A. LỜI NÓI ĐẦU.
Xã hội loài người ngày càng phát triển, đi lên theo xu hướng toàn cầu hóa. Trong
suốt quá trình, giai đoạn phát triển như thế việc các quốc gia phải phát huy tối đa khả
năng của chính mình là điều rất cần thiết. Không những thế, các quốc gia đặc biệt phải
thúc đẩy sự hợp tác với nhau không chỉ trong khu vực mà trên phạm vi toàn cầu. Chính
vì việc liên kết, hợp tác giữa các quốc gia nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định của xã
hội nên việc các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc (LHQ) ra đời cũng là điều tất yếu.
LHQ ra đời đã góp phần làm cho sự liên kết giữa các quốc gia ngày càng chặt chẽ hơn .
Thực tế, trong thời đại mà có sự lên ngôi của nguyên tắc thống trị, lấy pháp luật làm
thước đo cho công bằng, việc xây dựng được một hệ thống pháp luật quốc tế vững
mạnh, có nhiều đóng góp trong đời sống quốc tế và ngày càng phát triển, hoàn thiện như
hiện nay thì rất cần đến vai trò nỗ lực của LHQ. Nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề nên
em quyết định chọn đề tài: “Đánh giá vai trò của Liên hợp quốc trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc tế” để có thể có những cái nhìn sâu sắc
hơn về vấn đề này.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. Giới thiệu khái quát về Liên Hợp Quốc.
1. LHQ là một tổ chức trung tâm trong các hoạt động hợp tác của các
quốc gia trên toàn thế giới. LHQ được thành lập trên cơ sở Hiến chương LHQ
ngày 24/10/1945 để thay thế Hội Quốc Liên trở thành một tổ chức quốc tế
toàn cầu. Từ 51 thành viên ban đầu đến nay, LHQ đã có 192 thành viên hoạt
động trên cơ sở các nguyên tắc nền tảng của quan hệ quốc tế được ghi nhận cụ
thể trong các văn bản của LHQ, đặc biệt là Tuyên bố năm 1970.Mục đích,
nguyên tắc của LHQ.
a. Mục đích.
Khoản 1 hiến chương LHQ quy định những mục tiêu cơ bản của LHQ là:
- Duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.
- Phát triển những quan hệ hữu nghị giữa các nước trên cơ sở tôn trọng quyền
bình đẳng, dân tộc tự quyết.
- Thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế.
- Trở thành trung tâm phối hợp mọi hành động của các dân tộc nhằm đạt được
những mục đích nói trên.
b. Nguyên tắc.
Để đạt được những mục đích đã nêu trên, LHQ cần phải hành động phù hợp với
những nguyên tắc được quy định tại điều 2 của hiến chương như:
- Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền của các quốc gia thành viên.
- Nguyên tắc các thành viên của LHQ phải thực hiện đầy đủ những nghĩa vụ theo
quy định của Hiến chương.
- Nguyên tắc các thành viên LHQ phải giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các
phương pháp hòa bình.
- Nguyên tắc các thành viên LHQ phải từ bỏ đe dọa dùng vũ lực hay sử dụng vũ
lực trong quan hệ quốc tế.
2. Các cơ quan
Để thực hiện những nhiệm vụ và đạt được những mục đích đã đề ra, các cơ quan
của LHQ đều được trao những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể. Điều 7 Hiến
chương LHQ quy định bộ máy tổ chức của LHQ gồm những cơ quan chính sau: Đại hội
1
đồng, Hội đồng bảo an, Hội đồng kinh tế- xã hội, Hội đồng quản thác, Tòa án quốc tế và
Ban thư kí.
Có thể thấy sự ra đời của LHQ là một sự kiện vô cùng quan trọng và LHQ chính là
tổ chức đa phương toàn cầu đầu tiên có ý nghĩa rất lớn trong đời sống quốc tế.
II.
Đánh giá vai trò của LHQ trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật.
1. Một số khái niệm có liên quan.
Theo khoa học pháp lý quốc tế hiện đại thì: “Pháp luật quốc tế là hệ thống những
nguyên tắc, quy phạm pháp luật được các quốc gia và các chủ thể khác tham gia quan
hệ quốc tế xây dựng nên trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, thông qua đấu tranh và
thương lượng nhằm điều chỉnh mối quan hệ nhiều mặt ( chủ yếu là quan hệ chính trị )
giữa các chủ thể của pháp luật quốc tế với nhau trước tiên và chủ yếu là giữa các quốc
gia) và trong những trường hợp cần thiết được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp
cưỡng chế riêng lẻ hoặc tập thể do chính các chủ thể của pháp luật quốc tế thi hành, và
bằng sức đấu tranh của nhân dân và dư luận tiến bộ trên thế giới”.
Hệ thống pháp luật quốc tế là cơ cấu bên trong của pháp luật quốc tế. Cấu trúc của hệ
thống pháp luật quốc tế bao gồm các thành tố cơ bản là quy phạm pháp luật quốc tế,
nguyên tắc pháp luật quốc tế, chế định pháp luật quốc tế và các ngành pháp luật quốc tế.
Xây dựng hệ thống pháp luật quốc tế, hiểu một cách đơn giản, là việc đặt ra các quy
tắc pháp lý làm chuẩn mực cho cách xử sự của công dân, tổ chức (quy phạm pháp luật)
theo các phương thức khác nhau và thể hiện chúng dưới những hình thức của pháp luật;
có thể là tập quán, tiền lệ pháp hay văn bản quy phạm pháp luật.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc tế tức là làm cho hệ thống pháp luật đó ngày
càng trở nên trọn vẹn, đầy đủ hơn.
2. Đánh giá vai trò của LHQ trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật quốc tế.
2.1.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc tế trực tiếp.
“Là hoạt động của tổ chức quốc tế với tư cách chủ thể của luật quốc tế”. Các tổ
chức quốc tế ký kết các Điều ước quốc tế (ĐƯQT) hoặc chấp nhận các tập quán quốc tế
để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức quốc tế trong khuôn khổ thẩm quyền mà
các quốc gia thành viên trao cho tổ chức.
a. Thể hiện thông qua việc kí kết ĐƯQT.
Theo cách tiếp cận của Công ước viên 1969 về Luật ĐƯQT thì “ĐƯQT được xác
định là một thỏa thuận quốc tế được kí kết bằng văn bản giữa các quốc gia và các chủ
thể của luật quốc tế được luật quốc tế điều chỉnh, không phụ thuộc vào việc thỏa thuận
đó được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc trong hai hay nhiều văn kiện có
quan hệ với nhau, cũng như không phụ thuộc vào tên gọi cụ thể của các văn kiện đó”.
Trong quan hệ pháp luật quốc tế, ĐƯQT là kết quả của quá trình vừa hợp tác, vừa đấu
tranh giữa các chủ thể. Xét về bản chất, kí kết ĐƯQT cũng chính là việc xây dựng pháp
luật quốc tế, là hình thức pháp luật cơ bản chứa đựng các quy phạm pháp luật quốc tế để
xây dựng và ổn định các cơ sở pháp luật cho các quan hệ pháp luật quốc tế hình thành
và phát triển, là công cụ để xây dựng khung pháp luật quốc tế hiện đại….
Thực tế mà nói, LHQ là một tổ chức toàn cầu hóa. Việc xây dựng một văn bản
mang tiếng nói chung của các quốc gia để tạo ra một cơ sở pháp lý quan trọng, thúc đẩy
sự phát triển của các quốc gia là một điều hết sức cần thiết. Vậy nên LHQ đã đi đến
quyết định xây dựng hiến chương cho tổ chức. Hiến chương LHQ cũng chính là một
2
ĐƯQT, là một văn bản pháp lý khai sinh ra LHQ. Việc xây dựng hiến chương đã đóng
góp phần nào trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc tế. Hiến
chương LHQ được xây dựng trên sự thỏa thuận của các quốc gia trong tổ chức với sự
ghi nhận các quyền và các nghĩa vụ của tổ chức này do các quốc gia thỏa thuận trao cho
nhằm đạt được những mục đích được ghi nhận trong Hiến chương. Hiến chương LHQ là
nguồn pháp lý quan trọng nhất của luật quốc tế và cũng thường xuyên được viện dẫn
trong các quan hệ quốc tế. Hiến chương thường được viện dẫn như một căn cứ đánh giá
tính hợp pháp của các hành vi cũng như các quy định trong các văn bản pháp lý quốc tế.
Hiến chương với vai trò là một ĐƯQT không chỉ dung hòa được lợi ích cơ bản của các
quốc gia thành viên mà còn đáp ứng được đòi hỏi của cộng đồng quốc tế, phản ảnh được
xu thế phát triển của giao lưu và hợp tác quốc tế.
Mặt khác, LHQ ra đời đã thay thế cho Hội quốc liên, đã có những đóng góp rất quan
trọng cho những phát triển của hệ thống pháp luật quốc tế. Thời gian đầu khi mới ra đời,
cùng với sự tăng vọt về số lượng thành viên, LHQ tập trung vào các vấn đề phi thực dân
hoá, quyền tự quyết dân tộc và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc Apácthai. Trong thời kỳ
gần đây LHQ ngày càng quan tâm nhiều hơn tới các vấn đề kinh tế và phát triển. Tuy
nhiên, LHQ không phải là một tổ chức siêu quốc gia do đó nó không có quyền xây dựng
các quy định của luật quốc tế mang tính ràng buộc với quốc gia. Quyền xây dựng các
ĐƯQT không được hiến chương LHQ quy định cho bất kì một cơ quan nào kể là Đại
hội đồng – cơ quan cao nhất của LHQ. Ví dụ theo điều 13 của Hiến chương LHQ thì
Đại hội đồng chỉ có quyền tổ chức nghiên cứu và thông qua những kiến nghị nhằm phát
triển sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chính trị; thúc đẩy sự hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực kinh tế, xã hội …
Việc xây dựng hiến chương LHQ đã tạo cơ sở quan trọng cho LHQ thực hiện
những chức năng, nhiệm vụ của mình. Qua hiến chương, LHQ đã phần nào thể hiện rõ
vai trò trong xây dựng quyền con người của mình. Về pháp lý, quyền con người là phẩm
giá, năng lực, nhu cầu và lợi ích hợp pháp của con người được thể chế, bảo vệ bởi luật
quốc gia và luật quốc tế.
Quyền con người được bắt đầu từ môi trường quốc gia, trước khi cộng đồng quốc tế
có thể thống nhất với nhau về những giá trị, chuẩn mực, quy định hay nguyên tắc chung
để điều chỉnh cách thức ứng xử của các quốc gia đối với công dân của nước đó và cả
công dân của các nước khác.Trên thực tế, nhiều chuẩn mực hay tiêu chí về lĩnh vực
quyền con người đã được các quốc gia thừa nhận và thực thi theo tinh thần nghị quyết
của tổ chức quốc tế trước khi được thỏa thuận trong nội dung của một công ước cụ thể
ví dụ như việc thực hiện mục tiêu trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948.
Cụ thể việc bảo vệ, tôn trọng các quyền con người trong hiến chương LHQ đã được
quy định rất rõ nét trong các điều, khoản. Hiến chương LHQ và Tuyên ngôn nhân
quyền là hai văn kiện quốc tế quan trọng đầu tiên về nhân quyền. Tuyên ngôn nhân
quyền (1948) được LHQ đánh giá là một trong những thành tựu lớn đạt được của LHQ
và có ý nghĩa lịch sử vì đã đưa ra được những chuẩn mực chung cho tất cả các nước và
dân tộc về các quyền con người.
Không chỉ góp phần xây dựng quyền con người, hiến chương LHQ còn có vai trò
trong xây dựng an ninh và hòa bình. Loài người đã bước sang thiên niên kỷ thứ ba, nhìn
lại hơn 2000 năm trước, chiến tranh và hòa bình luôn là những vấn đề to lớn nhất, bức
xúc nhất của nhân loại nên cần có một văn bản chung quản lý xã hội. Hiến chương LHQ
là ĐƯQT có vai trò quan trọng nhất, đặt cơ sở nền tảng cho toàn bộ hệ thống luật quốc
3
tế nói chung, cho giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế nói riêng. Năm 1984, Đại hội đồng
Liên hiệp quốc đã thông qua Nghị quyết 39/11 tái khẳng định tầm quan trọng của việc
duy trì hòa bình và an ninh quốc tế trong mục đích họat động của mình.
Theo Điều 24 của Hiến chương LHQ, các thành viên LHQ trao cho Hội đồng Bảo an
trách nhiệm chính trong việc giữ gìn hoà bình và an ninh quốc tế. Theo đó, Hội đồng
Bảo an có thể áp dụng các biện pháp nhằm giải quyết hoà bình các tranh chấp, xung đột
và khi cần thiết có thể sử dụng các biện pháp, kể cả cưỡng chế và vũ lực, nhằm loại trừ
các mối đe doạ, phá hoại hoà bình hoặc các hành động xâm lược. Quy định này được thể
hiện rõ nét trong một số điều của hiến chương như điều 33, 34, 44, 45… Trong khi các
cơ quan khác của LHQ chỉ có thể đưa ra các quyết định mang tính khuyến nghị đối với
các chính phủ của các quốc gia thành viên LHQ thì các quyết định và nghị quyết của
Hội đồng Bảo An khi đã được thông qua đều mang tính chất ràng buộc và tất cả các
thành viên của LHQ đều có trách nhiệm phải tôn trọng và thi hành.
Qua đó có thể thấy ĐƯQT chính là một công cụ quan trọng để xây dựng khung pháp
luật quốc tế hiện đại cũng như tiến hành hiệu quả việc pháp điển hóa luật quốc tế.
b. Thể hiện qua việc chấp nhận các tập quán quốc tế.
“ Tập quán quốc tế là hình thức pháp lí chứa đựng quy tắc xử sự chung, hình thành
trong thực tiễn quan hệ quốc tế và được các chủ thể luật quốc tế thừa nhận là luật”.
Sự hình thành một tập quán quốc tế hoặc sự áp dụng một quy tắc với giá trị là tập
quán quốc tế dựa trên hai yếu tố là yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần. Tập quán quốc tế
được hình thành theo nhiều con đường khác nhau ví dụ như hình thành từ thực tiễn quan
hệ quốc tế, từ các nghị quyết có tính chất khuyến nghị của tổ chức quốc tế, từ việc thực
hiện các phán quyết của tòa án quốc tế…
Như đã biết, Tòa án Quốc tế LHQ là một trong sáu cơ quan chính của LHQ. Chức
năng chính của Toà án quốc tế là giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế, vụ kiện do
các quốc gia đưa lên phù hợp với luật pháp quốc tế. Mục tiêu của toà án là áp dụng các
tập quán quốc tế để thiết lập các quy tắc được các quốc gia liên quan chính thức công
nhận; các thông lệ quốc tế được chấp nhận như luật; các nguyên tắc chung của luật pháp
được các quốc gia công nhận; các phán quyết của tòa án...
Ví dụ: Đường cơ sở thẳng được xác định theo phương pháp nối liền các điểm thích
hợp được lựa chọn tại những điểm ngoài cùng nhất nhô ra biển tại mức nước thủy triều
thấp nhất (trung bình nhiều năm). Đây đã từng được coi phương pháp tập quán phổ biến
nhất của tập quán quốc tế. Cụ thể là năm 1951, trong vụ ngư trường Anh, Tòa án công lí
quốc tế đã phán quyết cho Na Uy thắng kiện với Anh và công nhận đường cơ sở thẳng
của Na Uy. Từ đó đường cơ sở thẳng bắt đầu có giá trị rộng rãi trong nhiều quốc gia. Từ
một vụ việc cụ thể mà đã hình thành nên tập quán. Điều 95 của hiến chương LHQ cũng
quy định về vấn đề này: “ Không một điều khoản nào của Hiến chương này cản trở các
thành viên LHQ đưa những vụ tranh chấp của họ ra xét xử ở các tòa án khác chiếu theo
những hiệp định hiện có, hoặc có thể sẽ được kí kết sau này”.
Chính việc chấp nhận các tập quán quốc tế đã phần nào đóng góp vào công cuộc xây
dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc tế một cách trực tiếp nhất.
2.2.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc tế gián tiếp.
“Là hoạt động đưa ra sáng kiến, bảo trợ để kí kết các ĐƯQT”.
Trong quá trình xây dựng hệ thống pháp luật một cách gián tiếp thì thông thường các
tổ chức quốc tế sẽ tổ chức các diễn đàn, các hội nghị để các bên thương lượng và kí kết
ĐƯQT. Tổ chức quốc tế cũng có thể đảm nhiệm việc soạn thảo các ĐƯQT, dự thảo điều
4
ước sẽ được đưa ra để các quốc gia xem xét và quyết định việc kí kết, phê chuẩn. Các tổ
chức quốc tế chỉ thông qua văn bản ĐƯQT, chứ không thể làm cho ĐƯQT có hiệu lực.
Chỉ có các quốc gia sau khi đã kí hoặc phê chuẩn theo thủ tục quy định mới quyết định
hiệu lực của văn bản.
Các tổ chức quốc tế có thể thông qua các loại văn kiện có giá trị pháp lý khác nhau,
chủ yếu là theo ba dạng là những nghị quyết có giá trị pháp lý ràng buộc các quốc gia
thành viên trong mọi trường hợp; những nghị quyết hoặc quyết định chỉ có giá trị ràng
buộc các quốc gia thành viên trong những trường hợp cụ thể; và những nghị quyết,
quyết định mang tính chất khuyến nghị. Theo Hiến chương LHQ thì Đại hội đồng LHQ
có quyền thông qua hai loại nghị quyết. Đại hội đồng chỉ có quyền thông qua quyết định
có tính chất bắt buộc về một số vấn đề rất hẹp, chủ yếu thuộc về tổ chức và tài chính của
LHQ. Còn đối với tất cả các vấn đề thuộc lĩnh vực hoạt động chủ yếu của LHQ, Đại hội
đồng chỉ có quyền thông qua kiến nghị ( Điều 10, 18 hiến chương LHQ).
Việc xây dựng hệ thống pháp luật gián tiếp còn được thể hiện thông qua việc pháp
điển hóa pháp luật quốc tế. LHQ đóng một vai trò rất quan trọng trong việc pháp điển
hóa luật quốc tế, điều đó được thể hiện qua hàng trăm các ĐƯQT đa phương được xây
dựng trong khuôn khổ của tổ chức này trong nhiều lĩnh vực khác nhau như nhân quyền,
môi trường, kinh tế, hàng hải…. Ví dụ: Công ước Liên hiệp quốc về luật biển năm 1958
đã pháp điển hóa và đưa tập quán đường cơ sở thẳng vào điều 4 khi giải thích về lãnh
hải và vùng tiếp giáp lãnh hải, cũng như trong điều 7 của Công ước 1982.
Đại hội đồng là cơ quan cao nhất của LHQ, gồm đại diện các quốc gia thành viên.
Theo điều 13 của Hiến chương, một trong những chức năng của Đại hội đồng là "thúc
đẩy việc pháp điển hoá và sự phát triển của luật quốc tế theo hướng tiến bộ". Chức năng
này đã được Đại hội đồng và các cơ quan khác thực hiện thông qua việc soạn thảo,
chuẩn bị rất nhiều công ước quốc tế. Các cơ quan chính là:
- Ủy ban luật pháp quốc tế (ILC) và Ủy ban thương mại quốc tế (UNCITRAL) là hai cơ
quan chuyên môn giúp Đại hội đồng nghiên cứu việc pháp điển hóa luật pháp quốc tế.
- Các ủy ban ad hoc.
- Các hội nghị thành viên.
Ủy ban luật pháp quốc tế (ILC) và Ủy ban thương mại quốc tế (UNCITRAL)
Ủy ban luật pháp quốc tế (ILC) được Đại hội đồng thành lập theo Nghị quyết số
174/1947 nhằm thúc đẩy sự phát triển và pháp điển hoá luật pháp quốc tế theo hướng
tiến bộ. Uỷ ban gồm 34 thành viên, nhóm họp hàng năm, các thành viên được Đại hội
đồng bầu ra với nhiệm kỳ 5 năm, hoạt động với tư cách cá nhân chứ không phải là đại
diện của các chính phủ. Công việc chủ yếu của Uỷ ban là soạn thảo luật pháp quốc tế,
lĩnh vực luật pháp cần soạn thảo có thể do Uỷ ban tự chọn hoặc do Đại hội đồng hoặc
Hội đồng Kinh tế - Xã hội (ECOSOC) gợi ý. Khi Uỷ ban hoàn tất dự thảo các điều
khoản, Đại hội đồng sẽ triệu tập một hội nghị quốc tế để quyết định đưa các điều khoản
dự thảo đó vào một công ước quốc tế, sau đó sẽ mở cho các nước tham gia. Ủy ban luật
pháp quốc tế đóng một vai trò quan trọng trong việc pháp điển hóa luật pháp quốc tế. Ủy
ban đã xây dựng và hoàn thiện nhiều dự thảo tuyên bố, công ước như Dự thảo về luật tội
phạm chống lại hòa bình và an ninh nhân loại năm 1954, 1996; Công ước Viên về luật
ĐƯQT…
Năm 1966, đáp ứng đòi hỏi của LHQ phải giữ một vai trò tích cực trong việc giảm
bớt và loại bỏ các cản trở đối với thương mại quốc tế, Đại hội đồng đã thành lập Uỷ ban
LHQ về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) để thúc đẩy sự thống nhất và hài hoà theo
5
hướng tiến bộ của luật thương mại quốc tế. Uỷ ban gồm 36 thành viên, đại diện cho các
khu vực địa lý và các hệ thống kinh tế và luật pháp khác nhau, có báo cáo hàng năm lên
Đại hội đồng và trình báo cáo lên Hội nghị LHQ về Thương mại và phát triển. Việc
pháp điển hóa thương mại quốc tế do những khác biệt trong hệ thống luật quốc gia gây
ra, đóng góp tích cực vào quá trình cải cách luật thương mại trên toàn thế giới. Quá trình
soạn thảo một ĐƯQT trong Đại hội đồng thường bắt đầu thông qua việc thảo luật ở ủy
ban luật pháp quốc tế và ủy ban luật thương mại quốc tế. Tại đây các quốc gia thành
viên của LHQ sẽ cho ý kiến về những vấn đề chính, những vấn đề đang gây tranh cãi và
những định hướng để ủy ban tiếp tục hoàn chỉnh dự thảo ĐƯQT. Dự thảo quy chế Tòa
án hình sự quốc tế là một trong những thành quả quan trọng của Ủy ban luật pháp quốc
tế. Ủy ban đã tiến hành xây dựng năm 1947 qua các năm 1951, 1953, 1989 đến năm
1994 Ủy ban đã trình dự thảo Quy chế Tòa án hình sự quốc tế tháng 3 năm 1998, toàn
bộ dự thảo quy chế đã được hoàn thiện và trở thành văn kiện chính thức tại hội nghị
ngoại giao tháng 7/1998.
Ủy ban ad hoc:
Khi quá trình soạn thảo ở ILC và UNCITRAL đã hoàn thành, Đại hội đồng LHQ
thường tổ chức một ủy ban ad hoc để cho các quốc gia, các tổ chức chuyên môn của
LHQ có thể trực tiếp tham gia đàm phán nhằm hoàn thiện dự thảo điều ước. Sau đó dự
thảo ĐƯQT sẽ được thông qua tại phiên họp toàn thể của Đại hội đồng và được mở ra
để các nước thành viên kí, phê chuẩn hoặc gia nhập, dự thảo công ước cũng có thể được
thông qua tại một hội nghị quốc tế do LHQ triệu tập.
Ví dụ: Đại hội đồng đã quyết định thành lập Ủy ban ad hoc nhằm soạn thảo công ước về
chông tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (Nghị quyết số 53/111 ngày 9/12/1998). Sau
khi ủy ban hoàn thành việc soạn thảo công ước, dự thảo công ước được đệ trình lên khóa
họp thường kì của Đại hội đồng LHQ để thông qua và sau đó mở cho các nước tham gia
kí kết và phê chuẩn. Công ước của LHQ về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia
được thông qua tại Đại hội đồng tháng 12/2000.
Hoạt động của Hội nghị các quốc gia thành viên:
Đây là trường hợp triệu tập một hội nghị quốc tế để các quốc gia có thể trực tiếp tham
gia vào quá trình đàm phán, xây dựng một công ước đa phương.
Ví dụ: Việc soạn thảo Công ước Luật biển là công ước lớn nhất trong khuôn khổ LHQ
kể từ khi thành lập năm 1945. Đây là một điển hình của nỗ lực của việc pháp điển hóa
luật pháp quốc tế. Công ước được thảo luận tại Đại hội đồng LHQ năm 1956, qua các
lần hội nghị năm 1958, 1973, cho đến năm 1982 mới đạt được thỏa thuận là Công ước
luật biển 1982.
LHQ cũng thường xuyên tổ chức những hội nghị để các bên đàm phán và kí kết
ĐƯQT cụ thể như hội nghị luật biển của LHQ… Các quốc thành viên đã tham gia vào
hội nghị này, cùng nhau thương lượng về những vấn đề liên quan đến quy chế pháp lý
vùng biển.
Có thể thấy rằng, cùng với hoạt động xây dựng pháp luật trực tiếp thì hoạt động xây
dựng pháp luật gián tiếp đã giúp phần xây dựng và hoàn thiện thêm hệ thống pháp luật
quốc tế.
2.3. Giám sát việc thực thi hệ thống pháp luật quốc tế.
Bên cạnh việc xây dựng pháp luật thì LHQ cần phải thiết lập nên các thiết chế để
giám sát thực hiện các ĐƯQT. Việc giám sát này dựa trên cơ sở tự nguyện, tận tâm,
thiện chí, không hề có bất kì cơ quan cưỡng chế nào. Tuy nhiên, trong một số trường
6
hợp, biện pháp cưỡng chế vẫn được sử dụng để bảo đảm lợi ích cho cộng đồng. Các tổ
chức quốc tế như LHQ đều đóng vai trò xây dựng nền tảng, thúc đẩy phát triển, tạo sự
liên kết giữa các quốc gia. Vậy nên việc giám sát việc thực thi của các quốc gia cần
được điều phối, thực hiện một cách nhịp nhàng.
3. Nhận xét, đánh giá và phương hướng giải quyết.
3.1. Ưu điểm.
Tổ chức LHQ ra đời thực sự có ý nghĩa to lớn trong đời sống chính trị quốc tế trong
gần 60 năm qua. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu sự xuất hiện của các hoạt động
ngoại giao đa phương hiện đại, một bước ngoặt quyết định trong lịch sử phát triển của
nền ngoại giao đa phương nói chung. Với những hoạt động thực tiễn trong hơn 60 năm
qua, không thể phủ nhận rằng LHQ đã có tác động tích cực, to lớn đến mọi mặt của đời
sống quốc tế. Việc xây dựng các ĐƯQT đa phương trong quan hệ quốc tế từ sau hai
cuộc chiến tranh thảm họa cho thế giới đã góp phần tạo nên sự ổn định trong mối quan
hệ giữa các quốc gia trong tình hình thế giới đầy biến động.
Theo thống kê của LHQ, cho đến năm 2007, tổ chức này đã hỗ trợ các cuộc thương
lượng đưa đến giải pháp hoà bình cho hơn 170 cuộc xung đột ở các khu vực . LHQ đã
soạn thảo và xây dựng được 15 công ước quốc tế về giải trừ quân bị. Thực tế có thể
thấy trong vòng năm thập kỷ qua, LHQ đã bảo trợ cho trên 456 thoả thuận đa phương
bao gồm mọi lĩnh vực hoạt động giữa các nhà nước và nỗ lực của loài người…. Các
ĐƯQT đã được kí kết, các tập quán quốc tế dần dần được chấp nhận, các hội nghị, diễn
đàn thường xuyên được tổ chức. Tất cả đó chính là những “nguyên liệu” quan trọng nhất
để tạo nên, xây dựng nên và ngày càng hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật quốc tế.
3.2. Nhược điểm.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc xây dựng hệ thống pháp luật quốc tế vẫn
còn những tồn tại đáng chú ý. Sự ra đời của LHQ và bản thân Hiến chương LHQ chưa
đủ để bảo đảm sự bình đẳng hoàn toàn và triệt để giữa các quốc gia lớn nhỏ. Sự đóng
góp của LHQ đối với hoà bình an ninh quốc tế trong hơn 60 năm qua là rất đáng kể. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy trong nhiều vấn đề, nhiều sự kiện, LHQ không thể hiện được vai
trò của mình hoặc có thể nói LHQ chưa làm tròn sứ mệnh của mình. Nhiều ĐƯQT vẫn
còn gây ra nhiều tranh cãi, chưa có tính phổ cập bao trùm như các ĐUQT về môi
trường,… Trong vấn đề an ninh, có thể kể đến các thất bại như: thất bại trong việc ngăn
chặn vụ diệt chủng tại Rwanda năm 1994, dẫn tới cái chết của gần một triệu người vì
các thành viên của Hội đồng bảo an từ chối thông qua bất kì một hành động quân sự
nào. Thực tế, nhiều tập quán quốc tế đã không còn phù hợp với thực trạng xã hội hiện
nay. Sự hợp tác giữa các quốc gia với nhau đôi khi vẫn chưa tích cực, chặt chẽ… chính
những tồn tại trên đã làm hạn chế, cản trở phần nào quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ
thống pháp luật quốc tế.
3.3. Phương hướng giải quyết.
Chính vì thực trạng như vậy nên LHQ phải nỗ lực tìm kiếm các biện pháp để LHQ
hoạt động có hiệu quả hơn trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc
tế. Trước hết, cần phải tăng cường sự hợp tác giữa các quốc gia với nhau. Sau đó, LHQ
cần phải thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình một cách tốt nhất trong khuôn khổ
thẩm quyền mà các quốc gia thành viên trao cho dựa trên các ĐƯQT hay các tập quán
quốc tế đã có. Cần thúc đẩy mạnh mẽ việc xây dựng các mối quan hệ quốc tế công bằng,
lành mạnh dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế và các nguyên tắc của Hiến chương LHQ;
đóng góp tích cực vào việc thu hẹp khoảng cách phát triển, trong đó có việc thực hiện
7
Các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, để toàn cầu hóa trở thành một lực lượng tích cực
đối với toàn thể nhân dân thế giới; thực hiện cải tổ toàn diện LHQ . Hơn thế nữa, cần
phải thường xuyên tổ chức các diễn đàn, hội nghị để các quốc gia đàm phán, thương
lượng, nâng cao tầm hiểu biết, góp phần tích cực vào quá trình xây dựng hệ thống pháp
luật quốc tế.
C. KẾT LUẬN.
Tóm lại, qua những phân tích ở trên chúng ta có thể thấy được vai trò quan trọng của
LHQ - tổ chức quốc tế đa phương lớn nhất toàn cầu hiện nay trong bối cảnh toàn cầu
đang có nhiều bất ổn. Tuy rằng vẫn còn một số bất cập nhưng thực sự LHQ đã đóng góp
rất nhiều nỗ lực, thành tựu trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
quốc tế. Đặc biệt, cần phải nâng cao vai trò của LHQ để tổ chức này có thể giúp sức
nhiều hơn nữa trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc tế, qua
đó xây dựng một thế giới hòa bình, ổn định và phát triển hơn.
8
- Xem thêm -