Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật đánh giá chứng cứ trọng luật tố tụng hình sự việt nam ...

Tài liệu đánh giá chứng cứ trọng luật tố tụng hình sự việt nam

.PDF
92
11
118

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT QUÁCH TRỌNG SƠN §¸NH GI¸ CHøNG Cø TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT QUÁCH TRỌNG SƠN §¸NH GI¸ CHøNG Cø TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. ĐỖ THỊ PHƢỢNG HÀ NỘI - 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chƣa từng đƣợc công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào. TÁC GIẢ LUẬN VĂN QUÁCH TRỌNG SƠN MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ ........................... 6 1.1. Khái niệm và cơ sở của đánh giá chứng cứ ...................................... 6 1.1.1. Khái niệm chứng cứ và đánh giá chứng cứ .......................................... 6 1.1.2. Cơ sở của việc đánh giá chứng cứ ...................................................... 10 1.2. Các nguyên tắc, chủ thể và phƣơng pháp đánh giá chứng cứ ..... 13 1.2.1. Các nguyên tắc đánh giá chứng cứ ..................................................... 13 1.2.2. Chủ thể đánh giá chứng cứ ................................................................. 14 1.2.3. Phƣơng pháp đánh giá chứng cứ ........................................................ 17 1.3. Qui định về đánh giá chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự một số nƣớc trên thế giới ............................................................ 19 1.3.1. Qui định về đánh giá chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Nga .................................................................................... 19 1.3.2. Qui định về đánh giá chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự một số nƣớc Châu Á khác .................................................................. 23 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 29 Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ............................................................................... 30 2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về đánh giá chứng cứ............................................................................. 30 2.1.1. Đánh giá chứng cứ từ lời khai của ngƣời tham gia tố tụng ................ 30 2.1.2. Đánh giá chứng cứ từ kết luận giám định .......................................... 34 2.1.3. Đánh giá chứng cứ là vật chứng ......................................................... 38 2.1.4. Đánh giá chứng cứ là các loại biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác ............................................................ 41 2.2. Thực tiễn áp dụng các qui định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về đánh giá chứng cứ .................................... 43 2.2.1. Đánh giá chứng cứ trong giai đoạn khởi tố và điều tra ...................... 43 2.2.2. Đánh giá chứng cứ trong giai đoạn truy tố ......................................... 51 2.2.3. Đánh giá chứng cứ trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm ......... 55 2.2.4. Nguyên nhân của những vƣớng mắc trong hoạt động đánh giá chứng cứ ............................................................................................. 60 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 66 Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ ................. 67 3.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và các văn bản pháp luật khác có liên quan về đánh giá chứng cứ ................ 67 3.1.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ................................. 67 3.1.2. Hoàn thiện văn bản pháp luật khác liên quan ..................................... 70 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đánh giá chứng cứ ........ 71 3.2.1. Cơ chế quản lý, đào tạo cán bộ ........................................................... 71 3.2.2. Đảm bảo cơ sở vật chất ...................................................................... 73 3.2.3. Tăng cƣờng sự phối hợp giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong đánh giá chứng cứ ......................................................... 73 3.2.4. Tăng cƣờng vai trò tham gia và nâng cao chất lƣợng của ngƣời bào chữa trong quá trình giải quyết vụ án hình sự ............................. 76 KẾT LUẬN .................................................................................................... 80 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 82 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa CNXH: Chủ nghĩa xã hội CQĐT: Cơ quan điều tra TAND: Tòa án nhân dân TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao VKS: Viện kiểm sát VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao XHCN: Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong tố tụng hình sự, chứng cứ đóng một vai trò quan trọng vừa mang tính lý luận phức tạp, vừa mang tính thực tiễn cao. Chứng cứ là căn cứ để Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát (VKS) và Tòa án xác định sự thật khách quan của vụ án. Quá trình giải quyết vụ án hình sự phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Tuy nhiên ở giai đoạn nào các chủ thể cũng phải sử dụng những phƣơng tiện để làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án. Đó là những tình tiết về thời gian, địa điểm thực hiện tội phạm; có hành vi phạm tội xảy ra hay không; có lỗi hay không có lỗi; do cố ý hay vô ý… Để đáp ứng đƣợc vấn đề này, cơ quan tiến hành tố tụng phải đánh giá chứng cứ. Đây là một hoạt động rất quan trọng trong quá trình chứng minh, nó có ý nghĩa nhất định trong việc tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Hiện nay ở Việt Nam, tình trạng tội phạm ngày càng tinh vi, phức tạp. Để đánh giá chính xác những thông tin có từ vật chứng, lời khai, kết luận giám định… không phải là việc dễ dàng. Chủ thể tố tụng cần chủ động, linh hoạt, vận dụng những biện pháp phù hợp để có đƣợc những thông tin chính xác phục vụ cho quá trình giải quyết vụ án. Trong những năm qua, ngoài những kết quả đạt đƣợc thì hoạt động đánh giá chứng cứ các vụ án hình sự vẫn còn nhiều hạn chế. Nhiều vụ án bị bế tắc ngay từ khâu thẩm vấn do áp dụng không đúng các biện pháp kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Nhiều trƣờng hợp đánh giá chứng cứ không đúng những thông tin có trong các tài liệu thu thập đƣợc dẫn đến làm oan ngƣời vô tội, bỏ lọt tội phạm. Bên cạnh đó tình trạng vi phạm pháp luật tố tụng hình sự trong quá trình đánh giá chứng cứ vẫn diễn ra khá phổ biến, để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những qui định của pháp luật tố tụng hình sự về đánh giá chứng cứ để từ đó nâng cao hiệu quả của hoạt động này là việc làm hết sức cần thiết. 1 Do đó, tác giả đã chọn đề tài: “Đánh giá chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ luật học với mong muốn đóng góp một phần nhỏ trong việc nâng cao hiệu quả của hoạt động đánh giá chứng cứ, qua đó nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng, hiệu quả cho công tác đấu tranh và phòng chống tội phạm. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự là một trong những vấn đề trọng tâm của tố tụng hình sự nên đƣợc nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu. trong các sách báo pháp lý cũng có nhiều công trình đề cập đến dƣới góc độ sách chuyên khảo, tham khảo có thể kể đến các công trình sau: 1) “Chế định chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam” (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tái bản năm 2009) của TS. Trần Quang Tiệp; 2) “Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự” (Nxb Tƣ pháp, Hà Nội, 2006) của TS. Đỗ Văn Đƣơng; 3) “Chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự VIệt Nam” (Nxb Tƣ pháp, Hà Nội, 2005) của ThS. Nguyễn Văn Cừ; v.v… Những công trình này bƣớc đầu đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chứng cứ, nguồn chứng cứ và quá trình chứng minh trong vụ án hình sự. Dƣới góc độ bài viết đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý có những công trình nhƣ: 1) “Đối tượng chứng minh và nghĩa vụ chứng minh trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” (Tạp chí Kiểm sát, số 6/2004); 2) “Một số vấn đề lý luận về phương pháp thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong vụ án hình sự” (Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật, số 5/2007); và 3) “Về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự” (Tạp chí Kiểm sát, số 9, 10/2008) của TS. Trần Quang Tiệp; 4) “Khái niệm chứng cứ trong luật tố tụng hình sự: Nhìn từ góc độ lịch sử và luật so sánh” (Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật, số 11/2005) của TS. Nguyễn Văn Du; 5) “Chứng minh và chứng cứ trong hoạt động điều tra hình sự” (Tạp chí Trật tự an toàn xã hội, số 3/1999) của PGS. TS Phạm Tuấn Bình; 6) “Giới hạn chứng minh trong tố tụng hình sự”(Tạp chí Luật học, 2 số 4/1997); 7) “Đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự” (Tạp chí Luật học, số 6/2000) của TS. Bùi Kiên Điện; 8) “Về chứng cứ và nguồn chứng cứ quy định tại Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” (Tạp chí Nghề luật, số 2/2006) của TS. Trịnh Tiến Việt; 9) “Một số ý kiến về chứng cứ trong vụ án hình sự” (Tạp chí Kiểm sát, số 9/2008) của tác giả Nguyễn Văn Bốn; 10) “Hoàn thiện chế định về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự” (Tạp chí Kiểm sát số 9, 10/2008) của TS. Mai Thế Bày; v.v… Các công trình này ít nhiều đã đề cập đến các góc độ khác nhau về lý luận của chế định chứng cứ, nhấn mạnh đến khái niệm chứng cứ, nguồn chứng cứ, vai trò của chứng cứ trong quá trình chứng minh, cũng nhƣ phƣơng pháp thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong vụ án hình sự và việc hoàn thiện chế định chứng cứ trong BLTTHS. Ngoài ra, công trình “Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay” là luận án tiến sĩ luật học của tác giả Đỗ Văn Đƣơng (Học viện cảnh sát nhân dân, Hà Nội, 2000) đi sâu vào vấn đề nghiệp vụ là thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay. Tƣơng tự, vấn đề chứng cứ còn đƣợc phân tích và đề cập trong một số giáo trình, sách tham khảo, bình luận nhƣ: 1) “Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam” (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001) của tập thể tác giả do PGS. TS Nguyễn Ngọc Chí chủ biên; 2) “Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam” (Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2002) của tập thể tác giả do GS. TS Võ Khánh Vinh chủ biên; 3) “Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam” (Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2009) của tập thể tác giả do PGS. TS Hoàng Thị Minh Sơn chủ biên; 4) “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004) của tập thể tác giả; 5) “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự” (Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2004) của tập thể tác giả do PGS. TS Võ Khánh Vinh chủ biên; 6) “Những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự ở Việt 3 Nam” của tập thể tác giả do PGS. TS Trần Minh Hƣởng và TS. Trịnh Tiến Việt đồng chủ biên (Nxb Lao động, Hà Nội, 2011), v.v… Nhƣ vậy, các công trình nói trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau về chứng cứ hoặc quá trình chứng minh trong vụ án hình sự, nhƣng chƣa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện, đồng bộ và có hệ thống về đánh giá chứng cứ cùng một lúc dƣới góc độ lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài Mục đích nghiên cứu đề tài: Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về đánh giá chứng cứ và thực tiễn áp dụng các qui định của luật tố tụng hình sự Việt Nam về đánh giá chứng cứ, luận văn sẽ đƣa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động đánh giá chứng cứ. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài: Nghiên cứu những vấn đề lý luận về đánh giá chứng cứ theo luật tố tụng hình sự Việt Nam; Nghiên cứu đánh giá thực tiễn áp dụng các qui định của luật tố tụng hình sự về hoạt động đánh giá chứng cứ của các cơ quan tiến hành tố tụng; Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của hoạt động đánh giá chứng cứ. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các qui định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về đánh giá chứng cứ. Đồng thời đề tài cũng nghiên cứu thực tiễn áp dụng qui định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về đánh giá chứng cứ trong vòng 10 năm trở lại đây. 4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài đƣợc nghiên cứu trên cơ sở phƣơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Mác xít, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể sau sẽ đƣợc dùng để nghiên cứu đề tài luận văn nhƣ: Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tế… 5. Những điểm mới đóng góp của luận văn - Luận văn đã làm rõ một số vấn đề lý luận về đánh giá chứng cứ nhƣ 4 khái niệm, cơ sở lý luận, đặc điểm của hoạt động đánh giá chứng cứ. Đồng thời luận văn cũng phân tích và làm sáng tỏ hoạt động đánh giá chứng cứ trong một số nƣớc trên thế giới. - Luận văn đã làm rõ đƣợc thực tiễn áp dụng các qui định của BLTTHS về đánh giá chứng cứ tại một số địa phƣơng trên cả nƣớc những năm gần đây. - Luận văn đã đƣa ra đƣợc một số đề xuất nhằm hoàn thiện luật tố tụng hình sự Việt Nam về đánh giá chứng cứ và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thực tiễn giải quyết vụ án. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về đánh giá chứng cứ theo luật tố tụng hình sự, góp phần xây dựng, hoàn thiện các tri thức của khoa học luật tố tụng hình sự. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên, cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tƣ pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các CQĐT, VKS, Tòa án tại các địa phƣơng trên cả nƣớc. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc kết cấu gồm 3 chƣơng: Chương 1: Những vấn đề lý luận về đánh giá chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự. Chương 2: Qui định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về đánh giá chứng cứ và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả của hoạt động đánh giá chứng cứ. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm và cơ sở của đánh giá chứng cứ 1.1.1. Khái niệm chứng cứ và đánh giá chứng cứ Khoản 1 Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 qui định: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà CQĐT, VKS và Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án” [22]. Chứng cứ tồn tại khách quan, độc lập với ý thức chủ quan của con ngƣời. Con ngƣời sử dụng chứng cứ nhằm mục đích chứng minh sự thật của vụ án. Các thông tin, đồ vật, tài liệu đƣợc đƣa ra chứng minh phải phù hợp với các tình tiết của vụ án đó. Nếu chứng cứ không có thật hoặc đã bị làm giả theo ý chí chủ quan của con ngƣời thì mất đi tính khách quan và không đƣợc coi là chứng cứ. Trong trƣờng hợp những thông tin, đồ vật bị xuyên tạc, bóp méo hoặc làm giả mà vẫn sử dụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì sẽ dẫn tới oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Vì thế, cơ quan tiến hành tố tụng khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình cần phải nhận thức đúng các tình tiết, sự kiện của vụ án trong thực tế, tôn trọng sự thật khách quan, tránh thái độ chủ quan, phiến diện, định kiến, thiếu trung thực. Tính khách quan của chứng cứ chỉ đƣợc khẳng định khi chứng cứ đó có liên quan đến vụ án, nếu chứng cứ đó không liên quan đến vụ án thì dù có khách quan nhƣng sẽ không chứng minh đƣợc gì cho vụ án. Tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ những tình tiết, đồ vật, tài liệu đã thu thập phải 6 có mối quan hệ với những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng có thể thu thập đƣợc nhiều tình tiết, sự kiện khác nhau nhƣng chỉ những tình tiết, sự kiện mà bản thân nó chứa đựng những thông tin liên quan đến vụ án mới đƣợc công nhận là chứng cứ. Chẳng hạn, tại hiện trƣờng của một vụ án giết ngƣời, CQĐT thu đƣợc 3 con dao, nhƣng chỉ 1 con dao có dấu vân tay hoặc dấu vết của việc hung thủ đâm nạn nhân mà phù hợp với vết thƣơng trên ngƣời nạn nhân mới đƣợc coi là chứng cứ. Tính liên quan của chứng cứ cho phép có thể sử dụng những đồ vật, tài liệu là chứng cứ nếu có liên quan đến những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự bao gồm: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là ngƣời thực hiện hành vi phạm tội; Có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý, có năng lực trách nhiệm hình sự hay không, mục đích, động cơ phạm tội; Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; Tính chất và mức độ thiệt hại của hành vi phạm tội gây ra; Các tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Các tài liệu, đồ vật liên quan trong vụ án trên chỉ có giá trị chứng minh khi chúng đƣợc cơ quan có thẩm quyền thu thập, kiểm tra, đánh giá theo quy định của BLTTHS. Đây là tính hợp pháp của chứng cứ. Tính hợp pháp của chứng cứ đòi hỏi tình tiết, sự kiện, đồ vật, tài liệu do cơ quan tiến hành tố tụng thu thập, kiểm tra trong quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng phải theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật hình sự quy định mới đƣợc coi là chứng cứ. Những việc làm tùy tiện trong quá trình thu thập chứng cứ đều bị coi là bất hợp pháp, vi phạm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, vi phạm luật tố tụng hình sự. Ví dụ: trong quá trình khám nghiệm hiện trƣờng, CQĐT đã không thu giữ mẩu thuốc lá vƣơng vãi tại hiện trƣờng, thu giữ con dao thì không lập biên bản và không mô tả rõ 7 kích thƣớc, đặc điểm của con dao… Vậy vấn đề đặt ra là trong giai đoạn tiền tố tụng những tài liệu do trinh sát thu thập đƣợc có đƣợc coi là chứng cứ không? Những tài liệu này không đƣợc coi là chứng cứ, chúng chỉ đƣợc coi là chứng cứ khi đã đƣợc chuyển hóa thành chứng cứ tố tụng. Ví dụ: CQĐT bí mật ghi âm cuộc nói chuyện của ngƣời nghi thực hiện tội phạm giết ngƣời với vợ anh ta. Nội dung cuộn băng ghi âm chỉ rõ hành vi giết ngƣời, chỗ vứt con dao gây án… Theo nội dung của băng ghi âm này, CQĐT tìm đƣợc phƣơng tiện gây án và đấu tranh với bị can. Vì không thể giấu đƣợc nữa, bị can đã thừa nhận hành vi giết ngƣời, thừa nhận chỗ vứt con dao. CQĐT cho bị can chỉ địa điểm và thu giữ đƣợc con dao gây án. Lời khai của bị can và con dao gây án sẽ đƣợc coi là vật chứng trong vụ án. Nhƣ vậy chỉ coi là chứng cứ những tình tiết, sự kiện, đồ vật khi chúng đảm bảo 3 thuộc tính: tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp. Nếu thiếu một trong 3 thuộc tính trên thì không thể coi là chứng cứ và đồ vật, tài liệu đã thu thập đƣợc không có giá trị chứng minh. Đánh giá chứng cứ là giai đoạn cuối cùng của quá trình chứng minh nhằm rút ra kết luận về vụ án trên cơ sở những thông tin, đồ vật, tài liệu thu thập đƣợc trong quá trình tố tụng, là hoạt động của chủ thể nhằm phân tích giá trị chứng minh làm rõ bản chất của chứng cứ, xem chứng cứ đó thuộc loại chứng cứ gì và có giá trị chứng minh những vấn đề nào trong vụ án. Đánh giá chứng cứ là quá trình xác định giá trị chứng minh của chứng cứ. Từ việc đánh giá chứng cứ mà cơ quan tiến hành tố tụng xác định đƣợc những đồ vật, tài liệu nào trong vụ án có giá trị chứng minh, những tài liệu nào không có giá trị chứng minh. Đây là hoạt động nhận thức của chủ thể đánh giá chứng cứ để tìm ra giá trị chứng minh của chứng cứ. Điều 66 BLTTHS năm 2003 quy định về đánh giá chứng cứ: “Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm xác định và đánh giá mọi chứng cứ với đầy đủ tinh thần trách nhiệm, sau khi 8 nghiên cứu một cách tổng hợp, khách quan, toàn diện và đầy đủ tất cả các tình tiết của vụ án” [22]. Quy định của BLTTHS đã xác định rõ chủ thể của hoạt động đánh giá chứng cứ là Điều tra viên, Thẩm phán và Hội thẩm. Họ có nghĩa vụ đánh giá chứng cứ với đầy đủ tinh thần và trách nhiệm của mình trên cơ sở nghiên cứu tổng hợp, khách quan, toàn diện và đầy đủ tất cả các tình tiết vụ án. Những ngƣời tham gia tố tụng có quyền đánh giá chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của ngƣời mà mình có trách nhiệm bảo vệ, nhƣng lại không có nghĩa vụ phải đánh giá chứng cứ. Mục đích của việc đánh giá chứng cứ là xác định giá trị chứng minh của từng chứng cứ và của tất cả các chứng cứ. Các chủ thể đánh giá chứng cứ phải dựa trên việc nghiên cứu tổng hợp, khách quan, toàn diện và đầy đủ các tình tiết của vụ án với đầy đủ tinh thần trách nhiệm. Những quy định trên của BLTTHS Việt Nam đã có sự kế thừa những tinh hoa của pháp luật nƣớc ngoài về đánh giá chứng cứ. Điều 88 BLTTHS Liên bang Nga quy định về đánh giá chứng cứ nhƣ sau: “Mỗi chứng cứ đều phải được đánh giá trên quan điểm tính có liên quan, được chấp nhận, xác thực và tất cả các chứng cứ được thu thập phải đủ để giải quyết vụ án” [53]. Quy định này đã chỉ rõ việc đánh giá chứng cứ phải xác định đƣợc tính khách quan, tính liên quan và chứng cứ đó phải đƣợc chấp nhận. Việc đánh giá chứng cứ đã thu thập phải đủ để giải quyết vụ án hình sự. Từ những phân tích trên, có thể hiểu khái niệm đánh giá chứng cứ nhƣ sau: Đánh giá chứng cứ là hoạt động tư duy của các chủ thể có thẩm quyền tố tụng hình sự, được tiến hành dưới dạng logic biện chứng trên cơ sở của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, ý thức pháp luật và niềm tin nội tâm nhằm nghiên cứu, đánh giá độ tin cậy của từng chứng cứ riêng biệt, cũng như tổng hợp chứng cứ của vụ án hình sự. Trong quá trình chứng minh, việc đánh giá chứng cứ trong các giai 9 đoạn khởi tố, điều tra chỉ mang tính sơ bộ, còn đánh giá chứng cứ trong giai đoạn xét xử là chính thức. Bởi lẽ, ở giai đoạn điều tra mục đích đánh giá đó chƣa có tính quyết định. Nó có thể bị thay đổi ở các giai đoạn tiếp theo. Dựa trên cơ sở các chứng cứ đã thu thập đƣợc, Hội đồng xét xử mới đánh giá tổng hợp để đƣa ra kết luận về hành vi phạm tội của bị cáo. Hoạt động đánh giá chứng cứ trong giai đoạn xét xử sẽ kết thúc quá trình chứng minh trong vụ án hình sự. Dựa vào kết quả đánh giá chứng cứ, Hội đồng xét xử sẽ đƣa ra đƣợc kết luận cuối cùng của vụ án xác định bị cáo có phạm tội hay không phạm tội, tội gì và áp dụng hình phạt nào theo quy định của Bộ luật hình sự. Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự việc đánh giá chứng cứ đƣợc thực hiện ở nhiều khâu khác nhau. Với hoạt động chuẩn bị xét xử, thẩm phán đƣợc phân công xét xử vụ án phải nghiên cứu hồ sơ vụ án trong thời hạn luật định, có những đánh giá sơ bộ về các chứng cứ của vụ án để ra một trong những quyết định sau đây: đƣa vụ án ra xét xử, trả hồ sơ điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Tại phiên tòa thông qua xét hỏi, tranh luận, Hội đồng xét xử tiến hành kiểm tra, thu thập chứng cứ. Đánh giá các chứng cứ đã đƣợc kiểm tra tại phiên tòa, đƣợc thực hiện chủ yếu qua nội dung thảo luận tại phòng nghị án. Từ những phân tích trên có thể hiểu khái niệm về đánh giá chứng cứ nhƣ sau:“Đánh giá chứng cứ là tổng hợp hoạt động tư duy của những người tiến hành tố tụng hình sự nhằm xác định giá trị chứng minh của các chứng cứ với nhau. Việc đánh giá chứng cứ phải được tiến hành trên cơ sở các quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, đồng thời phải dựa vào ý thức pháp luật và niềm tin nội tâm mới đảm bảo tính khách quan và chính xác”. 1.1.2. Cơ sở của việc đánh giá chứng cứ Cơ sở, phƣơng pháp luận của việc đánh giá chứng cứ dựa trên quan điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: Bản chất của thế giới là vật chất, con ngƣời có khả năng nhận 10 thức đƣợc thế giới khách quan để cải tạo thế giới khách quan. Vật chất là thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức và đƣợc ý thức phản ánh. Nội dung cơ bản của phép duy vật biện chứng gồm 2 nguyên lý, 3 quy luật, 6 cặp phạm trù. Chứng cứ cũng là một dạng vật chất nên vận động và phát triển theo đúng các quy luật của tự nhiên, xã hội và tƣ duy. Mọi sự vật, hiện tƣợng của thế giới khách quan luôn tồn tại trong mối quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau. Sự vật này tác động vào sự vật khác sẽ để lại những dấu vết xác định. Chính vì thế, khi hành vi phạm tội xảy ra bao giờ cũng để lại dấu vết về mặt vật chất nhƣ: địa điểm, không gian, thời gian phạm tội, vật chứng, phƣơng tiện phạm tội hoặc để lại các dấu vết về mặt tinh thần nhƣ: các thông tin đƣợc phản ánh trong đầu của ngƣời làm chứng, bị hại, bị can, bị cáo,… Những dấu vết vật chất này tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con ngƣời. Trong thực tế các vụ án hình sự xảy ra, đa phần ngƣời phạm tội luôn tìm cách che giấu tội lỗi của mình. Họ có thể xóa dấu vết, tạo hiện trƣờng khác làm giả chứng cứ để đánh lạc hƣớng điều tra. Tuy nhiên, theo quy luật của tự nhiên, những hành vi xóa dấu vết tội phạm lại hình thành dấu vết mới của việc làm giả hiện trƣờng. Chẳng hạn, một xác chết đƣợc phát hiện trong khu vƣờn hoang, CQĐT xác định nguyên nhân nạn nhân chết là do bị đâm nhiều nhát dao vào ngƣời. Nhƣng tại hiện trƣờng lại không tìm thấy có vết máu chảy hoặc vƣơng vãi xung quanh, không có dấu hiệu của sự xô xát, cây cối không bị dập nát. Hiện trƣờng thật ở đâu, ai là ngƣời giết nạn nhân và mang xác chết đến đây vứt để đánh lạc hƣớng điều tra. Đây là câu hỏi mà CQĐT phải làm rõ. Theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, con ngƣời có thể nhận thức đƣợc thế giới khách quan nên những dấu vết của tội phạm để lại trong thế giới khách quan thì ngƣời tiến hành tố tụng có thể giải quyết đƣợc. Sự nhận thức này là quá trình biện chứng đi từ chƣa biết đến biết, từ biết ít đến biết 11 nhiều; từ hiện tƣợng đến bản chất; từ bản chất kém sâu sắc đến sâu sắc. Chính vì vậy nhận thức của ngƣời tiến hành tố tụng về vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự có nguồn gốc là thế giới vật chất. Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm đều phải thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ để tìm ra sự thật của vụ án, tìm ra những tình tiết có nội dung phù hợp với sự thật khách quan của vụ án. Từ các quy luật của tự nhiên và cơ chế hình thành dấu vết, Luật tố tụng hình sự quy định về các biện pháp điều tra nhƣ khám nghiệm hiện trƣờng, thực nghiệm điều tra, xem xét dấu vết trên thân thể, khám nghiệm tử thi,… Các biện pháp này nhằm tái hiện lại sự việc đã xảy ra thông qua các chứng cứ của vụ án. Cũng theo phép biện chứng duy vật, mỗi sự việc, hiện tƣợng luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng. Những gì đã xảy ra từ hành vi phạm tội cũng vận động và biến đổi không nằm ngoài quy luật đó. Chẳng hạn vết máu trên con dao của hung thủ để lại ở hiện trƣờng sẽ khô dần và phân hủy trong một khoảng thời gian nhất định. Nếu CQĐT không thu giữ con dao và giám định vết máu kịp thời thì sẽ không làm rõ đƣợc vết máu đó là máu gì, của ai, dẫn tới gặp khó khăn trong công tác điều tra. Chính từ quy luật vận động của vật chất này mà Luật tố tụng hình sự quy định các thủ tục thu giữ, bảo quản vật chứng, xử lý vật chứng; khám nghiệm hiện trƣờng và thu thập chứng cứ, trƣng cầu giám định… Tất cả các thủ tục phải đƣợc tiến hành trong một thời gian nhất định, tránh sự biến đổi của vật chất từ dạng này sang dạng khác. Các hoạt động tiến hành tố tụng sẽ đi dần đến chân lý để tìm ra sự thật nhằm giải quyết đúng vụ án. Nghiên cứu về cơ sở đánh giá chứng cứ sẽ giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng tìm ra đƣợc những cách thức sao cho phù hợp trong các hoạt động tố tụng của mình nhằm góp phần đánh giá chứng cứ hiệu quả. 12 1.2. Các nguyên tắc, chủ thể và phƣơng pháp đánh giá chứng cứ 1.2.1. Các nguyên tắc đánh giá chứng cứ Thứ nhất, đánh giá chứng cứ khách quan, toàn diện và đầy đủ. Mỗi chứng cứ phải đƣợc đánh giá riêng biệt và phải đánh giá tất cả các chứng cứ, cả chứng cứ buộc tội, gỡ tội và các chứng cứ xác định tình tiết khác của vụ án. Mỗi Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm phải xem xét, nghiên cứ mọi tình tiết của vụ án một cách khách quan trên cơ sở các quy luật, pháp luật và thực tiễn. Thứ hai, đánh giá chứng cứ phải dựa trên cơ sở pháp luật. Chứng cứ là chế định quan trọng của pháp luật tố tụng hình sự. Khi có một vu án xảy ra, các cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng để xác định tính hợp pháp của chứng cứ. Dựa trên những quy định của pháp luật hình sự về tội phạm, cấu thành tội phạm, hình phạt để xác định hành vi của bị can, bị cáo có cấu thành tội phạm hay không, có những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nào, đƣa ra kết luận giải quyết vụ án. Ngoài luật hình sự và tố tụng hình sự, khi đánh giá chứng cứ phải dựa vào các văn bản pháp luật có liên quan, chẳng hạn khi đánh giá nguồn chứng cứ là kết luận giám định phải dựa trên quy định của pháp lệnh giám định số 24/2004/PL-UBTVQH11 do Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2005 để xem xét tính hợp pháp của kết luận giám định đó... Thứ ba, đánh giá chứng cứ phải dựa vào ý thức pháp luật. Ý thức pháp luật là một trong những hình thái ý thức xã hội có mối quan hệ mật thiết với pháp luật. Ý thức pháp luật thể hiện mối quan hệ giữa con ngƣời với pháp luật. Nó nói lên tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con ngƣời cũng nhƣ cơ quan nhà nƣớc, tổ chức xã hội. Ý thức pháp luật đƣợc hình thành dựa trên cơ sở những quy định của pháp luật và sự hiểu biết pháp luật. Ý thức pháp luật đƣợc hình thành dựa trên cơ sở những quy định của 13 pháp luật và sự hiểu biết pháp luật. Ý thức pháp luật giúp các chủ thể trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự tìm ra cách tiếp cận đúng đắn đối với các tình tiết khác nhau của vụ án, hiểu rõ hơn giá trị thực tế của nó và đánh giá chính xác ý nghĩa pháp lý, chính trị - xã hội của các tình tiết đó. Thứ tư, đánh giá chứng cứ dựa vào niềm tin nội tâm. Niềm tin nội tâm là sự tin tƣởng một cách chắc chắn vào các quyết định mà mình đã đƣa ra khi giải quyết vụ án, chứ không phải là ý thức chủ quan của các chủ thể khi đánh giá chứng cứ. Niềm tin nội tâm đƣợc hình thành trên cơ sở ý thức pháp luật, các tri thức và hiểu biết về khoa học chứng cứ, về pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự. Niềm tin nội tâm khác với các linh cảm, suy luận về vụ án. Nó chính là bản lĩnh nghề nghiệp và kinh nghiệm sống của ngƣời xét xử. Những ngƣời tiến hành tố tụng phải dựa vào hệ thống chứng cứ đƣợc nghiên cứu đánh giá một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, tin tƣởng chắc chắn vào kết luận của mình sẽ đƣa ra để giải quyết vụ án. Nhƣ vậy, niềm tin nội tâm phải dựa trên cơ sở thực tế mà không phải là những quyết định suy đoán vô căn cứ. Ngoài ra, trong quá trình đánh giá chứng cứ còn phải tuân theo một số nguyên tắc khác do Hiến pháp và BLTTHS quy định. Ví dụ: nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm độc lập khi tham gia xét xử. Thẩm phán và hội thẩm là các chủ thể của hoạt động xét xử để đƣa ra bản án hoặc quyết định phù hợp với quy định của pháp luật. Vì thế họ cần độc lập với nhau, độc lập với cơ quan tiến hành tố tụng, các cơ quan Nhà nƣớc khác, các tổ chức xã hội và những ngƣời khác trong quá trình xét xử. Thẩm phán và hội thẩm cần phải tuân theo nguyên tắc “suy đoán vô tội”, giải thích nghi ngờ theo hƣớng có lợi cho bị cáo; khi không đủ chứng cứ kết tội thì phải xác định bị cáo không phạm tội. 1.2.2. Chủ thể đánh giá chứng cứ Theo quy định tại BLTTHS thì chủ thể của đánh giá chứng cứ bao gồm: Nhóm tiến hành tố tụng: gồm cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan