so với khái niệm nhà thầu trong nước
đưa ra ở Luật đấu thầu ta có thể thấy sự mâu thuẫn ngay trong các khái niệm
của Luật, dẫn đến việc áp dụng luật khó khăn và mục đích của hoạt động đấu
thầu bị hạn chế: Bảo đảm tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch. Tuy nhiên
với những khái niệm đã có mặc dù chưa hoàn toàn thống nhất nhưng đã đem
lại cho người nghiên cứu những tri thức cần thiết nhất về bản chất của vấn đề.
1.1.3. Khái niệm đấu thầu xây lắp quốc tế
Hiện nay văn bản Luật đấu thầu và các văn bản Luật khác liên quan
chúng ta có đọc đi đọc lại, nghiên cứu dù ở mức độ đơn giản hay chuyên sâu
cũng không thể tìm thấy bất kỳ một dòng nào quy định cụ thể thế nào là: Đấu
thầu xây lắp quốc tế. Điều này cũng dễ hiểu vì Luật đấu thầu ở nước ta quy
định chung về hoạt động đấu thầu và các lĩnh vực đấu thầu dù là mua sắm, tư
vấn hay xây lắp thì quy trình tiến hành đấu thầu vẫn là một và tuỳ vào tính
chất gói thầu Bộ kế hoạch và Đầu tư sẽ đưa ra quy định mẫu hồ sơ kèm theo
(Thông tư số 01/2010/TT-BKH ngày 06/01/2010 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
ban hành Mẫu Hồ sơ mời thầu xây lắp; Thông tư số 02/2010/TT-BKH ngày
19/01/2010 của Bộ Kế hoạch Đầu tư quy định chi tiết lập Hồ sơ mời thầu gói
thầu xây lắp quy mô nhỏ). Đây là một hạn chế, tạo nên sự khó hiểu cho người
đọc, người nghiên cứu văn bản. Với mục đích nghiên cứu là đi sâu tìm hiểu
về pháp luật đấu thầu của các nhà thầu trong nước trong đấu thầu xây lắp
quốc tế, điều quan trọng mà luận văn muốn đề cập đến chính là khái niệm
13
"Đấu thầu xây lắp quốc tế" để từ đó nghiên cứu về đấu thầu của các nhà thầu
trong nước trong đấu thầu xây lắp quốc tế được chính xác và lột tả được bản
chất của vấn đề này.
Để có thể hiểu thế nào là " Đấu thầu xây lắp quốc tế " trước hết cần tìm
hiểu về "Đấu thầu xây lắp" và " Đấu thầu xây lắp quốc tế " là gì?
Đấu thầu xây lắp: là công việc có liên quan đến xây dựng công trình,
hạng mục công trình; lắp đặt hệ thống điện, nước của các công trình hoặc
hạng mục công trình. Nhà thầu xây lắp là những người quyết định chính đối
với dự án. Hay nói cách khác Đấu thầu xây lắp là quá trình lựa chọn các nhà
thầu đáp ứng được các yêu cầu về xây dựng, lắp đặt thiết bị các công trình,
hạng mục công trình của Bên mời thầu trên cơ sở cạnh tranh giữa các nhà
thầu xây dựng.
Thực chất của đấu thầu xây lắp là việc ứng dụng phương pháp xét hiệu
quả kinh tế trong việc lựa chọn tổ chức thi công xây dựng. Phương pháp này
đòi hỏi sự so sánh giữa các tổ chức xây dựng trên cùng một phương diện (như
kĩ thuật hay tài chính) để chọn lấy một nhà thầu có đủ khả năng sau đó lại so
sánh tiếp. Kết quả cuối cùng sẽ tìm ra được một tổ chức xây dựng đáp ứng tốt
nhất các yêu cầu của chủ đầu tư.
Đấu thầu xây lắp có một số đặc điểm khác so với đấu thầu trong những
lĩnh vực khác. Cụ thể:
* Sản phẩm của sản xuất xây lắp có đặc điểm là mang tính đơn chiếc,
công trình đặt tại một vị trí cố định, phục vụ cho một mục đích cụ thể, một
chủ trương quản lí sử dụng, không phải là hàng hoá thông thường mua bán
trên thị trường, khối lượng vật chất, tiền vốn tiêu hao, số lao động tham gia
vào quá trình sản xuất lớn gấp nhiều lần các loại sản phẩm thuộc lĩnh vực
khác, một công trình có nhiều ngành nghề và tổ chức cùng tham gia.
* Thời gian hoàn thành công trình lại dài, khi đã thực hiện các bước
như chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị xây dựng…thì không thể dễ dàng thay đổi, đình
14
hoãn. Điều đó chứng tỏ xây dựng cơ bản là một quá trình sản xuất phức tạp,
đa dạng có tác dụng cũng như hậu quả lâu dài về sau. Quy mô của công trình
càng lớn thì mối quan hệ với các ngành, lĩnh vực càng phức tạp và có tác
động lớn đến việc phân bố lại lực lượng sản xuất và dân cư, tác động đến môi
sinh, môi trường và cơ sỏ hạ tầng kỹ thuật khác. Vì thế việc áp dụng đấu thầu
trong xây dựng cơ bản không những phải đạt được tiêu chuẩn một công trình
với giá thành rẻ, chất lượng cao mà còn phải đặt trong tổng thể phát triển của
nền kinh tế xã hội.
Đấu thầu xây lắp quốc tế: Yếu tố Quốc tế trong khái niệm này được
pháp luật Đấu thầu đưa ra đặc điểm nhận biết chung là chủ thể tham gia đấu
thầu có nhà thầu nước ngoài (Khoản 6 Điều 4 – Luật Đấu thầu “Đấu thầu
quốc tế là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu
với sự tham gia của các nhà thầu nước ngoài và nhà thầu trong nước”). Như
vậy chủ thể tham gia đấu thầu là mấu chốt cơ bản nhất phân biệt đâu là đấu
thầu xây lắp trong nước đâu là đấu thầu xây lắp quốc tế.
Tóm lại, Đấu thầu xây lắp là hoạt động đấu thầu tuân thủ các quy định
chung về việc tiến hành đấu thầu lựa chọn nhà thầu thực hiện gói thầu xây
lắp, đối tượng của hoạt động đấu thầu này là xây lắp. Đấu thầu xây lắp quốc
tế là việc chủ thể tham gia đấu thầu gói thầu xây lắp rộng hơn bên cạnh nhà
thầu Việt Nam có chủ thể tham gia là nhà thầu nước ngoài.
Từ sự nghiên cứu trên đây, có thể định nghĩa về đấu thầu xây lắp quốc
tế như sau:
Đấu thầu xây lắp quốc tế là quá trình lựa chọn các nhà thầu đáp ứng
được các yêu cầu về xây dựng, lắp đặt thiết bị các công trình, hạng mục
công trình của Bên mời thầu trên cơ sở cạnh tranh giữa các nhà thầu xây
lắp trong nước và nhà thầu xây lắp nước ngoài.
Nhìn chung Đấu thầu xây lắp quốc tế là việc đấu thầu của một đối
tượng cụ thể, do đó nó có những đặc điểm chung của Đấu thầu đã nêu tại
15
phần 1.1.1; đặc điểm của đấu thầu xây lắp và và nó có các đặc điểm đặc thù
riêng sau:
* Đấu thầu xây lắp quốc tế được tiến hành trên cơ sở tự do cạnh tranh
theo các quy định đã được nêu trong hồ sơ mời thầu.
Các nhà thầu khi tham gia đấu thầu quốc tế sẽ tự do dùng hết khả năng
của mình để có thể thoả mãn tối đa các điều kiện của hồ sơ mời thầu. Họ phải
dùng chính những khả năng đó của họ để cạnh tranh với các nhà thầu khác, và
người chiến thắng trong cuộc cạnh tranh đó là người mạnh nhất. Người có
tiềm lực kinh tế, kỹ thuật, có uy tín sẽ là những người có lợi thế. Trong cuộc
cạnh tranh đó, họ lợi dụng triệt để yếu tố cạnh tranh, nhưng cạnh tranh của
các nhà thầu phải tuân thủ theo các điều kiện mà bên mời thầu quy định trước.
Để ràng buộc các nhà thầu, bên mời thầu còn quy định số tiền đặt cọc dự thầu
và bảo lãnh thực hiện hợp đồng, số tiền này không phải là nhỏ đối với một số
Công ty ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Những quy định có tính hình thức
về giấy tờ, văn bản, các nhà thầu cũng phải hết sức lưu ý. Đây cũng có thể là
cơ sở để giảm bớt các công việc trong quy trình xét thầu, tiết kiệm được các
chi phí không cần thiết.
* Đấu thầu xây lắp quốc tế bị ràng buộc về mặt pháp lý liên quan tới
việc vay và sử dụng vốn.
Các công trình trong đấu thầu quốc tế thường là những công trình lớn
và được tài trợ bởi nhiều nguồn vốn trong đó lớn nhất là ODA. ODA là nguồn
vốn mà các nước tư bản phát triển giành để tài trợ cho các nước nghèo trong
việc phát triển kinh tế, dưới hình thức hoàn lại hay không hoàn lại. Mặc dù đó
là khoản tiền viện trợ nhưng các nước được tài trợ cũng sẽ phải chịu nhiều
điều kiện ràng buộc chặt chẽ. Ví dụ như nguồn vốn ODA của Nhật Bản cho
các nước vay, trong đó có Việt Nam, phải trải qua một quá trình đàm phán ký
kết hiệp định và thực thi rất phức tạp, có khi mất thời gian cả năm trời. Mặt
16
khác sử dụng các khoản tiền trên chúng ta phải thực hiện đấu thầu quốc tế
theo các Hướng dẫn đấu thầu của OECF ban hành tháng 12/1997… [1].
1.2 Quy định của pháp luật về đấu thầu xây lắp (đấu thầu xây lắp
quốc tế)
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam
trong việc điều chỉnh quan hệ đấu thầu nói chung và đấu thầu xây lắp
quốc tế nói riêng
Pháp luật về đấu thầu xây lắp là tổng hợp các Quy phạm pháp luật điều
chỉnh những quan hệ hình thành trong hoạt động đấu thầu xây lắp của tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia hoạt động đấu thầu xây lắp.
Vào cuối những năm 30 và đầu những năm 40 cùng với sự phát triển
của thị trường kinh tế tư bản trên nhiều lĩnh vực, đòi hỏi chế độ bán đấu giá
cũng phải được áp dụng rộng rãi. Nhưng bán đấu giá chưa có đủ cơ sở để
thực hiện trong lĩnh vực đặc thù riêng như: chuyển giao công nghệ, xây
dựng cơ bản…do vậy đấu thầu ra đời. Việc ra đời của pháp luật về đấu thầu
nói chung cũng như đấu thầu xây lắp nói riêng là một tất yếu khách quan. Có
thể khái quát quá trình phát triển của pháp luật về đấu thầu xây lắp qua các
giai đoạn sau:
Giai đoạn trước khi có Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị
định 43/ CP của Chính Phủ ban hành ngày 16/7/1996
Trong giai đoạn này đấu thầu xây lắp nói chung và đấu thầu xây lắp
quốc tế nói riêng chưa có một hệ thống văn bản pháp luật chính thống điều
chỉnh. Các hoạt động đấu thầu này diễn ra do các văn bản khác điều chỉnh
quy chiêú. Đấu thầu xây lắp quốc tế hầu như không có bởi lẽ điều kiện hoàn
cảnh đất nước ta lúc đó thuần túy theo chủ trương tự lập tự hưởng. Ở Việt
Nam từ 1988 trở về trước, quá trình đầu tư xây dựng cơ bản được thực hiện
theo Điều lệ Xây dựng cơ bản ban hành theo Nghị định số 232/CP ngày
06/06/1981 các doanh nghiệp xây lắp theo phương thức tự làm và giao nhận
17
thầu xây dựng. Tuy nhiên hai phương thức này có nhược điểm mang tính chất
tự cung tự cấp, có nhiều thiếu sót trong thủ tục xây dựng cơ bản. Mặt trái của
phương thức giao nhận thầu là hiện tượng mua bán thầu, cho nên có ảnh
hưởng không nhỏ tới chất lượng sản phẩm. Kết quả là có nhiều công trình thi
công có chất lượng kém, khi đưa vào sử dụng thì không hiệu quả [15].
Do đó để khắc phục những tồn tại của phương thức cũ, đáp ứng đòi hỏi
của cơ chế mới. Vào tháng 8/1985 trong Quyết định 217-HĐBT, Hội đồng Bộ
trưởng có đưa ra một số điều quy định về đấu thầu. Tuy nhiên vẫn chưa có
văn bản hướng dẫn cụ thể vì vậy việc áp dụng và thực hiện vẫn chưa mang lại
hiệu quả [16].
Ngày 09/05/1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành quyết định số 80HĐBT về các chính sách đổi mới cơ chế quản lí xây dựng cơ bản. Nhằm đáp
ứng yêu cầu quy định của Hội đồng Bộ trưởng, ngày 10/01/1989 Thông tư
hướng dẫn tạm thời số 03/BXD-VKT đã ra đời.
Tuy nhiên Thông tư hướng dẫn số 03 còn có nhiều khiếm khuyết khi áp
dụng vào thực tế. Vì vậy, đến ngày 12/02/1990 Bộ xây dựng đã ban hành Quy
chế đấu thầu trong xây dựng kèm theo Quyết định số 24/BXD-VKT thay thế
cho Thông tư số 03/BXD-VKT. Có thể nói rằng quy chế đấu thầu trong xây
dựng ban hành kèm theo Quyết định 24/BXD-VKT là quy chế đầu tiên về
hoạt động đấu thầu xây dựng của Việt Nam [3]. Trong văn bản này các vấn đề
cơ bản về đấu thầu xây dựng (phạm vi, đối tượng điều chỉnh, quyền và nghĩa
vụ của các bên, các hình thức và trình độ tổ chức đấu thầu …) đã được quy
định. Tuy chưa đầy đủ song chúng đã khái quát được một số nét cần thiết nhất
để thực hiện đấu thầu xây dựng. Trong quy chế này mục tiêu của đấu thầu
chưa được đặt ra nhưng có thể thấy rằng việc ban hành quy chế này đã tạo
nên một nền tảng pháp lý để qua đó tạo nên một sân chơi bình đẳng, mang
tính cạnh tranh cho các thành phần kinh tế trong xã hội.
18
Giai đoạn áp dụng Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị đinh
số 43/ CP và Nghị định số 93/1997/NĐ-CP ngày 23/08/1997 [5].
Nói chung Quy chế đấu thầu trong xây dựng kèm theo Quyết định số
24/BXD-VKT còn mang nặng tính quản lý về mặt hành chính Nhà nước. Bốn
năm sau ngày ban hành Quy chế này, thực hiện cải tiến công tác đơn giá, dự
toán nhằm chống lãng phí, thất thoát và tiêu cực trong đầu tư và xây dựng
theo Quyết định số 92-TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ xây
dựng đã ban hành Quy chế đấu thầu trong xây lắp kèm theo Quyết định số 60BXD/VKT ngày 30/3/1994. Quy chế này thay thế Quy chế đấu thầu trong xây
dựng kèm theo Quyết định số 24/BXD-VKT ngày 12/2/1990. Đây là một
bước tiến rõ rệt của việc điều chỉnh công tác đấu thầu trong xây dựng ở Việt
Nam giai đoạn này. Quy chế gồm 32 điều, quy định một cách rõ ràng, chi tiết
đấu thầu trong xây dựng. Các quy định của quy chế mở rộng hơn hình thức
đấu thầu, phạm vi các công trình cần đấu thầu và quy định cụ thể quyền và
nghĩa vụ của các bên trong đấu thầu. Tuy vậy, trình tự đấu thầu chưa được
quy định cụ thể. Việc quản lý hồ sơ được quy định ở mức độ chưa cao, chưa
đảm bảo được nguyên tắc bảo mật của đấu thầu. Quy chế chỉ quy định hai
hình thức đấu thầu rộng rãi và đấu thầu hạn chế mà chưa có chỉ định thầu.
Tại Điều 10, quy chế Đấu thầu (ban hành kèm theo NĐ 88/1999/NĐCP
ngày 1/9/1999 của Chính phủ) quy định: " Chỉ được tổ chức đấu thầu quốc tế
trong các trường hợp sau: - Đối với gói thầu mà không có nhà thầu nào trong
nước có khả năng đáp ứng yêu cầu của gói thầu; - Đối với các dự án sử dụng
nguồn vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế hoặc của nước ngoài có qui định
trong điều ước là phải tổ chức đấu thầu quốc tế.” Bản thân quy định về đấu
thầu Quốc tế như vậy đã phần nào hạn chế phạm vi đối tượng được đấu thầu
Quốc tế. Về nhóm thầu xây dựng lúc đó nước ta cũng chưa có thật nhiều các
công trình xây lắp quốc tế được tiến hành đấu thầu.
19
Có thể nói hai quy chế đấu thầu ra đời trong điều kiện nền kinh tế vừa
thoát khỏi cơ chế quản lý cũ nên khó có thể thoát khỏi các dấu ấn của quản lý
hành chính. Các quy định chưa bao quát được hết tình hình thực tế, chưa theo
kịp sự phát tiển của nền kinh tế. Do đó, chỉ hai năm sau Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 43/1996/NĐ-CP ngày 17/07/96 về thủ tục đấu thầu, trong
đó dành hẳn một chương cho đấu thầu trong xây dựng.
Nghị định số 43/1996/NĐ-CP ra đời đã đánh dấu một bước tiến lớn với
nhiều điểm tiến bộ hơn hẳn so với các văn bản ra đời trước đây quy định về
đấu thầu trong xây dựng. Nghị định này đã quy định một cách tương đối đầy
đủ trình tự, thủ tục, các bước tiến hành cho một cuộc đấu thầu, hình thức chỉ
định thầu được pháp luật quy định đã có sự tương quan, liên hệ với các
nguyên tắc của đấu thầu quốc tế. Tuy nhiên, Nghị định số 43/CP vẫn chưa
quy định đầy đủ quá trình mở thầu trong khi đó lại có nhiều điều khoản về các
đặc quyền của doanh nghiệp nhà nước khi tham gia đấu thầu. Một năm sau
ngày Nghị định ra đời, kết quả khảo sát về ảnh hưởng của Nghị định này đã
chỉ ra rằng có nhiều khó khăn trong việc lựa chọn nhà thầu thắng thầu để kí
hợp đồng. Các nhà thầu Việt Nam rất khó thắng thầu, các dự án có phía đối
tác nước ngoài tham gia thường không theo kịp đúng thủ tục đấu thầu và
nhiều khi quá trình xét thầu bị chậm trễ.
Giai đoạn áp dụng Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định
số 88/1999/ NĐ-CP của Chính phủ ngày 1/9/1999; Nghị định số
14/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 5/5/2000; Nghị định số 66/2003/NĐCP của Chính phủ ngày 12.6.2003 [6].
Để đáp ứng yêu cầu của thực tế, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
93/1997/NĐ-CP ngày 23/08/97 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đấu
thầu ban hành kèm theo Nghị định số 43/CP, ngày 16/7/1996. Tuy nhiên chỉ
trong một thời gian ngắn, thực tế cho thấy Nghị định số 93/1997/NĐ-CP cũng
không theo kịp sự phát triển của nền kinh tế.
20
Điều này đã mở đương cho việc xây dựng một văn bản khác về đấu
thầu đó là Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 1 tháng 9 năm 1999. Tính đến
thời điểm trước khi Luật xây dựng được ban hành thì Nghị định này vẫn được
coi là cơ sở pháp lý quan trọng nhất của Việt Nam về đấu thầu nói chung và
đấu thầu xây lắp nói riêng. Nghị định này cũng được xây dựng phù hợp với
Luật mẫu UDCITRAL về đấu thầu mua sắm hàng hoá, dịch vụ và xây lắp.
Liên quan đến đấu thầu, Nghị định số 88/1999/NĐ-CP quy định ba phương
thức đấu thầu là đấu thầu một túi hồ sơ, đấu thầu hai túi hồ sơ và đấu thầu hai
giai đoạn.
Do nền kinh tế biến đổi nhanh, Nghị định số 88/1999/NĐ-CP cũng
nhanh chóng có bất cập về một số vấn đề; đặc biệt là đối với chỉ định thầu.
Rất nhiều các cơ quan và doanh nghiệp trong nước đã lên tiếng cho rằng quy
định như trong Nghị định là quá chặt chẽ khiến cho nhiều trường hợp giá trị
nhỏ thì chi phí hành chính cho việc tổ chức đấu thầu tồn kém nhiều so với lợi
ích tiết kiệm được thông qua đấu thầu. Ngoài ra, có nhiều ý kiến cho rằng
chính các quy định chặt chẽ này làm mất quyền tự chủ của bên mời thầu trong
việc chỉ định thầu. Điều này làm giảm ý nghĩa kinh tế của đấu thầu. Để hoàn
thiện hơn nữa Quy chế đấu thầu Chính phủ đã ban hành Nghị định số
42/2000/NĐ-CP ngày 5 tháng 5 năm 2000 nhằm sửa đổi, bổ sung 8 điều của
Nghị định số 88/1999/NĐ-CP, trong đó nội dung chính là nhằm quy định rõ
các trường hợp mà bên chủ đầu tư có thể chọn phương thức chỉ định thầu. So
với các nghị định trước đó, Nghị định số 14/2000/NĐ-CP có những điểm mới
dành cho đấu thầu xây lắp đáng lưu ý là phương pháp “Giá đánh giá” phù
hợp với các quy định về đấu thầu trên thế giới; quy định mốc tối đa và tối
thiểu đối với một số khâu chủ yếu của quá trình đấu thầu; cho phép tổ chức
đấu thầu quốc tế khi không có nhà thầu Việt Nam nào đáp ứng yêu cầu gói
thầu, nhà thầu quốc tế cam kết sử dụng nhà thầu phụ Việt Nam; điều kiện dự
21
- Xem thêm -