Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật đảm bảo pháp lý về quyền con người ở việt nam hiện nay ...

Tài liệu đảm bảo pháp lý về quyền con người ở việt nam hiện nay

.PDF
105
10
86

Mô tả:

MỤC LỤC Nội dung Trang MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1-3 Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ ĐẢM BẢO PHÁP LÝ VỀ QUYỀN 4 CON NGƢỜI 1.1. Quyền con ngƣời và đảm bảo pháp lý về quyền con ngƣời 4 1.1.1. Quyền con người 4 1.1.2. Khái niệm đảm bảo pháp lý về quyền con người 12 1.2. Cơ cấu và nội dung của đảm bảo pháp lý về quyền con 14 ngƣời 1.2.1. Đảm bảo quyền con người bằng việc qui định thành pháp luật 15 1.2.2. Đảm bảo quyền con người bằng cơ chế hoạt động của bộ máy 22 nhà nước 1.2.3. Đảm bảo quyền con người bằng việc giải quyết các khiếu nại, 26 tố cáo 1.2.4. Đảm bảo quyền con người bằng hoạt động xét xử tư pháp 1.3. Khái quát lịch sử phát triển các đảm bảo pháp lý về 28 30 quyền con ngƣời ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay 1.3.1. Giai đoạn 1945-1954 30 1.3.2. Giai đoạn 1954-1980 32 Giai đoạn 1980-1992 34 1.3.3 1.3.4. Giai đoạn 1992 đến nay 36 Chƣơng 2. THỰC TRẠNG ĐẢM BẢO PHÁP LÝ VỀ QUYỀN 44 CON NGƢỜI Ở VIỆT NAM 2.1. Thực trạng đảm bảo quyền con ngƣời thông qua các qui 44 định của pháp luật 2.2. Thực trạng đảm bảo pháp lý về quyền con ngƣời qua hoạt 52 động của các cơ quan nhà nƣớc 2.3. Thực trạng đảm bảo pháp lý về quyền con ngƣời qua hoạt 63 động giải quyết khiếu nại, tố cáo 2.4. Thực trạng đảm bảo pháp lý về quyền con ngƣời qua hoạt 66 động của các cơ quan tƣ pháp Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN 70 ĐẢM BẢO PHÁP LÝ VỀ QUYỀN CON NGƢỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Tính cấp thiết phải hoàn thiện đảm bảo pháp lý về quyền 70 con ngƣời ở nƣớc ta hiện nay 3.1.1. Do yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền 70 3.1.2. Do yêu cầu phải khắc phục những hạn chế của hệ thống pháp 71 luật hiện hành 3.1.3. Do yêu cầu dân chủ hoá đời sống xã hội ngày càng cao 71 3.1.4. Do yêu cầu hội nhập quốc tế 72 Phƣơng hƣớng hoàn thiện 72 3.2. 3.2.1. Nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước, pháp luật 73 và quyền con người 3.2.2 Thiết lập cơ chế công khai, minh bạch trong hoạt động của 75 các cơ quan nhà nước 3.3. Một số giải pháp hoàn thiện 3.3.1. Hoàn thiện các qui định pháp luật 78 78 3.3.2. Nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan nhà nước 86 3.3.3. Hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo 89 3.3.4. Đẩy mạnh đổi mới, cải cách hệ thống cơ quan tư pháp 91 KẾT LUẬN 95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96-100 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của Đề tài: Hiện nay quyền con người và đảm bảo thực hiện quyền con người đã trở thành một vấn đề thu hút sự chú ý rộng rãi của dư luận quốc tế cũng như tại Việt Nam bởi vì chiến tranh, xung đột, nạn khủng bố, đói nghèo, dịch bệnh, thiên tai, ma túy, tội phạm xuyên quốc gia … đang tiếp tục đe dọa đến quyền sống, quyền phát triển của hàng triệu người trên thế giới. Là một dân tộc đã trải qua hàng thế kỷ đấu tranh giành độc lập và đang phấn đấu để phát triển nhanh, mạnh mẽ và bền vững, Việt Nam cho rằng cần phải giải quyết một cách toàn diện tất cả các quyền con người và hoàn thiện đảm bảo pháp lý để thực hiện và bảo vệ tối đa các quyền con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong các đảm bảo pháp lý về quyền con người, các qui định của pháp luật về quyền con người có vị trí vai trò hết sức quan trọng. Pháp luật đảm bảo và tôn trọng tất cả các quyền con người phù hợp với nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế về quyền con người. Pháp luật cùng với các thiết chế tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước và cơ chế đảm bảo thực hiện tạo thành một tổng thể hệ thống đảm bảo pháp lý về quyền con người và được đảm bảo thực hiện trên quy mô toàn xã hội bằng chính quyền lực và hoạt động của bộ máy nhà nước. Trong quá trình đổi mới và hội nhập thế giới, thực hiện từng bước có hiệu quả việc mở rộng, phát huy dân chủ trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội, trong bối cảnh quốc tế còn tồn tại nhiều chế độ chính trị - xã hội khác nhau và vấn đề quyền con người vẫn bị lợi dụng để thực hiện “chính sách đối ngoại nhân quyền” áp đặt đối với các nước nhỏ 1 và còn nhiều khó khăn như Việt Nam thì càng cần thiết phải nhìn nhận đúng đắn và có tinh thần xây dựng về vấn đề đảm bảo pháp lý thực hiện và bảo vệ quyền con người. Việc nghiên cứu thực trạng đảm bảo pháp lý về quyền con người, đánh giá đúng những thành tựu, ưu điểm; làm rõ những khuyết điểm, tồn tại đồng thời xác định phương hướng, nội dung tiếp tục hoàn thiện cho phù hợp với tình hình thực tiễn Việt Nam hiện nay là một yêu cầu khách quan và cần thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. 2. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn: a. Mục đích Mục đích của Luận văn là đánh giá quá trình hình thành, phát triển và thực trạng đảm bảo pháp lý về quyền con người ở Việt Nam. Đồng thời, xác định những phương hướng, nội dung giải pháp hoàn thiện đảm bảo pháp lý về quyền con người trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN). b. Nhiệm vụ Với mục đích trên, Luận văn có nhiệm vụ làm sáng tỏ một số vấn đề sau: - Khái quát về lịch sử hình thành, nội dung cơ bản của quyền con người; Làm rõ khái niệm và nội dung đảm bảo pháp lý về quyền con người; Khái quát lịch sử phát triển các đảm bảo pháp lý về quyền con người ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay; - Phân tích thực trạng đảm bảo pháp lý về quyền con người ở nước ta về các mặt đã đạt được và một số vấn đề đang đặt ra; - Nêu tính tất yếu phải hoàn thiện đảm bảo pháp lý về quyền con người; đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện đảm bảo pháp lý về quyền con người ở nước ta hiện nay. 2 3. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn: Đảm bảo pháp lý về quyền con người là một lĩnh vực rất rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa học. Luận văn này không có tham vọng giải quyết tất cả mọi vấn đề mà chỉ tập trung vào một số vấn đề pháp lý cơ bản nhất là: nghiên cứu đảm bảo pháp lý về quyền con người thông qua các qui định của pháp luật về quyền công dân và cơ chế tổ chức, hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước để đảm bảo các quyền đó được thực hiện trong thực tế. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu: Để thực hiện Luận văn này, chúng tôi vận dụng những quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền và về quyền con người. Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp hệ thống; phương pháp tiếp cận lịch sử và phương pháp so sánh. Các số liệu minh họa trong Luận văn được lấy từ nhiều nguồn khác nhau như: trong các báo cáo tổng kết, các bài viết trên các trang thông tin điện tử, các ấn phẩm chuyên ngành và công cộng... 5. Kết cấu của Luận văn: Luận văn gồm: Mục lục; Mở đầu; Phần nội dung gồm 3 chương; Kết luận; Danh mục tài liệu tham khảo. Cụ thể như sau: Mục lục Mở đầu Chƣơng 1. Khái quát về đảm bảo pháp lý về quyền con ngƣời Chƣơng 2. Thực trạng đảm bảo pháp lý về quyền con ngƣời ở Việt Nam Chƣơng 3. Phƣơng hƣớng và giải pháp hoàn thiện đảm bảo pháp lý về quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay 3 Kết luận Danh mục tài liệu tham khảo Tôi xin trân trọng cảm ơn Phó Giáo sư - Tiến sỹ Bùi Xuân Đức, các thầy cô giáo trong Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội và các bạn, đồng nghiệp, gia đình đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành Luận văn này. 4 Chƣơng 1 KHÁI QUÁT VỀ ĐẢM BẢO PHÁP LÝ VỀ QUYỀN CON NGƢỜI 1.1. Quyền con ngƣời và đảm bảo pháp lý về quyền con ngƣời 1.1.1. Quyền con người Quyền con người được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau: triết học, chính trị học, kinh tế học, luật học... vì thế nó là khái nhiệm rộng và phức tạp. Ngay từ thời cổ đại, thị dân ở một số thành phố Ai Cập đã sử dụng các quyền như quyền tự do ngôn luận, quyền bình đẳng của tất cả mọi người trước pháp luật. Các triết gia thời đó cho rằng, các quyền tự nhiên thuộc sở hữu của tất cả mọi người. Trong lịch sử nhân loại trước thế kỷ XVII đã hình thành 2 quan niệm chủ yếu, khác nhau về quyền con người. Quan niệm thứ nhất, trường phái pháp luật tự nhiên với các nhà tư tưởng bậc thầy đại diện tiêu biểu như Spinoza, Locke, Kant, Hobbes xuất phát từ chỗ coi con người là một thực thể tự nhiên, vì vậy quyền con người là quyền “bẩm sinh”, “đặc quyền” và là “quyền tự nhiên không thể tách rời”, gắn với cá nhân con người và đặc quyền này do có pháp luật tự nhiên đứng trên, cao hơn pháp luật nhà nước. Thuyết pháp luật tự nhiên với quan niệm về quyền tự nhiên, bẩm sinh của con người đã đã thấm nhuần trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, 1948 và các văn bản pháp lý khác về quyền con người. Chẳng hạn, Điều 1 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, 1948 khẳng định: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng về phẩm giá và các quyền” [21, tr.22]; hay trong Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của Pháp, 1789 nhấn mạnh: “Mục đích của các tổ chức chính trị là việc giữ gìn các quyền tự nhiên và không thể bị tước bỏ của con người; các quyền này là quyền tự do, quyền sở hữu, quyền được an toàn và chống áp bức.” [21, tr.14] 5 Mặc dù, thuyết pháp luật tự nhiên đã xác lập về mặt tư tưởng nguyên tắc bảo vệ quyền con người trước quyền lực, có giá trị nhân đạo và có ý nghĩa tích cực trong nhận thức về quyền con người nhưng nếu chỉ quan niệm quyền con người là quyền tự nhiên, bẩm sinh thì vẫn là quan niệm phiến diện, chưa đầy đủ về quyền con người. Quan niệm đó đã tuyệt đối hóa quyền con người với tư cách là quyền của thực thể sinh học - tự nhiên thuần túy từ đó dẫn tới tuyệt đối hóa cá nhân trong mối quan hệ cộng đồng xã hội, coi quyền con người là bất biến, không phụ thuộc vào không gian, thời gian, quốc gia, dân tộc. Quan niệm này cũng phủ nhận tính giai cấp, tính xã hội, tính đặc thù của quyền con người. Quan niệm thứ hai đặt con người và quyền con người trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Theo quan niệm này, quyền con người là một giá trị nhân loại. Quyền con người không phải là một khái niệm trừu tượng, cũng không chỉ mang tính tự nhiên bẩm sinh mà luôn gắn liền với cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, chống bất công trong xã hội, chịu sự giới hạn của chế độ kinh tế và nhất là của chế độ chính trị, xã hội. Tính đúng đắn của quan niệm này là ở chỗ đã coi quyền con người là một khái niệm có tính lịch sử, đặt con người trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, nếu chỉ quan niệm con người là thực thể xã hội, quyền con người chỉ là quyền lợi của người với tư cách là thành viên xã hội thì cũng là phiến diện bởi vì như thế sẽ dẫn đến phủ nhận quyền con người với tư cách là con người. Từ đó sẽ dẫn đến sai lầm buộc cá nhân con người phải hòa tan trong xã hội, quyền con người hoàn toàn phụ thuộc và được định đọat bởi nhà nước. Quan niệm này cũng dẫn đến quan điểm coi quyền con người chỉ là vấn đề của mỗi quốc gia, không thừa nhận tính phổ biến của quyền con người. 6 Quan điểm biện chứng của học thuyết Mác - Lênin đã khắc phục được tính phiến diện trong nhận thức về con người và quyền con người ở các quan niệm nêu trên. Học thuyết Mác - Lênin xem xét con người với tư cách là sản phẩm của tự nhiên và xã hội. Con người là một thực thể tự nhiên nhưng là một thực thể tự nhiên con người trong cộng đồng xã hội. Trong cái tự nhiên của con người có mặt xã hội và trong cái xã hội của con người có mặt tự nhiên. Như vậy, con người là một thực thể tự nhiên, đồng thời là thực thể xã hội và vì thế quyền con người về bản chất bao hàm cả hai mặt tự nhiên và xã hội. C. Mác cho rằng, con người là sản phẩm cao nhất của tiến trình vận động và phát triển của lịch sử. Vì thế, ngay từ đầu quyền con người là một thụộc tính tự nhiên. Bản chất đó thể hiện nổi bật ở quyền được sống, quyền tự do, quyền được sáng tạo, phát triển, quyền được đối xử như con người, xứng đáng với con người. Mặt khác, trong mọi trường hợp, con người luôn luôn là động vật xã hội. Việc giải quyết nhu cầu của mỗi cá nhân chỉ có thể là đúng khi đặt nó trong quan hệ xã hội bởi vì, chỉ có trong cộng đồng thì mỗi cá nhân mới có những phương tiện để phát triển toàn diện những năng khiếu của mình, chỉ có trong cộng đồng mới có thể có tự do cá nhân. Như vậy, ngoài bản chất tự nhiên, con người còn mang bản chất xã hội. Quyền con người ngay từ khi có xã hội loài người, bên cạnh bản tính tự nhiên còn in đậm bản tính xã hội. Sự xuất hiện giai cấp, nhà nước cùng với sự xung đột giai cấp là bước ngoặt trong sự biến đổi tương quan giữa bản tính tự nhiên và bản tính xã hội của quyền con người. Trong điều kiện xuất hiện giai cấp và xung đột giai cấp thì bản tính xã hội trở thành bản tính giai cấp và bản tính tự nhiên của quyền con người phải chịu sự chi phối của giai cấp giữ địa vị thống trị trong xã hội. 7 Từ sự phân tích về bản chất quyền con người ở trên, có thể thấy nó có những thuộc tính rất phức tạp và dường như luôn luôn là sự thống nhất giữa các mặt đối lập, đó là: - Quyền con người là những giá trị gắn với mỗi con người vừa với tư cách là cá nhân, vừa với tư cách là thành viên xã hội. Vì vậy, quyền con người vừa mang thuộc tính cá nhân, vừa thể hiện lợi ích quốc gia, dân tộc, cộng đồng. - Quyền con người vừa là những giá trị vĩnh hằng vừa là những đại lượng biến đổi gắn với quá trình phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế xã hội của mỗi thời đại, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. - Quyền con người vừa có tính phổ biến vừa có tính riêng biệt, đặc thù. Tính phổ biến thể hiện ở chỗ quyền con người là những giá trị chung, phổ biến cho tất cả mọi người không phân biệt quốc tịch, dân tộc, giới tính, giai cấp, địa vị xã hội... phản ánh nhu cầu tự nhiên khách quan của con người. Tính riêng biệt, đặc thù thể hiện ở chỗ quyền con người là những giá trị đặc thù, riêng có ở mỗi quốc gia, dân tộc do điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống, văn hóa, đạo đức của quốc gia đó qui định và bị hạn chế bởi các chế định pháp lý và đời sống thực tế. - Quyền con người vừa có tính nhân loại vừa có tính giai cấp. Trong xã hội còn giai cấp và đấu tranh giai cấp thì quyền và tự do của con người luôn luôn bị chi phối bởi chính thiết chế tổ chức, chế độ chính trị - xã hội của xã hội. Mỗi chế độ xã hội trong lịch sử mặc dù in đậm dấu ấn giai cấp trong vấn đề quyền con người nhưng đều phải thừa nhận những giá trị phổ biến nhất định của quyền con người và dù muốn dù không cũng đều phải thực hiện một phần ít hoặc nhiều về quyền con người. Như vậy, trong tư duy nhân loại về quyền con người thì nội dung của nó tất yếu có hai yếu tố cơ bản: một là, những nhu cầu, khát vọng và khả năng của con người; hai là, 8 những nhu cầu khát vọng ấy phải được chế độ xã hội và nhà nước, pháp luật thừa nhận. - Quyền con người vừa là quyền bình đẳng đối với mọi người, vừa là quyền ưu tiên đối với những nhóm, giới, những bộ phận nhất định trong xã hội. Trong xã hội không thể có sự bình quân về quyền như nhau bởi vì mỗi con người có khả năng khác nhau về trí tuệ, thể chất, hoàn cảnh .v.v. do đó, họ không thể có khả năng như nhau trong việc thực hiện hay hưởng thụ quyền. - Quyền con người là một phạm trù pháp lý vì vậy nó gắn liền với một pháp luật cụ thể, phải được thể hiện trong pháp luật, được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Quyền con người vừa là thuộc tính tự nhiên của con người, là những đặc quyền vốn có nhưng tự bản thân chúng chưa phải là quyền mà chúng phải được đặt trong mối quan hệ xã hội và cộng đồng xã hội cùng với thiết định trật tự của nó. Để trở thành quyền, những quyền và tự do của con người cần có pháp luật. Chỉ có thông qua pháp luật thì các giá trị của con người với tư cách là tự nhiên và xã hội mới trở thành quyền được xác định và mới đảm bảo trở thành hiện thực trong thực tiễn. Nếu quyền con người gắn với hệ thống pháp luật nhất định thì trong một quốc gia, quyền con người được thể hiện chủ yếu ở quyền công dân và được qui định trong Hiến pháp và pháp luật của quốc gia đó. Cần nhận thức rằng, không có sự đối lập giữa quyền con người và quyền công dân. Không thể có quyền công dân bên ngoài quyền con người và ngược lại, không thể có quyền con người mà lại không bao hàm quyền công dân trong đó. Quyền công dân chính là quyền con người trong một xã hội cụ thể, trong một chế độ xã hội - chính trị nhất định cùng với các điều kiện kinh tế, văn hóa, truyền thống, lịch sử, các giá trị đạo đức và đặc biệt với một nền pháp luật cụ thể do nhà nước đó thừa nhận, qui định. Cũng không thể quan niệm một cách trừu tượng rằng, một cá nhân con người vừa có quyền con người vừa có quyền 9 công dân một cách tách biệt hoàn toàn. Ở mỗi quốc gia, việc ghi nhận và đảm bảo thực hiện tốt các quyền công dân chính là đã thực hiện nội dung cơ bản của quyền con người. Quyền con người và quyền công dân trong mối quan hệ thống nhất biện chứng đều ghi nhận các quyền của cá nhân nhưng chúng là những khái niệm không đồng nhất cả về chủ thể lẫn nội dung. Quyền con người là khái niệm rộng hơn quyền công dân bởi vì nó vừa ghi nhận trạng thái pháp lý về quyền cá nhân ở phạm vi quốc tế, vừa là quyền công dân ở trong phạm vi từng quốc gia nhất định. Do vậy, nội dung, số lượng và chất lượng quyền công dân ở mỗi quốc gia thường không giống nhau. Về phương diện chủ thể, quyền con người cũng rộng hơn, ngoài những cá nhân là công dân, chủ thể quyền con người còn bao hàm cả những người không phải là công dân (người nước ngoài, người không quốc tịch, người bị tước quyền công dân...) và những tập thể người (giới, nhóm...). Tóm lại, nhận thức khái niệm quyền con người với đầy đủ bản chất, thuộc tính của nó như trên cho thấy đây là một khái niệm rất phức tạp và cho đến nay giữa các nhà khoa học - luật gia trong và ngoài nước vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm quyền con người. Quyền con người là một phạm trù tổng hợp, vừa là chuẩn mực tuyệt đối mang tính phổ biến, vừa là sản phẩm tổng hợp của một quá trình lịch sử lâu dài luôn luôn tiến hóa và phát triển, quyền con người không thể tách rời, đồng thời cũng không hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội... Đồng thời quyền con người là một tổng thể những quyền gắn bó với nhau trong mối quan hệ biện chứng. Quyền con người, “Đó là quyền cá nhân và quyền của dân tộc cộng đồng, quyền chính trị - dân sự và kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền của cá nhân đi đôi với nghĩa vụ đối với xã hội...” [29]. Trong thời đại ngày nay, quyền con người không thể tách khỏi hòa bình, dân chủ và phát triển. 10 Theo PGS. TS. Nguyễn Đăng Dung, quyền con người: Đó là những quyền cơ bản nhất của con người, được có một cách tự nhiên gắn bó mật thiết với con người - một động vật cao cấp có lý trí, và có tình cảm làm cho con người khác với các động vật khác, mà nhà nước thành lập với một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của mình là phải bảo vệ những quyền đó. [7, tr.112] GS. TS. Trần Ngọc Đường đã viết: “Quan niệm nhân quyền vừa khẳng định cơ sở tự nhiên và giá trị nhân loại của quyền, đồng thời cũng thừa nhận thuộc tính xã hội - chính trị và lịch sử cụ thể của quyền con người thuộc một quốc gia, một dân tộc.” [12] PGS. TS. Nguyễn Văn Động đưa ra một số nhận xét chung về quyền con người như sau: a) Là những giá trị quý báu được thừa nhận chung bởi toàn thế giới, đồng thời gắn bó chặt chẽ với sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và cả cộng đồng quốc tế; b) Trực tiếp liên quan tới các lĩnh vực sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người (từ ăn, ở, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí ...) và góp phần quan trọng vào sự hình thành và phát triển nhân cách, tính nhân đạo và nhân văn của con người; c) Các quyền con người tạo thành một hệ thống thống nhất, quan hệ tác động lẫn nhau, phụ thuộc vào nhau, đồng thời vừa là tiền đề, điều kiện của nhau, vừa là hệ quả của nhau... [10, tr.52] TS. Trần Quan Tiệp đưa ra định nghĩa ngắn gọn, khá đầy đủ và cụ thể về quyền con người như sau: “Quyền con người là những đặc lợi vốn có tự nhiên mà chỉ có con người mới được hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định.” [5, tr.14] 11 Nhận thức khái niệm quyền con người còn bao hàm cả việc xác định nội dung cơ bản của nó. Nội dung cơ bản của quyền con người gắn với lịch sử đấu tranh cho quyền con người, được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật quốc tế và pháp luật của mỗi quốc gia, trước hết là trong các Công ước quốc tế về quyền con người và Hiến pháp, văn bản luật có giá trị cao nhất của mỗi quốc gia. Dưới góc độ khoa học pháp lý, quyền con người, quyền công dân được chia thành các nhóm chính như sau: - Các quyền và tự do dân chủ về chính trị bao gồm: quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội; quyền bầu cử, ứng cử; quyền bình đẳng nam nữ; quyền tự do ngôn luận; quyền tự do báo chí; quyền được thông tin; quyền được lập hội; quyền biểu tình, bãi công; quyền tự do tín ngưỡng .v.v. - Các quyền dân sự (quyền tự do cá nhân) bao gồm: quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng và sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền được an toàn và bí mật về thư tín, điện thoại; quyền tự do đi lại và cư trú trong nước; quyền đi ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước; quyền khiếu nại, tố cáo.v.v. - Các quyền về kinh tế - xã hội bao gồm: quyền lao động, quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền thừa kế, quyền học tập, phát minh, sáng chế, quyền được bảo vệ sức khỏe, quyền được bảo hộ hôn nhân gia đình, những quyền mang tính chất ưu tiên như: quyền trẻ em, quyền người già, người cô đơn không nơi nương tựa .v.v. Nội dung quyền con người đã được cộng đồng quốc tế ngày càng nhận thức đầy đủ và toàn diện, được phát triển và cụ thể hóa trong các Tuyên bố và Công ước quốc tế về quyền con người. Đây chính là căn cứ quan trọng nhất làm cho các quyền con người được tôn trọng và bảo vệ, trở thành chuẩn mực 12 chung trong việc đảm bảo quyền con người, quyền công dân cho từng quốc gia. Việc ghi nhận và đảm bảo quyền công dân trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia chính là thể hiện việc ghi nhận và bảo vệ quyền con người. 1.1.2. Khái niệm đảm bảo pháp lý về quyền con người Theo cách phân biệt giữa quyền con người và vấn đề đảm bảo pháp lý về quyền con người thì khái niệm đảm bảo pháp lý về quyền con người là sự ghi nhận về mặt lập pháp, thực thi về mặt hành pháp và bảo vệ về mặt tư pháp của các quốc gia, các thể chế và chế độ chính trị nhất định. Theo nhận thức chung, đảm bảo pháp lý cho các quyền con người mà phần quan trọng trong đó là các quyền hiến định của công dân là điều kiện, môi trường pháp lý thuận lợi do pháp luật tạo ra trên cơ sở hệ chính trị - pháp lý tiến bộ, để công dân vừa thực sự được hưởng quyền vừa sử dụng đúng quyền mà hiến pháp đã qui định. Đảm bảo pháp lý là khái niệm mà nội dung của nó bao quát gần như toàn bộ đời sống pháp luật của nhà nước và xã hội, trong đó gồm các yếu tố quan trọng như: qui định pháp luật về quyền, nghĩa vụ của chủ thể pháp luật và thủ tục, trình tự thực hiện quyền, nghĩa vụ đó; chủ thể pháp luật mang quyền, nghĩa vụ pháp lý; hoạt động của chủ thể pháp luật nhằm thực hiện quyền, nghĩa vụ pháp lý của mình, yếu tố hệ tư tưởng chính trị - pháp lý của giai cấp công nhân, văn hóa pháp lý và hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giải thích, giáo dục pháp luật. Ở cấp độ cụ thể, đảm bảo pháp lý có thể được xem như toàn bộ những tiền đề tư tưởng chính trị - pháp lý và biện pháp pháp lý thống nhất, nhằm bảo đảm cho con người - công dân được hưởng quyền một cách đúng đắn trong các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Xuất phát từ quan điểm hệ thống, những tiền đề chính trị - pháp lý và biện pháp pháp lý nhằm đảm bảo các quyền hợp pháp của con người - công dân trong các lĩnh vực quan hệ xã hội ở Việt Nam do pháp luật điều chỉnh 13 được tập hợp trong một hệ thống thống nhất và có những đặc điểm cơ bản sau: Một là, được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất công, đói nghèo và làm cho con người có được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, bình đẳng, an toàn. Hai là, xuất phát từ chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam và nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế theo phương châm "tất cả từ con người, cho con người, vì con người"; quyền và lợi ích chính đáng của con người vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển. Ba là, do pháp luật qui định và bảo đảm thực hiện mà nội dung chủ yếu của nó bao gồm các qui định về quyền và nghĩa vụ của chủ thể pháp luật; trình từ, thủ tục, hình thức thực hiện quyền, nghĩa vụ ấy; biện pháp tổ chức của nhà nước nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể pháp luật sử dụng đúng quyền và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của họ; biện pháp tác động của nhà nước đối với chủ thể pháp luật khi họ sử dụng không đúng quyền hoặc không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ không đầy đủ. Bốn là, xuất phát từ truyền thống đạo đức và văn hóa dân tộc, thấm đượm tính nhân đạo cao cả, tính nhân văn sâu sắc, được thể hiện không chỉ trong nội dung pháp luật mà còn ở hoạt động của các cơ quan nhà nước nhằm tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật. Năm là, luôn đáp ứng kịp thời, nhanh nhạy những đòi hỏi chính đáng, nhu cầu thiết yếu, cấp bách về mặt xã hội của con người trong xã hội đang biến đổi nhanh chóng và phát triển không ngừng, có tính tới khả năng thực tế của đất nước. 14 Sáu là, luôn phù hợp với các Điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Pháp luật có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc thực hiện và bảo vệ quyền con người nhưng để phát huy vai trò quan trọng đó, phải thể chế hóa quyền con người thành các qui định cụ thể trong hệ thống pháp luật và có cơ chế bảo đảm cho các qui định đó được thực hiện trên thực tế. Thể chế hóa quyền con người trong hệ thống pháp luật là tổng hợp các nhiệm vụ: cụ thể hóa quyền con người thành các quyền, nghĩa vụ cụ thể của công dân và những người không phải là công dân (người nước ngoài, người không quốc tịch) hoặc những người đang bị tước quyền công dân; qui định hình thức, biện pháp xử lý hành vi vi phạm quyền con người, quyền công dân; qui định về tổ chức, họat động của bộ máy nhà nước, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức và cán bộ công chức nhà nước liên quan đến việc thực hiện và bảo vệ quyền con người; xây dựng hệ thống các thủ tục tố tụng; cụ thể hóa Công ước quốc tế về quyền con người đã tham gia, ký kết.v.v. Có thể nhận thức rằng quá trình thể chế hóa quyền con người, xây dựng các thiết chế bảo đảm thực hiện nó trong hệ thống pháp luật cũng chính là quá trình xây dựng đảm bảo pháp lý về quyền con người. Toàn bộ quá trình trên tạo thành đảm bảo pháp lý về quyền con người. Từ sự phân tích nêu trên, đảm bảo pháp lý thực hiện quyền con người được hiểu là: hệ thống các qui định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của công dân gắn với các thiết chế bảo đảm thực hiện nó trong hệ thống pháp luật và cơ chế bảo đảm cho các qui định và thiết chế đó được thực hiện trên thực tế. 1.2. Cơ cấu và nội dung của đảm bảo pháp lý về quyền con ngƣời Theo khái niệm trên thì đảm bảo pháp lý về quyền con người có cơ cấu và bao gồm những nội dung cơ bản sau đây: 15 1.2.1. Đảm bảo quyền con người bằng việc qui định thành pháp luật Trong các điều kiện, nhân tố đảm bảo thực hiện quyền con người như: chính trị, kinh tế, văn hóa giáo dục và pháp luật... thì pháp luật có vị trí, vai trò quan trọng hàng đầu. Pháp luật là tiền đề của quyền con người và ngược lại, quyền con người lại là thước đo, phản ánh nội dung và bản chất tiến bộ của pháp luật. Hoạt động lập pháp đảm bảo quyền con người là khởi đầu, là xuất phát điểm và căn cứ pháp lý cho mọi hoạt động bảo vệ tiếp theo. Có thể nói, quyền con người và pháp luật có mối quan hệ không thể tách rời, bởi vì: Thứ nhất, pháp luật là phương tiện chính thức hóa giá trị xã hội của quyền con người. Quyền con người được xã hội thừa nhận và bảo vệ, nó là những giá trị được xã hội hóa và do vậy nó phải thông qua phương tiện pháp luật, được biểu hiện dưới hình thức pháp luật. Nếu không có sự thừa nhận của xã hội thông qua pháp luật thì những quyền tự nhiên vốn có của con người chưa trở thành quyền. Ngược lại, quyền con người khi đã được qui định trong pháp luật sẽ trở thành quyền pháp định, là ý chí chung của xã hội, được quyền lực nhà nước bảo vệ. Ngay từ thế kỷ thứ VI trước Công nguyên, Salon, nhiếp chính quan người Hy Lạp đã nói: “Ta giải phóng tất cả mọi người bằng quyền lực của pháp luật, bằng sự kết hợp sức mạnh với pháp luật” [37, tr.6]. Trong các cuộc cách mạng tư sản thế kỷ XVII, XVIII những tư tưởng tiến bộ của Montesquieu, J.Rouseau hay trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền, 1789 của Pháp cũng như trong hiến pháp của nhiều nước sau cách mạng tư sản đều đề cao vai trò của pháp luật trong việc xác định địa vị pháp lý bình quyền của công dân, coi pháp luật cao hơn nhà nước. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, 1948 của Liên Hợp Quốc cũng khẳng định nguyên tắc “Các quyền con người phải được bảo vệ bằng luật pháp”. [21, tr.21] 16 Có thể nói, lịch sử quyền con người là lịch sử nhận thức, đấu tranh cho quyền con người và được thể hiện trong lịch sử lập hiến của mỗi quốc gia cũng như lịch sử phát triển của các Công ước quốc tế về quyền con người. Chỉ có thông qua pháp luật, quyền con người mới được xã hội thừa nhận và bảo vệ, giá trị xã hội của quyền con người mới được ghi nhận một cách đầy đủ và toàn diện. Thứ hai, pháp luật là công cụ sắc bén của nhà nước trong việc thực hiện và bảo vệ quyền con người. Pháp luật là công cụ của nhà nước, có tính bắt buộc chung đối với toàn xã hội và với mọi cá nhân sống trong xã hội. Vì thế, những qui định về quyền con người, quyền công dân cùng với những thiết chế nhằm thực hiện, bảo vệ nó trong hiến pháp và pháp luật cũng bắt buộc mọi thành viên trong xã hội, kể cả các cơ quan, tổ chức nhà nước, cán bộ công chức nhà nước phải nghiêm chỉnh thi hành. Mặt khác, tính sắc bén của pháp luật trong việc thực hiện, bảo vệ quyền con người còn thể hiện ở chỗ các qui định về quyền con người trong pháp luật được đảm bảo thực hiện bằng bộ máy nhà nước, khi cần thiết nhà nước có thể sử dụng những biện pháp giáo dục, thuyết phục hoặc nặng hơn là các biện pháp cưỡng chế để đảm bảo cho quyền, lợi ích hợp pháp và nghĩa vụ của công dân được thực hiện và bảo vệ. Thêm vào đó, nhờ có hệ thống cơ quan bảo vệ pháp luật mà mọi hành vi vi phạm quyền con người, quyền công dân đều bị phát hiện và xử lý kịp thời. Như vậy, thông qua pháp luật và nhờ những thuộc tính của pháp luật, quyền con người được đảm bảo thực hiện một cách nhanh chóng, có hiệu quả và trên qui mô toàn xã hội. Có thể khẳng định rằng, sẽ không có một công cụ, phương tiện nào có được các lợi thế như pháp luật trong việc tổ chức, quản lý xã hội cũng như trong vấn đề thực hiện và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan