Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật đánh giá tiềm năng của việc xã hội hóa dịch vụ công cộng ở việt nam trong tương ...

Tài liệu đánh giá tiềm năng của việc xã hội hóa dịch vụ công cộng ở việt nam trong tương lai

.DOC
14
132
122

Mô tả:

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH CƠ SỞ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH MIỀN TRUNG BÀI TIỂU LUẬN MÔN: QUẢN LÝ DỊCH VỤ CÔNG Đề tài: ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG CỦA VIỆC XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG CỘNG Ở VIỆT NAM TRONG TƯƠNG LAI Giảng viên: TS. ĐẶNG KHẮC ÁNH Học viên: Hoàng Thị Thu Hương Lớp: HCC 16 M Huế, tháng 4, năm 2013 1 MỤC LỤC MỞ ĐẦU NỘI DUNG I. Một số khái niệm, nội dung liên quan đến xã hội hóa (XHH) dịch vụ công: 1. Một số khái niệm về dịch vụ công: 2. Khái niệm về xã hội hóa dịch vụ công: 2.1. Xã hội hóa: 2.2. Xã hội hóa dịch vụ công (XHHDVC): 3. Sự cần thiết phải xã hội hóa dịch vụ công: II. Tình hình XHH việc cung ứng DVC ở Việt Nam hiện nay: 1. Những kết quả đạt được: 2. Một số hạn chế, bất cập: 3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập: III. Giải pháp đẩy mạnh việc XHH DVC ở Việt Nam trong tương lai: 1. Các giải pháp chung: 2. Các giải pháp cụ thể cho từng lĩnh vực: 2.1. Về dịch vụ hành chính công: 2.2. Về dịch vụ sự nghiệp công: 2.3. Về dịch vụ công ích: KẾT LUẬN 2 ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG CỦA VIỆC XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG CỘNG Ở VIỆT NAM TRONG TƯƠNG LAI MỞ ĐẦU Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngay từ khi thành lập đã mang trong mình bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân, luôn đặt lợi ích của dân tộc, của nhân dân lên hàng đầu. Trong các thời kỳ Đảng và Nhà nước ta luôn chăm lo đời sống mọi mặt của nhân dân, đẩy mạnh phát triển về sản xuất, y tế, giáo dục… nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Tuy nhiên, giữa mong muốn và thực hiện có sự mâu thuẫn, nước ta vẫn là một trong những quốc gia chậm phát triển, sự đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của người dân vẫn còn rất hạn chế. Trong thời gian qua, chúng ta đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và toàn cầu, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Nhiều mục tiêu chủ yếu của chiến lược phát triển KT- XH đã đạt bước phát triển mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội đạt thành tựu quan trọng trên nhiều mặt, nhất là xóa đói, giảm nghèo. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt; dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định và tăng thêm nguồn lực cho phát triển đất nước. Đạt được những thành tựu nêu trên là nhờ phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc, sự nỗ lực phấn đấu vượt bậc, năng động, sáng tạo của toàn dân, toàn quân, cộng đồng doanh nghiệp và của cả hệ thống chính trị, sự quản lý điều hành có hiệu quả của Nhà nước dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế và yếu kém trên nhiều phương diện và lĩnh vực. Nước ta bước vào thời kỳ chiến lược mới trong bối cảnh thế giới đang thay đổi rất nhanh, phức tạp và khó lường. Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen rất phức tạp. Tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế nêu trên tạo cho nước ta vị thế mới với những thuận lợi và cơ hội to lớn cùng những khó khăn và thách thức gay gắt 3 trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ trong thời kỳ chiến lược tới. Đại hội XI vừa qua của Đảng ta đã khẳng định Nhà nước cần tăng cường chức năng phục vụ xã hội: “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người”. Điều này vừa là bản chất, mục tiêu của Nhà nước ta, vừa tạo động lực cho sự phát triển đất nước. Trong xu hướng cải cách, chuyển đổi từ nhà nước cai trị sang nhà nước phục vụ thì việc xã hội hóa cung ứng dịch vụ công cũng được đặt ra. Xã hội hóa dịch vụ công nhằm để huy động mọi nguồn lực xã hội đáp ứng dịch vụ cho công dân. Tạo điều kiện cho mọi người tham gia tích cực vào hoạt động này, phát huy khả năng, năng lực tiềm tàng trong xã hội; khơi dậy tính sáng tạo, chủ động, tích cực của người dân... nhờ đó đa dạng hóa và tăng nguồn cung ứng dịch vụ công cho xã hội. Ngoài ra còn huy động, động viên sự đóng góp kinh phí của mỗi người cho hoạt động cung ứng dịch vụ công cho Nhà nước; làm giảm gánh nặng ngân sách cho Nhà nước để Nhà nước tập trung ngân sách vào những nhiệm vụ trọng tâm của sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa (CNH-HĐH) đất nước. NỘI DUNG I. Một số khái niệm, nội dung liên quan đến xã hội hóa (XHH) dịch vụ công: 1. Một số khái niệm về dịch vụ công: Dịch vụ công (DVC) có nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng từ Tiếng Anh là Public Service. Theo đó, DVC có quan hệ chặt chẽ với phạm trù hàng hóa công cộng. Theo ý nghĩa kinh tế học, hàng hóa công cộng có ba đặc tính cơ bản sau: (1). là hàng hóa mà khi đã được tạo ra thì khó có thể loại trừ ai ra khỏi việc sử dụng nó; (2). việc tiêu dùng của người này không làm giảm lượng tiêu dùng của người khác; (3). và không thể vứt bỏ được, tức là ngay khi không được tiêu dùng thì hàng hóa công cộng vẫn tồn tại. Những hàng hóa nào thỏa mãn cả ba đặc tính trên được gọi là hàng hóa công cộng thuần túy, và những hàng hóa nào không thỏa mãn cả ba đặc tính trên được gọi là hàng hóa công cộng không thuần túy. Từ giác độ chủ thể quản lý nhà nước, các nhà nghiên cứu hành chính cho rằng DVC là những hoạt động của cơ quan nhà nước (CQNN) trong việc thực thi chức năng quản lý hành chính nhà nước (QLHCNN) và đảm bảo cung ứng các hàng hóa công cộng phục vụ nhu cầu chung, thiết yếu của xã hội. DVC cũng có thể được hiểu là những giao dịch trực tiếp về dịch vụ giữa Nhà nước (hoặc các tổ chức được Nhà nước ủy nhiệm) và công dân với tư cách là khách hàng. Nói rộng hơn, khi Nhà nước đứng ra với tư cách là người bảo đảm cung cấp các DVC thì các dịch vụ đó được gọi là các DVC. Khái niệm DVC bao gồm một số loại dịch vụ khác nhau, thậm chí rất khác nhau về tính chất. 4 Ở Việt Nam, khái niệm DVC bao hàm ba nhóm dịch vụ chủ yếu. Một là, nhóm dịch vụ hành chính công, các dịch vụ thuộc nhóm này hầu hết là dịch vụ công cộng thuần túy; hai là, nhóm dịch vụ xã hội cơ bản hay dịch vụ xã hội thiết yếu, đây là những dịch vụ công cộng không thuần túy, phần lớn chỉ thỏa mãn tiêu chí không cạnh tranh trong tiêu dùng (ví dụ: giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa…); ba là, nhóm dịch vụ công ích bao gồm những dịch vụ công cộng không thuần túy, phần lớn chỉ thỏa mãn tiêu chí không loại trừ trong tiêu dùng (ví dụ: vệ sinh môi trường, cấp thoát nước, giao thông công cộng). Ơ nước ta, dịch vụ công cộng có lúc còn được gọi là DVC. Với thực tiễn Việt Nam chúng ta có thể hiểu DVC là những dịch vụ đáp ứng các nhu cầu cơ bản, thiết yếu chung của người dân và cộng đồng, bảo đảm ổn định và công bằng xã hội do nhà nước chịu trách nhiệm, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Trong kinh tế học công cộng và kinh tế học đô thị, cụm từ dịch vụ công cộng (DVCC) được dùng để chỉ các dịch vụ mà Chính phủ cung ứng cho các công dân của mình, có thể là trực tiếp thông qua khu vực công hay là cấp tài chính cho khu vực tư cung ứng. Tóm lại, DVC là dịch vụ do Nhà nước trực tiếp đảm nhận việc cung ứng hay ủy nhiệm cho các cơ sở ngoài Nhà nước thực hiện nhằm bảo đảm trật tự và công bằng xã hội phục vụ các lợi ích chung thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân. 2. Khái niệm về xã hội hóa dịch vụ công: a. Xã hội hóa: Theo C. Mác XHH được hiểu là quá trình chuyển biến từ một nền sản xuất có tính chất cá nhân, tư hữu sang một nền sản xuất có tính chất công cộng, công hữu. Trên cơ sở chuyển biến của nền sản xuất xã hội mà toàn bộ các quá trình xã hội khác, trong đó có sự chuyển biến vai trò xã hội của nhà nước, cũng có những sự biến đổi tương ứng hướng tới cái chung, xã hội. Theo từ điển Petit Robert (1968), XHH là “làm phát triển các mối quan hệ xã hội, sự hình thành trong một nhóm xã hội, trong xã hội”. Theo từ điển Nouveau Petit Larousse 1969 và Petit Larousseen Coeleurs 1972, XHH là “biến các tư liệu sản xuất và trao đổi thành của công”. Ở Việt Nam, XHH được hiểu là “làm cho tư liệu sản xuất của cá nhân trở thành của chung xã hội” Theo quan điểm của Đảng ta, XHH chính là huy động nguồn lực từ trong nhân dân và sự tham gia của người dân vào việc giải quyết các vấn đề thuộc chính sách xã hội của nhà nước. b. Xã hội hóa dịch vụ công (XHHDVC): 5 Có nhiều quan niệm về XHHDVC, nhưng hiện nay ở nước ta có thể hiểu như sau: XHHDVC là quá trình mở rộng sự tham gia của các chủ thể xã hội và tăng cường vai trò của nhà nước đối với DVC. 3. Sự cần thiết phải xã hội hóa dịch vụ công: Nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các tổ chức và công dân, Nhà nước phải XHHDVC bởi hai nhóm lý do sau: +Nhóm các lý do chung: - Do yêu cầu phát triển chung của đời sống kinh tế xã hội. Trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường (KTTT) và xu hướng dân chủ hóa đời sống xã hội diễn ra mạnh mẽ, khoa học và công nghệ đang phát triển vượt bậc, buộc nhà nước phải nâng cao trách nhiệm đối với quá trình phát triển kinh tế-xã hội đồng thời phải thu hút sự tham gia của người dân vào công việc của nhà nước. - Do đặc điểm của nền KTTT là hướng sự chú ý tới khách hàng, nhằm thỏa mãn nhu cầu khách hàng, khu vực tư nhân là khu vực linh hoạt hơn khu vực nhà nước trong cung ứng dịch vụ. - Sự thay đổi tương quan giữa khu vực công (KVC) và khu vực tư (KVT) trong việc cung ứng dịch vụ công cộng (DVCC) cũng là một yếu tố dẫn đến sự thay đổi trong hình thức cung ứng các DVC. Các thay đổi là do: sự phát triển của khoa học công nghệ ngày càng cao; sự thay đổi về mức sống của người dân (mức sống tăng lên); sự kém hiệu quả của KVC so với KVT. Những lý do trên đây cho ta thấy được sự cần thiết phải thực hiện chuyển giao một số DVC cho các chủ thể xã hội khác thực hiện dưới sự kiểm soát hay chịu trách nhiệm của nhà nước. +Nhóm các lý do từ phía nhà nước: - Một là, tiết kiệm ngân sách. Nền KTTT trong những năm gần đây đã có những tiến bộ trên nhiều lĩnh vực, khoa học- kỹ thuật (KHKT) ngày càng phát triển, nhu cầu sử dụng DVCC trong dân cư ngày càng tăng và trở nên không đồng đều giữa các tầng lớp dân cư. Rất nhiều vấn đề xã hội chung được đặt ra yêu cầu nhà nước phải có trách nhiệm. Điều đó làm nảy sinh mâu thuẫn giữa các khoãn kinh phí bao cấp cho DVCC và ngân sách nhà nước (NSNN). Do vậy nhà nước không thể tiếp tục thực hiện việc cung ứng trực tiếp và bao cấp hoàn toàn đối với mọi DVCC mà cần phải có những sự chuyển giao thích hợp. Ngoài ra còn huy động, động viên sự đóng góp kinh phí của mỗi người cho hoạt động cung ứng DVC cho Nhà nước; làm giảm gánh nặng ngân sách cho Nhà nước để Nhà nước tập trung ngân sách vào những nhiệm vụ trọng tâm của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. - Hai là, năng lực bộ máy cung cấp dịch vụ của nhà nước có hạn, việc tổ chức thực hiện cung ứng nhìn chung chưa bảo đảm thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng, có nhiều DVC Nhà nước làm được, nhưng xét chung thì tư nhân sẽ làm tốt hơn, tốc độ nhanh, trọn gói, gọn gàng, đội ngũ nhân viên làm việc nhiệt tình và thuận lợi 6 hơn. Nên việc lôi cuốn được các thành phần kinh tế, các chủ thể xã hội khác cùng tham gia sẽ tạo cơ hội cho người dân tiếp cận nhanh và dễ dàng với các dịch vụ chất lượng cao và giá rẻ. - Ba là, yêu cầu nâng cao tính cạnh tranh và chuyên nghiệp của KVC. Trước kia nhà nước bao cấp hoàn toàn nên đã tạo cho các cơ quan cung cấp ỷ lại, không chịu cải tiến, các tổ chức công lập không có tính cạnh tranh, chuyên nghiệp. Việc chuyển giao một số DVC cho các cơ sở ngoài nhà nước sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh, tạo điều kiện cho người tiêu dùng lựa chọn và sử dụng những dịch vụ tốt nhất. Qua đó, tổ chức ngoài Nhà nước có điều kiện để khẳng định chính mình, đáp ứng nhu cầu tốt hơn và ngày càng cao của công dân. Các tổ chức này luôn phải đổi mới quản lý, nâng cao hiệu quả để tồn tại và phát triển. - Bốn là, bảo đảm tính công khai và minh bạch. Thực tế hoạt động của hệ thống các cơ quan, tổ chức nhà nước trong việc cung ứng DVC thời gian qua còn nhiều hạn chế, chưa bảo đảm tính công khai minh bạch. Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình hình đó là vai trò kiểm tra, giám sát của bộ máy nhà nước (BMNN) và người dân, các tổ chức xã hội chưa được đề cao và thể chế hóa thành trách nhiệm cụ thể. Vì vậy việc mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế trong tổ chức cung ứng DVC không chỉ có tác dụng tăng thêm số lượng, nâng cao chất lượng dịch vụ, mà còn tạo điều kiện cho người dân, các tổ chức xã hội tham gia kiểm tra, giám sát việc cung ứng DVC, bảo đảm tính công khai, minh bạch. Từ những phân tích nêu trên cho chúng ta thấy rõ XHHDVC là tất yếu. II. Tình hình XHH việc cung ứng DVC ở Việt Nam hiện nay: 1. Những kết quả đạt được: Bước vào thời kỳ đổi mới, phát triển KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế và thực hiện dân chủ XHH, đời sống kinh tế xã hội phát triển, nhu cầu của người dân và xã hội ngày càng tăng, đòi hỏi các dịch vụ hành chính, giáo dục, y tế, văn hóa- xã hội, vệ sinh môi trường…phải được nâng cao chất lượng và hiệu quả, đáp ứng kịp thời. Trước tình hình đó việc tổ chức và cung ứng DVC đã có những kết quả tiến bộ nhất định trên một số lĩnh vực: - Bước đầu xác định rõ hơn về phạm vi DVC mà nhà nước phải chịu trách nhiệm tổ chức cung ứng nhằm hạn chế dần tình trạng ôm đồm, bao cấp tràn lan. - Chính phủ đã tập trung sửa đổi, bổ sung một số thể chế chính sách và điều chỉnh mục tiêu, phương thức sử dụng và cơ cấu nguồn vốn theo hướng tập trung cho các mục tiêu ưu tiên, các chương trình phát triển quốc gia về giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục – thể thao, hỗ trợ vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người, ưu đãi đối tượng chính sách và giúp đỡ người nghèo. - Cơ chế quản lý đối với đơn vị công lập hoạt động trong một số lĩnh vực sự nghiệp, DVC từng bước được đổi mới theo hướng phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính, chủ 7 động huy động các nguồn lực để phát triển, mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động dịch vụ. - Thực hiện từng bước chế độ trợ giúp người nghèo, bảo đảm quyền lợi và cơ hội thụ hưởng DVC cho các đối tượng chịu nhiều thiệt thòi. - Bước đầu thực hiện XHH DVC, huy động nhiều hơn các nguồn lực xã hội tham gia cung ứng DVC, phục vụ nhu cầu người dân. - Chú trọng hơn công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển của lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công. 2. Một số hạn chế, bất cập: Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng so với yêu cầu phát triển KTXH và nhu cầu của người dân, thì hoạt động quản lý và cung ứng DVC vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập, cụ thể là: - Quản lý DVC còn chậm đổi mới, về cơ bản vẫn còn chịu ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Quan điểm, chủ trương, chính sách về quản lý DVC chưa theo kịp tình hình mới của đất nước trong điều kiện phát triển KTTT, hội nhập kinh tế quốc tế. - Thể chế, chính sách trong lĩnh vực DVC còn nhiều bất cập, lạc hậu. Việc tách tổ chức và hoạt động DVC với QLHCNN mới chỉ là chủ trương, định hướng mà chưa được thể chế hóa đồng bộ. Trách nhiệm quản lý cung ứng DVC của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương các cấp chưa được xác định rõ ràng, còn chồng chéo, vướng mắc. - Chiến lược và quy hoạch phát triển các lĩnh vực DVC còn thiếu hoàn chỉnh và đồng bộ, chưa theo kịp phát triển KT- XH và nhu cầu của người dân. Định hướng và quy hoạch phát triển chưa rõ ràng, cơ chế, chính sách thiếu đồng bộ. Đầu tư dàn trải và hiệu quả thấp. - Phương thức tổ chức cung ứng DVC của các cơ quan HCNN ở trung ương và địa phương chậm đổi mới, chất lượng, hiệu quả thấp, vừa có biểu hiện ôm đồm, làm thay, vừa có tình trạng buông lỏng, thiếu trách nhiệm. Việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập đang còn nhiều khó khăn, vướng mắc. - Công tác kiểm tra, giám sát của nhà nước đối với việc cung ứng DVC chưa được thực hiện thường xuyên, nghiêm túc; chưa có kết quả chất lượng cụ thể, rõ ràng; chưa tạo điều kiện thuận lợi cho việc giám sát của người dân. Tính công khai, minh bạch còn hạn chế; tình trạng gây phiền hà, nhũng nhiễu còn nhiều phổ biến. - Đầu tư nhà nước kém, quản lý cũng lỏng lẻo. Những hạn chế và yếu kém của việc cung cấp các DVC khiến cho những vấn đề xoay quanh giáo dục và y tế chưa bao giờ hết nóng bỏng trong xã hội. “Người dân bây giờ nhiều lúc phải lựa chọn bằng cách “tự đi trên đôi chân của mình”. Họ chấp nhận đi nước ngoài để chi cho cả dịch vụ y tế và giáo dục khoảng vài tỷ USD mỗi năm. 3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập: 8 - Một là, nhận thức về xã hội hóa của các ngành, các cấp và người dân còn nhiều mặt hạn chế, thậm chí còn có những biểu hiện lệch lạc, chưa thấy hết được tính chất tất yếu và lợi ích lâu dài của công tác XHH, chưa nhìn nhận đúng vai trò của các thành phần kinh tế và của toàn xã hội trong việc tham gia cung ứng DVC, còn định kiến với các cơ sở ngoài công lập. Nhận thức về XHH trong xã hội chưa có sự thống nhất. - Hai là, trong phần lớn thời gian thực hiện XHH vừa qua, các ngành chưa có một quy hoạch tổng thể về phát triển XHH để định hướng và xác định bước đi cụ thể phù hợp cho từng vùng, từng lĩnh vực, đề ra tầm nhìn chiến lược về đổi mới các cơ sở công lập cung ứng dịch vụ và phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập….Sự ban hành quy hoạch phát triển XHH trong các ngành còn chậm trễ là nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng tự phát, sự không đồng đều trong thực hiện XHH, và một số vấn đề khác trong công tác chỉ đạo, điều hành và quản lý thực hiện xã hội hóa của các cấp, các ngành. Mặt khác, việc phối hợp các mặt công tác giữa các cơ quan chức năng còn thiếu đồng bộ dẫn đến chậm trễ trong thực hiện XHH. - Ba là, môi trường pháp lý cho việc XHH và quản lý các hoạt động cung ứng DVC ngoài công lập còn nhiều hạn chế. Một số chính sách XHH chưa quy định rành mạch về sở hữu của các cơ sở ngoài công lập, chưa phân biệt rõ sự khác biệt giữa các hoạt động có bản chất lợi nhuận và phi lợi nhuận của các cơ sở cung ứng DVC. Hệ thống các văn bản pháp quy chậm được hướng dẫn, phổ biến; những quy chuẩn về các mô hình bán công, dân lập, tư thục, quy chế về tổ chức và hoạt động của các cơ sở ngoài công lập còn chậm được ban hành và chưa đồng bộ, nên kém hấp dẫn người sử dụng. - Bên cạnh đó, hiệu lực thực thi của một số chính sách liên quan đến XHH chưa cao. Chẳng hạn như: + Chính sách về đất đai và cơ sở vật chất: Ở các thành phố lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh việc các cơ sở ngoài công lập xin được giao đất là rất khó khăn, việc ưu tiên thuê nhà, cơ sở hạ tầng của Nhà nước chưa thực hiện được; có những đơn vị vốn đầu tư phát triển lớn ( thí dụ các trường đại học) nhưng không được giao đất xây dựng nên vẫn phải đi thuê trường sở. + Chính sách về phí và lệ phí: Nhược điểm lớn nhất của chính sách học phí được thực hiện trong thời gian qua là chưa đáp ứng được nhu cầu nâng cao chất lượng đào tạo, chưa tạo điều kiện để thực hiện “lá lành đùm lá rách”, vùng giàu giúp vùng nghèo, người giàu giúp người nghèo. Phí, lệ phí của ngành văn hóa, thể dục thể thao còn cao so với mặt bằng thu nhập của toàn xã hội. + Chính sách thuế, tín dụng, huy động vốn và đầu tư của Nhà nước: 9 Về chính sách thuế, các đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi còn hẹp, mức độ ưu đãi thấp, mức thuế suất ở từng địa bàn còn quá cao nên tác dụng khuyến khích và thúc đẩy XHH chưa cao. Về tín dụng, việc thực hiện chính sách ưu đãi phụ thuộc vào quyền của các ngân hàng; vẫn còn sự phiền hà, khó khăn khi vay tiền. Về huy động vốn, việc nhân dân góp cổ phần xây dựng trường đã được đề cập đến nhưng chưa được cụ thể hóa trong văn bản hướng dẫn nên chỉ có một vài nơi thực hiện được. Về chính sách đầu tư của nhà nước, nhìn chung đầu tư còn dàn trải, chưa tới ngưỡng để tạo bước phát triển cơ bản, hiệu quả thấp. + Chính sách nhân lực: Nhìn chung các Bộ, ngành và địa phương chưa chăm lo đào tạo, phát triển nhân lực ngoài công lập cả về số lượng, cơ cấu, trình độ nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, thực hiện các chế độ chính sách. - Bốn là, việc kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm đối với các cơ sở cung ứng DVC ngoài công lập chưa chặt chẽ và chưa nghiêm. Công tác kiểm tra, thanh tra có làm nhưng chưa được thường xuyên; việc kiểm tra, thanh tra chuyên môn, tài chính chưa nghiêm túc; còn có sự nhầm lẫn giữa chức năng thanh tra chế độ, chính sách và thanh tra chuyên môn. Công tác thanh tra, kiểm tra chủ yếu chú trọng vào đến đối tượng ngành nghề mà chưa tổ chức thanh tra, kiểm tra đối với chính sách các cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện quản lý các cơ sở này. Sự phối hợp giữa cơ quan thanh tra và các cơ quan khác như công an, quản lý thị trường còn yếu, làm ảnh hưởng tới chất lượng thanh tra. Bên cạnh đó, việc xử lý vi phạm đối với các cơ sở ngoài công lập còn chưa nghiêm, xử sai, vượt quá thẩm quyền, không dứt khoát…dẫn đến tình trạng coi thường pháp luật hoặc kiện cáo kéo dài. Các Bộ, ngành chức năng chưa có bộ phận theo dõi, hướng dẫn và đánh giá việc thực hiện XHH của ngành mình, làm cơ sở để trình Nhà nước các định hướng lớn trong phát triển XHH. III. Giải pháp đẩy mạnh việc XHH DVC ở Việt Nam trong tương lai: 1. Các giải pháp chung: Nhằm nâng cao trách nhiệm, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy các nguồn lực xã hội, nâng cao chất lượng và hiệu quả cung ứng DVC, đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng của người dân và cộng đồng. Đảng và Nhà nước ta xác định rõ quan điểm, nguyên tắc và phương hướng đổi mới trong XHH cung ứng DVC. Chủ trương đẩy mạnh XHH DVC chủ yếu ở các nội dung sau: - XHH DVC là nội dung đặc biệt quan trọng trong đổi mới cung ứng và quản lý DVC; là một xu hướng không thể đảo ngược trong quá trình phát triển KTTT định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. - Thực hiện XHH trước tiên là dịch vụ sự nghiệp công, sau đó là dịch vụ hành chính công (HCC) và dịch vụ công ích. Việc mở rộng XHH sang nhiều lĩnh vực 10 dịch vụ cần được thực hiện theo tuần tự, tránh tình trạng thực hiện ồ ạt, tràn lan, có nguy cơ gây ra những hậu quả tiêu cực. - Việc XHH DVC phải được thực hiện trong mối gắn kết với những cải cách KTXH khác nhằm hướng đến mục tiêu đẩy nhanh sự phát triển toàn diện của đất nước. - Nhà nước khuyến khích các chủ thể kinh tế thuộc các thành phần khác nhau, nhất là các chủ thể phi nhà nước, tham gia vào hoạt động cung ứng DVC; tạo môi trường phát triển, môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng theo pháp luật để thúc đẩy các cơ sở công lập và ngoài công lập phát triển về cả quy mô và chất lượng; tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra trong quá trình XHH cung ứng DVC nhằm hạn chế các tác động tiêu cực. Các giải pháp về thực hiện XHH DVC được đề cập theo ba nhóm, cụ thể là; + Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nghiên cứu lý luận, nâng cao nhận thức về XHH; trong đó chú ý làm sáng tỏ những vấn đề chưa rõ ràng và chưa thống nhất liên quan đến cơ chế XHH. + Tiếp tục đổi mới chính sách và cơ chế quản lý: hoàn thiện các quy định về mô hình, quy chế hoạt động của các cơ sở ngoài công lập; chuyển cơ chế hoạt động ngoài công lập sang cơ chế cung ứng dịch vụ; đổi mới cơ chế sử dụng NSNN trong các lĩnh vực DVC; đổi mới các chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, đất đai, nhân lực; và đổi mới cơ chế QLNN. + Xây dựng quy hoạch phát triển XHH. Một số giải pháp cụ thể đó là: - Tách hoạt động cung ứng DVC ra khỏi hoạt động QLNN bởi đây là cơ sở quan trọng của XHH cung ứng DVC. Hoạt động cung ứng DVC khác với hoạt động QLNN. Cần phân định rõ ràng hoạt động của các đơn vị sự nghiệp, các doanh nghiệp công ích của Nhà nước cung ứng dịch vụ công với các cơ sở QLHCNN, khắc phục tình trạng cơ quan QLNN các cấp can thiệp quá sâu vào hoạt động của các cơ sở cung ứng DVC. Cần xây dựng cơ chế hoạt động và quản lý phù hợp làm cho các cơ sở cung ứng DVC có thể cạnh tranh lành mạnh với nhau trên thị trường và phải tự khẳng định mình bằng sự nổ lực vươn lên trong môi trường cạnh tranh bình đẳng. - Xác định rõ những lĩnh vực DVC được XHH trong tương lai. Trên thực tế, có nhiều lĩnh vực đã, đang và sẽ được XHH, nhưng trước hết cần tập trung vào dịch vụ sự nghiệp công với bốn lĩnh vực sau: giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa và thể dục thể thao. Sau đó là: dịch vụ HCC (công chứng), dịch vụ công ích (vệ sinh môi trường, quản lý công viên, cây xanh, cấp nước sạch ở nông thôn, bổ sung nguồn phát triển cấp điện ở nông thôn, vận tải công cộng). Chúng ta tiến hành việc XHH trước tiên vào các dịch vụ sự nghiệp công vì lĩnh vực này nhằm bồi dưỡng và phát huy con người cả về trí tuệ, tinh thần và thể chất, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đáp ứng nhu cầu và sự quan tâm của toàn xã 11 hội cho tới mọi gia đình. Đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng lĩnh vực này là nhân tố có ý nghĩa quyết định đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, tiến cùng thời đại, nâng cao được vị thế hội nhập kinh tế quốc tế. - Đa dạng hóa các hình thức cung ứng DVC, cụ thể như sau: + Nhà nước giao cho cơ sở ngoài công lập tài sản vật chất ngoài Nhà nước (Nhà nước vẫn giữ quyền sở hữu) và cơ sở này sử dụng tài sản này để cung ứng DVC cho xã hội. + Nhà nước ký hợp đồng với các cơ sở ngoài công lập cung ứng một loại DVC. Các cơ sở ngoài công lập có tài sản riêng, nguồn vốn riêng, đứng ra tổ chức cung ứng DVC theo hợp đồng của Nhà nước, trong đó xác định rõ trách nhiệm, quyền lợi của hai bên. + Trong một số dịch vụ công ích như cung cấp điện, nước sạch…, cơ sở ngoài công lập tạo ra sản phẩm ban đầu và Nhà nước mua lại để hòa vào mạng lưới phân phối chung, cung ứng điện nước cho người tiêu dùng. - Làm rõ cơ chế hoạt động của các cơ sở công lập sau khi được chuyển đổi từ hoạt động theo cơ chế sự nghiệp sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tập trung vào các nội dung sau đây: + Làm rõ quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ quan công lập cung ứng DVC bao gồm: kế hoạch hoạt động; tổ chức nhân sự; tài chính. Quyền tự chủ kể cả phần thu và phần chi nhằm bảo đảm hoàn thành các nhiệm vụ đã ký kết và chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình theo quy định của pháp luật. + Làm rõ cơ chế tài chính của các cơ sở công lập cung ứng DVC, đó là chuyển từ chế độ dự toán của cơ quan hành chính sang cơ chế tự hạch toán hay hạch toán độc lập để bảo đảm cho các cơ sở công lập cung ứng DVC hạch toán thực các phần thu, chi của mình. - Thực hiện các biện pháp, chính sách tạo dễ dàng và khuyến khích đối với các cơ sở ngoài công lập cung ứng DVC, cụ thể là: + Đơn giản hóa các thủ tục thành lập và hoạt động của cơ sở ngoài công lập theo hướng: thống nhất tiêu chuẩn cũng như thẫm quyền quyết định thành lập, giải thể, sát nhập, chia, tách và đình chỉ hoạt động của các cơ sở cung ứng DVC; quy định cụ thể thời gian xét duyệt, cấp giấy phép thành lập đối với các cơ sở ngoài công lập cung ứng DVC; tăng cường thời gian cho việc thẩm định, xem xét các tiêu chuẩn và điều kiện thành lập các cơ sở ngoài công lập cung ứng DVC, đồng thời rút ngắn thời gian ở khâu cấp phép; cho phép áp dụng các thủ tục đề ra một cách linh động trong các điều kiện đặc biệt; các cơ quan chức năng cần tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ về mặt thủ tục cho các cơ quan công lập trong quá trình hoạt động(vay vốn ngân hàng, thuê đất, tuyển dụng lao động…). + Thực hiện các chính sách khuyến khích hỗ trợ đầu tư đối với các cơ sở ngoài công lập cung ứng DVC: hỗ trợ về mặt bằng xây dựng và kết cấu hạ tầng, về ngân sách và tín dụng đầu tư, và các hỗ trợ khác (miễn giảm thuế, trợ cấp mà không thu 12 lợi nhuận, cung cấp các thông tin cần thiết nhằm giúp tránh được rủi ro, bất trắc, hỗ trợ về nhân lực và đào tạo). 2. Các giải pháp cụ thể cho từng lĩnh vực: 2.1. Về dịch vụ hành chính công: Để dịch vụ HCC được thực hiện một cách hiệu quả, chúng ta cần làm tốt các nhiệm vụ sau: - Hoàn thiện thể chế và quy trình cung ứng dịch vụ HCC cho các tổ chức và công dân. - Đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của các cơ quan HCNN cung ứng dịch vụ HCC. - Nâng cao năng lực và phát huy đạo đức của đội ngủ công chức trực tiếp cung ứng dịch vụ HCC. - Mở rộng ứng dụng CNTT trong cung ứng dịch vụ HCC. - Thực hiện hiệu quả xã hội hóa một số loại dịch vụ HCC: dịch vụ bổ trợ tư pháp (công chứng, giám định tư pháp, thi hành án); dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới. 2.2. Về dịch vụ sự nghiệp công: Để thực hiện hiệu quả việc XHH dịch vụ sự nghiệp công, chúng ta cần làm tốt các nhiệm vụ sau: - Phải tách bạch sự nghiệp với hành chính nhằm xác định rõ vai trò của Nhà nước và các đơn vị sự nghiệp. - Đổi mới chế độ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp nhằm thực hiện tốt hơn công bằng xã hội. Cơ cấu lại chi tiêu NSNN cho các lĩnh vực sự nghiệp theo hướng đảm bảo công bằng giữa các đối tượng thụ hưởng dịch vụ. Thay đổi tư duy, quan niệm về học phí, viện phí để có chính sách và cơ chế phù hợp theo hướng hỗ trợ trực tiếp cho người sử dụng dịch vụ (theo đầu ra) là chủ yếu. - Xây dựng cơ chế trợ giúp người nghèo tiếp cận dịch vụ sự nghệp công. Cần xác định những người cần được trợ giúp. Áp dụng phương thức trợ giúp thiết thực. Lựa chọn các giải pháp trợ giúp thích hợp. Trợ giúp thông qua chương trình mục tiêu quốc gia. - Xác định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị công lập cung ứng dịch vụ sự nghiệp công theo hướng không vì mục tiêu lợi nhuận. 2.3. Về dịch vụ công ích: Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, để việc XHH dịch vụ công ích (DVCI) đảm bảo nguyên tắc không vì lợi nhuận, cần quan tâm đến các giải pháp sau: - Nâng cao vai trò của Nhà nước trong quá trình xã hội hóa, chuyển giao DVCI cho khu vực tư nhân. - Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Nhà nước đối với DVCI. - Làm rõ và thực thi đầy đủ các chức năng quản lý của chính quyền các cấp trong quá trình XHH, chuyển giao DVCI cho khu vực tư nhân. 13 - Kiện toàn tổ chức và bộ máy quản lý, nâng cao tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các DNNN thực hiện các sản phẩm, DVCI theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh. - Cần đảm bảo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khi tổ chức đấu thầu đối với các DVCI thực hiện theo phương thức đấu thầu. - Tăng cường công tác kiểm tra và tổ chức tốt công tác hậu kiểm tra về mặt tài chính và chất lượng dịch vụ để nâng cao chất lượng hoạt động của các DNNN. KẾT LUẬN Xu hướng xã hội hóa dịch vụ công cộng tại các nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa phụ thuộc vào thể chế chính trị và kinh tế từng nước, nhưng nhìn chung diễn ra toàn diện tại các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi nói chung và Việt Nam nói riêng.Việc huy động các nguồn lực từ xã hội có ý nghĩa quan trọng trong quá trình thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta cần có sự nhìn nhận khách quan về thực tiễn và các xu hướng phát triển hệ thống DVCC để thể hiện đúng bản chất của một Nhà nước “Do dân và vì dân”. Qua quá trình học tập và nghiên cứu, tuy bản thân đã có nhiều cố gắng nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý của quý Thầy để em học hỏi thêm. Em xin chân thành cảm ơn Thầy nhé! 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan