ĐẠI
ĐẠI HỌC
HỌC QUỐC
QUỐC GIA
GIA HÀ
HÀ NỘI
NỘI
KHOA
KHOA LUẬT
LUẬT
TRẦN
TRẦNTHỊ
THỊNGA
NGA
ĐÁNH
ĐÁNH GIÁ
GIÁ CÔNG
CÔNG CHỨC
CHỨC HÀNH
HÀNH CHÍNH
CHÍNH NHÀ
NHÀ NƯỚC
NƯỚC
Ở
Ở VIỆT
VIỆT NAM
NAM TRONG
TRONG GIAI
GIAI ĐOẠN
ĐOẠN HIỆN
HIỆN NAY
NAY
LUẬN
LUẬN VĂN
VĂN THẠC
THẠC SỸ
SỸ LUẬT
LUẬT HỌC
HỌC
Hà Nội – 2008
Hà Nội – 2008
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ NGA
ĐÁNH GIÁ CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật
: 60.38.01
CHUYÊN NGÀNH:
MÃ SỐ
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS Phạm Hồng Thái
Hà Nội – 2008
2
Lời cảm ơn
Hoàn thành luận văn này, trƣớc hết tôi xin chân thành cảm ơn nhà
trƣờng, các cơ quan, tổ chức đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá
trình thu thập tài liệu, cũng nhƣ thực hiện đề tài. Đặc biệt, tôi xin chân thành
cảm ơn Giáo sƣ. Tiến sỹ Phạm Hồng Thái – Trƣởng khoa Nhà nƣớc và pháp
luật – Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia, ngƣời đã giúp đỡ tôi tận
tình trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Hà Nội, ngày 18 tháng 2 năm 2008
Tác giả luận văn
Trần Thị Nga
3
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi,
đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của GS.TS Phạm Hồng Thái.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực.
Hà Nội, ngày 18 tháng 2 năm 2008
Tác giả luận văn
Trần Thị Nga
4
NỘI DUNG
SỐ
TRANG
Lời nói đầu
1
CHƢƠNG 1: QUAN NIỆM VỀ CÔNG CHỨC HÀNH
CHÍNH NHÀ NƢỚC VÀ ĐÁNH GIÁ CÔNG CHỨC
HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC
8
1.1 CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC VÀ CÁC
YÊU CẦU ĐỐI VỚI CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH
NHÀ NƢỚC
8
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của công chức hành chính
nhà nƣớc
8
1.1.2 Yêu cầu đối với công chức hành chính nhà nƣớc
12
1.2 KINH NGHIỆM ĐÁNH GIÁ CÔNG CHỨC NHÀ
NƢỚC TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ
NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI
16
1.2.1 Kinh nghiệm đánh giá công chức nhà nƣớc trong
lịch sử phong kiến Việt Nam
16
1.2.2 Kinh nghiệm đánh giá công chức của một số nƣớc
trên thế giới
19
1.3 QUAN NIỆM VỀ ĐÁNH GIÁ CÔNG CHỨC HÀNH
CHÍNH NHÀ NƢỚC TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƢỚC
26
1.3.1 Khái niệm về đánh giá công chức hành chính nhà
nƣớc
26
1.3.2 Mục đích của đánh giá công chức hành chính nhà
nƣớc
29
1.3.3 Tiêu chí đánh giá công chức hành chính nhà nƣớc
31
1.3.4 Phƣơng pháp đánh giá công chức hành chính nhà
nƣớc
40
5
1.3.5 Quy trình đánh giá công chức hành chính nhà nƣớc
43
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
45
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐÁNH GIÁ CÔNG CHỨC
HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
47
2.1 THỰC TRẠNG SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ ĐÁNH GIÁ CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH
NHÀ NƢỚC
47
2.1.1 Về mục tiêu đánh giá công chức
49
2.1.2. Căn cứ để đánh giá công chức
50
2.1.3 Về nội dung đánh giá công chức
60
2.1.4. Về quy trình đánh giá công chức
61
2.2 VIỆC ĐÁNH GIÁ CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH NHÀ
NƢỚC CỦA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƢỚC Ở NƢỚC
TA HIỆN NAY
65
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
75
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐÁNH GIÁ CÔNG CHỨC
HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC
78
3.1 Sù cÇn thiÕt ph¶i n©ng cao chÊt l-îng
®¸nh gi¸ c«ng chøc hµnh chÝnh nhµ n-íc
78
3.2 GIẢI PHÁP CỤ THỂ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ĐÁNH GIÁ CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC
79
3.2.1. Hoàn thiện sự điều chỉnh của pháp luật
79
3.2.2 Hoàn thiện hệ thống chức danh và tiêu chuẩn nghiệp
vụ của công chức hành chính nhà nƣớc
91
3.3.3 Mở rộng dân chủ, công khai, minh bạch trong đánh
giá công chức hành chính nhà nƣớc
93
6
3.3.4. Đánh giá công chức hành chính nhà nƣớc thông qua
môi trƣờng mới
94
3.3.5 Xây dựng đội ngũ lãnh đạo quản lý, ®éi ngò lµm
c«ng t¸c tæ chøc c¸n bé cã t©m, cã tµi
95
3.3.6 Đối với các cơ quan sử dụng và quản lý công chức
hành chính nhà nƣớc
96
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
98
KẾT LUẬN
100
PHỤ LỤC 1
102
PHỤ LỤC 2
104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
107
7
Lêi nãi ®Çu
1.Tính cấp thiết của đề tài
Từ xƣa đến nay, vấn đề cán bộ luôn là một trong những vấn đề quan
trọng bậc nhất của một quốc gia. Ngay từ những năm đầu thành lập nƣớc,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có ý tƣởng xây dựng một nền hành chính hiện đại,
có hiệu lực, hiệu quả và một đội ngũ công chức tinh thông nghiệp vụ, cần
mẫn, là công bộc của dân, cần kiệm liêm chính, chí công vô tƣ. Sinh thời,
Ngƣời luôn đánh giá rất cao vai trò của cán bộ trong công việc cách mạng,
Ngƣời nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Huấn luyện cán bộ là
công việc gốc của Đảng”[50 ,tr 230], “Công việc thành công hoặc thất bại
đều do cán bộ tốt hay kém”[50, tr 195], “Vấn đề cán bộ là một vấn đề rất
trọng yếu, rất cần kíp”[50, tr 236]. Vì vậy, điều đầu tiên Đảng phải làm là
phải biết rõ cán bộ. Bác viết: “Kinh nghiệm cho ta biết: mỗi lần xem xét lại
nhân tài, một mặt thì tìm thấy những nhân tài mới, một mặt khác thì những
người hủ hoá cũng lòi ra.”[50, tr 236]
Ngày nay, để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nƣớc, dƣới tác động của xu hƣớng toàn cầu hoá và hội nhập, cùng với
những thành tựu phát triển vƣợt bậc của công nghệ thông tin, Đảng và Nhà
nƣớc ta đã và đang tập trung xây dựng một nền hành chính trong sạch, vững
mạnh có đủ phẩm chất và năng lực để quản lý, điều hành có hiệu lực, hiệu quả
mọi công việc của quốc gia. Trong ba bộ phận cấu thành của nền hành chính,
việc xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nƣớc giữ vai trò quyết định.
Bởi vì, suy cho cùng thì thể chế hành chính, tổ chức bộ máy hành chính và cơ
chế vận hành đều là sản phẩm của đội ngũ công chức hành chính nhà nƣớc.
Họ có vai trò quyết định sự thành bại của cách mạng và hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của bộ máy hành chính nhà nƣớc. Họ là những ngƣời trực tiếp tham
gia xây dựng đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách, pháp luật, cũng chính họ là
8
ngƣời tổ chức thực hiện, đánh giá tổng kết và điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung
đƣờng lối, chính sách pháp luật ấy.
Tuy nhiên, thực trạng đội ngũ công chức hành chính nhà nƣớc ở nƣớc ta
hiện nay bộc lộ không ít những yếu kém, bất cập nhƣ Đảng ta đã nhận định:
“đội ngũ cán bộ hiện nay xét về chất lượng, số lượng, cơ cấu nhiều mặt chưa
ngang tầm với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”[4], “Năng
lực và phẩm chất của nhiều cán bộ công chức còn yếu, một bộ phận không
nhỏ thoái hoá biến chất”[6, tr 175]. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán
bộ, công chức nói chung, công chức hành chính nhà nƣớc nói riêng chƣa
tƣơng xứng, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu công việc; tính chủ động, ý thức
trách nhiệm với công việc đƣợc giao còn thấp; khả năng quản lý, điều hành
còn nhiều hạn chế. Một bộ phận công chức thoái hoá, biến chất, tham ô, buôn
lậu, nhũng nhiễu phiền hà, thiếu công tâm, khách quan khi giải quyết công
việc; kỷ luật hành chính lỏng lẻo, thiếu trách nhiệm với công việc đƣợc giao,
bản lĩnh thiếu vững vàng. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này,
trong đó nguyên nhân cơ bản là việc đánh giá công chức chƣa đƣợc coi trọng
đúng mức. Đảng ta đã nhận định: “Đánh giá và quản lý cán bộ là khâu yếu
nhất nhưng chậm được khắc phục”[4] đến nay vẫn đúng. Điều đó đƣợc chứng
minh bởi một loạt các vấn đề nhƣ : Chúng ta chƣa thực sự có một văn bản
pháp luật thống nhất, cụ thể có hiệu lực, hiệu quả cao về đánh giá công chức
nói chung, đánh giá công chức hành chính nhà nƣớc nói riêng. Ngay trong
pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998, đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2000,
2003 cũng không có một điều khoản nào quy định về việc đánh giá cán bộ,
công chức. Nghị Định số 117/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của chính phủ về
việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ công chức trong các cơ quan nhà
nƣớc, có quy định riêng một mục về đánh giá công chức gồm 03 điều (từ điều
37 đến điều 39) nhƣng trên thực tế còn mang tính hình thức. Quy chế đánh giá
9
công chức hàng năm (Ban hành kèm theo Quyết định số 11/1998/QĐ-TCCPCCVC ngày 5/12/1998 của Bộ trƣởng, Trƣởng ban Tổ chức – Cán bộ Chính
phủ) gồm 3 chƣơng, 9 điều quy định chung về đánh giá công chức nhƣng còn
thiếu, sơ sài và có nhiều bất cập chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu đặt ra. Mặt khác,
chƣa có sự thống nhất về nhận thức đối với những điểm chủ yếu về tiêu chuẩn
đánh giá công chức. Phƣơng thức đánh giá còn mang tính hình thức, chung
chung, máy móc, thiếu căn cứ cụ thể, khách quan, khoa học. Điều này dẫn
đến kết quả đánh giá không có độ chính xác, trung thực cao, thậm chí có
trƣờng hợp cá nhân có thẩm quyền cố tình đánh giá sai nhằm vùi dập những
công chức trung thực, mẫn cán có tinh thần đấu tranh thẳng thắn làm lẫn lộn
trắng đen. Đó cũng là nguyên nhân chính dẫn đến việc bố trí, sử dụng công
chức hành chính nhà nƣớc không hợp lý, nhân tài không đƣợc trọng dụng để
những kẻ cơ hội lọt vào bộ máy hành chính làm mất lòng tin của nhân dân.
Điều đó xảy ra đang là rào cản lớn đến tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nƣớc, gây tác hại đến thành quả của công cuộc đổi mới, là một vấn đề
hết sức bức xúc cần sớm đƣợc giải quyết. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài
“Đánh giá công chức hành chính nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đánh giá, kiểm tra phẩm chất, năng lực của công chức hành chính nhà
nƣớc đƣơng nhiệm xem có còn đáp ứng đƣợc tiêu chuẩn của công vụ hay
không là hình thức mang tính khách quan. Vấn đề này tuy đã đƣợc đề cập từ
lâu nhƣng chƣa đầy đủ và trên thực tế chƣa đƣợc thực hiện một cách nghiêm
túc. Để nâng cao chất lƣợng của công tác này cần phải nghiên cứu làm rõ một
số vấn đề nhƣ: mục đích, nội dung, tiêu chuẩn đánh giá, phƣơng thức đánh
giá, quy trình đánh giá …
10
Đánh giá công chức hành chính nhà nƣớc là một trong những nội dung
quan trọng của công tác quản lý và sử dụng công chức nói chung, công chức
hành chính nhà nƣớc nói riêng. Vấn đề này cũng đã đƣợc quy định trong các
văn bản của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc có liên quan nhƣ: Tiêu chuẩn
cán bộ đã đƣợc quy định tại Văn Kiện Đại Hội Đảng VIII, Nghị quyết Hội
nghị Trung ƣơng lần thứ ba; Quy chế đánh giá cán bộ (Ban hành kèm theo
Quyết định số 50-QĐ/TW ngày 3/5/1999 của Bộ Chính trị); Tiêu chuẩn cán
bộ, công chức cơ quan Đảng, Đoàn thể chính trị – xã hội (Ban hành kèm theo
Quyết định số 450-QĐ/TCTW ngày 22/12/1998 của Ban Tổ chức Trung
ƣơng); Nghị Định số 117/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của chính phủ về
việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ công chức trong các cơ quan nhà
nƣớc; Quy chế đánh giá công chức hàng năm (Ban hành kèm theo Quyết định
số 11/1998/QĐ-TCCP-CCVC ngày 5/12/1998 của Bộ trƣởng, Trƣởng ban Tổ
chức – Cán bộ chính phủ); Quyết định số 414/TCCP – VC ngày 29/5/1993
của Bộ Trƣởng – Trƣởng ban Ban Tổ chức – Cán bộ Chính Phủ, về việc ban
hành tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức ngành hành chính; Quyết
định số 03/2007/QĐ-BNV ngày 26/2/2007 của Bộ trƣởng Bộ Nội vụ, về việc
ban hành quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong bộ
máy chính quyền địa phƣơng. Trong giới khoa học cũng có những công trình
nghiên cứu đề cập đến một vài khía cạnh nào đó về vấn đề đánh giá cán bộ,
công chức nói chung nhƣ “Hệ thống công vụ và xu hướng cải cách của một số
nước trên thế giới ” Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2004; “Quản lý
nguồn nhân lực trong khu vực nhà nước”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
Hà Nội 2002; “Công vụ, công chức nhà nước”, Nhà xuất bản Tƣ pháp, Hà
Nội 2004; “Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức quản lý nhà nước đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước”, Luận án Tiến sĩ kinh tế
của Nguyễn Bắc Son, Hà Nội 2005. Những bài viết nghiên cứu nhƣ: “Kinh
11
nghiệm đánh giá công chức của một số nước trên thế giới” đăng trên tạp chí
Quản lý nhà nƣớc số 12/2006; “Điều kiện bảo đảm đánh giá đúng cán bộ ”,
tạp chí Tổ chức nhà nƣớc số 10/2006; “Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh trong
công tác sử dụng và quản lý cán bộ”, tạp chí Quản lý nhà nƣớc số 5/2007;
“Quan điểm lý luận đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý của Chủ tịch Hồ Chí
Minh”, tạp chí Tổ chức nhà nƣớc số 6/2007 và rất nhiều bài viết khác. Các
công trình nghiên cứu này trong một chừng mực đã đề cập đến vấn đề đánh
giá cán bộ, công chức nói chung nhƣng cũng chỉ dừng lại ở một số khía cạnh
nhất định mà chƣa có một công trình chuyên khảo nào về vấn đề đánh giá
công chức hành chính nhà nƣớc trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nƣớc. Vì vậy, đây là đề tài đầu tiên đi sâu vào nghiên cứu vấn
đề đánh giá công chức hành chính nhà nƣớc ở nƣớc ta trong giai đoạn hiện
nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ các vấn đề có tính lý luận về quan
điểm, mục đích, tiêu chí, phƣơng pháp đánh giá công chức hành chính nhà
nƣớc trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc. Phân
tích thực trạng pháp luật cũng nhƣ thực trạng đánh giá công chức hành chính
nhà nƣớc trong các cơ quan hành chính nhà nƣớc nhằm đƣa ra những giải
pháp cụ thể, nâng cao hiệu quả đánh giá công chức hành chính nhà nƣớc, góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nƣớc nói chung, bộ máy
hành chính nhà nƣớc nói riêng.
Để đạt đƣợc mục đích nêu trên, luận văn phải giải quyết đƣợc những
nhiệm vụ cụ thể sau đây:
Nghiên cứu hệ thống lý luận về công chức hành chính nhà nƣớc, yêu cầu
đối với công chức hành chính nhà nƣớc trong giai đoạn đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc. Nghiên cứu kinh nghiệm đánh giá công
12
chức hành chính nhà nƣớc ở Việt Nam thời kỳ phong kiến, kinh nghiệm đánh
giá công chức của một số nƣớc trên thế giới để xây dựng nên các tiêu chí,
mục tiêu và phƣơng pháp đánh giá công chức hành chính nhà nƣớc trong giai
đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc.
Phân tích thực trạng những qui định pháp luật về đánh giá cán bộ, công
chức và thực trạng đánh giá trong các cơ quan hành chính nhà nƣớc để tìm ra
nguyên nhân của thực trạng và kết luận về tình hình thực hiện công tác đánh
giá công chức hành chính nhà nƣớc ở nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay.
Kiến nghị những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả đánh giá công
chức hành chính nhà nƣớc trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nƣớc.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đánh giá công chức hánh chính nhà nƣớc có thể ở rất nhiều khía cạnh
khác nhau nhƣ đánh giá trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đánh giá năng lực
thực thi công vụ, đánh giá về văn hoá pháp lý… Cũng có thể đánh giá công
chức hành chính nhà nƣớc ở rất nhiều các ngành, các lĩnh vực khác nhau nhƣ:
ngành tài chính ngân hàng, thuế, tài nguyên môi trƣờng, đất đai, thuỷ sản,
kiểm lâm… mỗi ngành, mỗi lĩnh vực lại đòi hỏi những tiêu chí khác nhau để
đánh giá. Tuy nhiên, trong phạm vi của đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu những
tiêu chí, mục đích, phƣơng pháp chung đảm bảo đánh giá đúng phẩm chất và
năng lực của công chức hành chính nhà nƣớc trong giai đoạn công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nƣớc. Xem xét thực trạng của việc đánh giá công chức
hành chính nhà nƣớc, đƣa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về đánh giá
công chức hành chính nhà nƣớc và các biện pháp nâng cao hiệu quả của việc
đánh giá công chức hành chính nhà nƣớc. Từ đó, tạo ra cơ sở pháp lý chung
cho các cơ quan hành chính nhà nƣớc căn cứ vào để cụ thể hoá thành những
tiêu chuẩn đánh giá công chức riêng cho cơ quan, ngành, lĩnh vực của mình.
13
Những số liệu đánh giá có tính chất minh họa là số liệu tác giả lấy tại một số
cơ quan hành chính nhà nƣớc ở tỉnh Ninh Bình.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài, luận văn sử dụng phƣơng pháp duy vật biện chứng,
phƣơng pháp duy vật lịch sử và một số phƣơng pháp nghiên cứu khoa học
khác nhau nhƣ: phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp tổng hợp, phƣơng pháp
bình luận, so sánh, phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp lịch sử … Các
phƣơng pháp nghiên cứu trong luận văn đƣợc thực hiện trên nền tảng tƣ
tƣởng của chủ nghĩa Mác- Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và trên cơ sở đƣờng
lối, quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về chính trị, kinh tế, văn hoá và
xã hội.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn và điểm mới của luận văn
Luận văn tập trung giải quyết những vấn đề sau đây:
Thứ nhất, làm rõ khái niệm, đặc điểm cơ bản của công chức hành chính
nhà nƣớc; khái niệm đánh giá công chức hành chính nhà nƣớc.
Thứ hai, đƣa ra tiêu chí đánh giá, phƣơng pháp, quy trình đánh giá trên
cơ sở mục đích đánh giá công chức hành chính nhà nƣớc.
Thứ ba, kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về đánh giá công
chức hành chính nhà nƣớc và các giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác
đánh giá công chức hành chính nhà nƣớc.
Những giải pháp đƣa ra trong luận văn là cơ sở để các cơ quan nhà nƣớc
nghiên cứu, tham khảo, hoàn thiện các quy định pháp luật về đánh giá công
chức hành chính nhà nƣớc và xây dựng các biện pháp hữu hiệu nhằm nâng
cao hiệu quả của công tác đánh giá cán bộ, công chức nói chung và công chức
hành chính nhà nƣớc nói riêng.
7. Cơ cấu luận văn
14
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm
03 chƣơng với kết cấu nhƣ sau:
Chƣơng 1: Quan niệm về công chức hành chính nhà nƣớc và đánh giá
công chức hành chính nhà nƣớc.
Chƣơng 2: Thực trạng đánh giá công chức hành chính nhà nƣớc ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
Chƣơng 3: Một số giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả đánh giá
công chức hành chính nhà nƣớc.
CHƢƠNG 1
QUAN NIỆM VỀ CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC
VÀ ĐÁNH GIÁ CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC
1.1 CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC VÀ CÁC YÊU CẦU
ĐỐI VỚI CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của công chức hành chính nhà nƣớc
Thuật ngữ “công chức” đƣợc sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế
giới, nó có tính lịch sử và đƣợc hình thành trong những điều kiện nhất định.
Nội dung của nó phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế – xã hội của từng giai đoạn
lịch sử cụ thể ở mỗi quốc gia. Do các quốc gia có những đặc thù riêng về hệ
thống thể chế chính trị, hệ thống thể chế hành chính, tính truyền thống, sự
phát triển kinh tế – xã hội cũng nhƣ các yếu tố văn hoá nên các quy định về
công chức ở mỗi quốc gia là không giống nhau. Tuy nhiên, về cơ bản thuật
ngữ “công chức” đều đƣợc dùng để chỉ những ngƣời giữ công vụ thƣờng
xuyên trong các cơ quan, tổ chức nhà nƣớc.
Ở Việt Nam, qua các thời kỳ lịch sử, quan niệm ai là công chức cũng đã
nhiều lần thay đổi. Hiện nay, tại Điều 1, Pháp lệnh cán bộ, công chức năm
1998 đã đƣợc sửa đổi bổ sung năm 2000 và 2003 có quy định chung về cán
15
bộ, công chức nhƣ sau: cán bộ, công chức là công dân Việt Nam, trong biên
chế, bao gồm tất cả những ngƣời làm việc trong các cơ quan nhà nƣớc hoặc
các tổ chức chính trị, chính trị xã hội. Theo Nghị định số 117/2003/NĐ-CP
ngày 10/10/2003 cuả Chính phủ về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán
bộ, công chức trong các cơ quan nhà nƣớc, tại Điều 2 quy định: “công chức
nói tại nghị định này là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước được quy định tại điểm b, điểm c, điểm e khoản 1, điều 1
của Pháp lệnh cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan nhà nước, lực
lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội sau đây:
1. Văn phòng Quốc hội;
2. Văn phòng Chủ tịch nước;
3. Các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh, cấp
huyện;
4. Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp;
5. Cơ quan đại diện nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước
ngoài;
6. Đơn vị thuộc quân đội nhân dân và công an nhân dân;
7. Bộ máy giúp việc thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội ở
cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện.”
Nhƣ vậy, công chức theo quy định của pháp luật có phạm vi, đối tƣợng
rất rộng bao gồm cả công chức trong cơ quan nhà nƣớc, trong cơ quan, đơn vị
quân đội, cơ quan, đơn vị Công an nhân dân, trong bộ máy giúp việc của tổ
chức chính trị, chính trị- xã hội. Cách quy định của pháp luật nhƣ vậy là chƣa
hợp lý vì hoạt động của công chức luôn gắn với quyền lực nhà nƣớc và pháp
luật, còn hoạt động của những ngƣời trong bộ máy giúp việc của tổ chức
chính trị, chính trị- xã hội về nguyên tắc chung đều phải chấp hành pháp luật
của nhà nƣớc, nhƣng hoạt động của họ lại chủ yếu dựa vào điều lệ, thể chế
16
của các tổ chức đó, tuy rằng trong hoạt động của mình các tổ chức đó cũng
đều phải tuân thủ pháp luật.
Trong đội ngũ công chức nhà nƣớc có nhiều loại khác nhau, có thể có
nhiều tiêu chí phân loại khác nhau: theo trình độ chuyên môn nghiệp vụ (sơ
cấp, trung cấp, cao đẳng đại học, trên đại học); theo dấu hiệu quyền lực có
công chức chỉ huy, điều hành, công chức chuyên môn; theo ngành có công
chức ngành hành chính, công chức ngành tài chính, công chức ngành kiểm
lâm, công chức ngành thanh tra…). Công chức ở các ngành khác nhau đƣợc
xếp vào ngạch công chức khác nhau.
Để xác định công chức hành chính nhà nƣớc chúng tôi dựa theo tiêu chí
phân loại công chức theo ngành. Công chức hành chính nhà nƣớc là những
công chức đƣợc xếp vào ngạch hành chính nhƣ: chuyên viên cao cấp, chuyên
viên chính, chuyên viên, cán sự, kỹ thuật viên đánh máy, nhân viên đánh máy,
nhân viên kỹ thuật, nhân viên văn thƣ, nhân viên phục vụ, lái xe cơ quan,
nhân viên bảo vệ [15, Điều 1]. Theo Điểm 1, Mục B, Phần I của Thông tƣ số
444/TCCP-VC ngày 5/6/1993 của Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ, hƣớng
dẫn áp dụng tiêu chuẩn các ngạch công chức hành chính, có quy định phạm vi
sử dụng các ngạch hành chính và quy định các trƣờng hợp áp dụng đó là:
Thứ nhất, các ngạch đƣợc sử dụng trong các cơ quan hành chính thuộc
hệ thống quản lí nhà nƣớc từ trung ƣơng, cấp tỉnh, cấp huyện, cụ thể: các cơ
quan Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; cơ quan Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng; cơ quan Uỷ ban nhân dân
huyện,quận, thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh; các cơ quan Tổng cục, Cục
hoặc Sở (ở các bộ phận làm chức năng quản lí hành chính nhà nƣớc).
Thứ hai, trong các cơ quan lập pháp, dân cử hoặc tƣ pháp ở những bộ
phận công chức làm công tác hành chính theo chế độ tuyển dụng, bổ nhiệm
nhƣ: Các công chức hành chính văn phòng Chủ tịch nƣớc; văn phòng Quốc
17
hội; văn phòng Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng;
thành phố, quận, huyện, thị xã thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng; cơ
quan toà án, kiểm sát, thanh tra các cấp.
Thứ ba, các công chức hành chính hoặc quản lí các lĩnh vực tổng hợp
thuộc các tổ chức sự nghiệp công nhƣ các công việc hành chính, tổ chức cán
bộ, lao động tiền lƣơng, kế hoạch hoặc các nhân viên thừa hành phục vụ …
trong các trƣờng học, bệnh viện, viện nghiên cứu khoa học.
Từ những quy định và các lập luận ở trên, chúng ta có thể rút ra khái
niệm: “công chức hành chính nhà nước là công dân Việt Nam, trong biên chế
và hưởng lương từ ngân sách nhà nước được bổ nhiệm vào một ngạch công
chức hành chính (chuyên viên cao cấp, chuyên viên chính, chuyên viên, cán
sự, kỹ thuật viên đánh máy, nhân viên đánh máy, nhân viên kỹ thuật, nhân
viên văn thư, nhân viên phục vụ, lái xe cơ quan, nhân viên bảo vệ) giao giữ
một công vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở trung ương, cấp
tỉnh, cấp huyện, thực hiện quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội, thực thi quyền hành pháp, sử dụng quyền lực nhà nước để thực thi công
vụ đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.”
Từ đó rút ra những đặc điểm của công chức hành chính nhà nƣớc nhƣ
sau:
Một là, công chức hành chính nhà nƣớc là những ngƣời đƣợc tuyển dụng
và bổ nhiệm vào làm việc thƣờng xuyên, tƣơng đối ổn định trong bộ máy nhà
nƣớc, bao gồm cả những ngƣời làm công tác quản lý, điều hành, làm việc
chuyên môn về hành chính và những nhân viên phục vụ trong cơ quan nhà
nƣớc.
Hai là, những ngƣời đƣợc xếp vào một ngạch bậc nhất định phù hợp với
khả năng, trình độ của từng ngƣời. Hệ thống ngạch bậc đƣợc phân ra theo các
chức danh công chức do Nhà nƣớc quy định. Các công chức hành chính nhà
18
nƣớc phải là những ngƣời đƣợc ghi trong danh sách biên chế của một cơ quan
nhà nƣớc nhất định và đƣợc quản lý theo quy chế nhà nƣớc.
Ba là, những ngƣời đƣợc trả lƣơng và phụ cấp bảo đảm những quyền lợi
vật chất và tinh thần để làm tròn bổn phận phục vụ Nhà nƣớc, phục vụ nhân
dân. Nguồn kinh phí để trả lƣơng cho công chức hành chính nhà nƣớc hoàn
toàn do ngân sách nhà nƣớc cấp.
Bốn là, sự thuyên chuyển, chuyển ngạch, đề bạt, nghỉ việc, thôi việc, hƣu
trí đối với công chức do Nhà nƣớc quy định theo một quy chế riêng. Cơ quan
nhà nƣớc loại nào, đƣợc phép xử lý đối với công chức hành chính nhà nƣớc
loại đó, tạo mọi điều kiện cho họ có sự đảm bảo và ổn định để thực hiện các
công vụ Nhà nƣớc giao phó.
Năm là, những ngƣời làm công việc có tính chất nghề nghiệp, công chức
hành chính nhà nƣớc phải đƣợc đào tạo, bồi dƣỡng về chuyên môn và theo
trình độ chuyên môn đó mà sắp xếp, thi tuyển vào các ngạch tƣơng ứng.
Nhƣ vậy, công chức hành chính nhà nƣớc là một đội ngũ riêng, đƣợc đào
tạo, bổ nhiệm theo một hệ thống riêng và mang tính ổn định. Bởi vì, họ thực
hiện chức năng hành chính nhà nƣớc, nhiệm vụ mà họ thực thi là những chủ
trƣơng, chính sách pháp luật của Nhà nƣớc và cơ sở đảm bảo cho sự hoạt
động đó là pháp luật.
1.1.2 Yêu cầu đối với công chức hành chính nhà nƣớc
Quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc là: “xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất
phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”. Điều đó có
nghĩa là việc nhận xét, đánh giá cán bộ cũng phải xuất phát và gắn liền với
yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
19
công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng chính là môi trƣờng tốt để rèn luyện, đào
tạo, sàng lọc cán bộ.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bẩy, Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khoá
VII đã xác định mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là “quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và
quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng
một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương
pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ
khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”[2]. Đến Đại hội
VIII Đảng ta xác định rõ hơn mục tiêu và hệ quan điểm về công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là “xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật
chất – kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh
thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh. Từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp.”[3,tr 80]
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi con ngƣời phát triển về trí lực, về
khả năng thích ứng linh hoạt bằng tiềm lực trí tuệ, phƣơng pháp và phong
cách sáng tạo; đòi hỏi phát triển về đạo đức và nhân cách nói chung. Đó là
đạo đức trung thực và sáng tạo, đạo đức trong hành động, trong lao động tự
giác, khẩn trƣơng, tích cực, có ý thức về nghĩa vụ, bổn phận trách nhiệm; có
lý tƣởng nghề nghiệp thể hiện ở thái độ lao động, niềm tin, tình cảm và lối
sống, đáp ứng chuẩn mực, giá trị của đạo đức xã hội. Đó là sự thống nhất giữa
lời nói và việc làm, giữa nhận thức và hành động, giữa động cơ và hiệu quả.
Công chức hành chính nhà nƣớc là một bộ phận của công chức, là đối
tƣợng ngƣời “đặc biệt” trong xã hội, là lực lƣợng quyết định việc hoàn thành
chức năng, nhiệm vụ của bộ máy hành chính nhà nƣớc, đảm bảo hiệu lực của
20
- Xem thêm -