Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh theo pháp luật việt nam hiện hàn...

Tài liệu đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh theo pháp luật việt nam hiện hành chuyên ngành luật dân sự và tố tụng dân sự 60 38 01 03

.PDF
82
11
78

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT CAO THỊ MAI HIÊN ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ CHỒNG TRONG QUAN HỆ KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2017 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT CAO THỊ MAI HIÊN ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ CHỒNG TRONG QUAN HỆ KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự Mã số : 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS HÀ THỊ MAI HIÊN Hà Nội – 2017 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và tôi xin chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu đó.Luận văn này chƣa đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Cao Thị Mai Hiên 3 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ………………………………………………………………………...7 CHƢƠNG 1 ......................................................................................................... 12 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ CHỒNG TRONG QUAN HỆ KINH DOANH ................................................................................. 12 1.1. Khái niệm,đặc điểm đại diện và đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh .................................................................................................................... 12 1.1.1. Khái niệm chung về “Đại diện” .............................................................. 12 1.1.2. Cơ sở của quy định về đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh …………………………………………………………………………………..20 1.1.3. Đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh ................................. 21 1.2. Sơ lƣợc lịch sử pháp luật Việt Nam về quan hệ đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh ..................................................................................... 24 1.2.1. Giai đoạn trƣớc cách mạng tháng Tám năm 1945 .................................. 24 1.2.2. Giai đoạn từ 1945 đến nay....................................................................... 26 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .................................................................................... 30 CHƢƠNG 2 ......................................................................................................... 31 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ CHỒNG TRONG QUAN HỆ KINH DOANH Ở VIỆT NAM .......................................... 31 2.1. Thực trạng đại diện theo pháp luật giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh .............................................................................................................................. 31 2.1.1. Đại diện theo pháp luật giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh khi một bên bị mất năng lực hành vi dân sự. .................................................................... 31 2.1.2. Đại diện theo pháp luật giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. ....................................................... 42 4 2.1.3. Đại diện theo pháp luật giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh khi một bên gặp khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. .......................................... 46 2.2. Thực trạng đại diện theo ủy quyền giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh .................................................................................................................... 47 2.2.1. Căn cứ pháp lý của việc đại diện theo ủy quyền giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh. ............................................................................................. 47 2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của việc đại diện theo ủy quyền giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh. ............................................................................................. 50 2.3. Trách nhiệm liên đới của vợ chồng về vấn đề đại diện trong quan hệ kinh doanh. ................................................................................................................... 52 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .................................................................................... 57 CHƢƠNG 3 ......................................................................................................... 58 NHU CẦU, ĐỊNH HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ CHỒNG TRONG QUAN HỆ KINH DOANH .............................................................................................................................. 58 3.1. Nhu cầu và định hƣớng hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh .............................................................................................. 58 3.1.1. Nhu cầu hoàn thiện quy định của pháp luật về đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh ..................................................................................... 58 3.1.2. Định hƣớng hoàn thiện và bảo đảm việc thực thi các quy định của pháp luật pháp luật về đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh ................... 65 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện cũng nhƣ bảo đảm cho việc thực thi các quy định của pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh 68 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .................................................................................... 78 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 80 5 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật Dân sự HN&GĐ : Hôn nhân và gia đình GDDS : Giao dịch Dân sự MỞ ĐẦU 6 1. Tính cấp thiết của đề tài Đại diện là một chế định quan trọng nhằm hỗ trợ việc thực hiện các quan hệ pháp luật nói chung của các chủ thể. Cũng nhƣ các quốc gia khác trên thế giới, tại Việt Nam đại diện là một chế định đƣợc quy định trong Bộ luật Dân sự 2005. Luật Hôn nhân và gia đình 2014 lần đầu tiên quy định mới về vấn đề đại diện của vợ chồng đó là đại diện của vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh. Xuất phát từ quyền bình đẳng giữa vợ và chồng, bảo vệ quyền và lợi ích của gia đình mà vợ chồng có quyền đại diện cho nhau theo pháp luật hoặc theo ủy quyền. Việc vợ, chồng đại diện cho nhau trong các giao dịch dân sự phục vụ cho sinh hoạt của gia đình hay liên quan đến hoạt động kinh doanh ngày càng nhiều. Hiện nay các quan hệ kinh doanh ngày càng đa dạng và phức tạp. Vợ, chồng có quyền tự do kinh doanh, trong đó có cả việc sử dụng tài sản riêng và tài sản chung vào các giao dịch này. Chính vì thế việc đặt ra vấn đề đại diện trong quan hệ kinh doanh đáp ứng nhu cầu phát triển trong xã hội hiện đại, đảm bảo đƣợc quyền, lợi ích của các bên trong giao lƣu dân sự. Nghiên cứu vấn đề đại diện giữa vợ và chồng, đặc biệt là đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh là cần thiết nhằm đảm bảo việc thực hiện chức năng của gia đình, đảm bảo lợi ích của vợ chồng trong các giao dịch dân sự và trách nhiệm liên đới (trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại) trong quan hệ kinh doanh. Trong quá trình hội nhập, khi mà nhu cầu về đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh xuất hiện ngày càng nhiều, tuy nhiên các quy định của pháp luật về vấn đề này còn chƣa thực sự cụ thể và rõ ràng. Ngoài ra các công trình nghiên cứu về đại diện giữa vợ và chồng nói chung, đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh trong giới khoa học pháp lý vẫn còn ít. Do đó, 7 việc nghiên cứu vấn đề này là vô cùng cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ thực tiễn trên, bằng việc lựa chọn đề tài “Đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam hiện hành” luận văn sẽ làm sáng tỏ các quy định của pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh, chỉ ra những điểm phù hợp hoặc không phù hợp về mặt lý luận so với thực tiễn áp dụng quy định vào giao lƣu dân sự để từ đó đƣa ra những kiến nghị phù hợp để đảm bảo quyền lợi của công dân trong quan hệ đại diện giữa vợ và chồng trong kinh doanh. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Chế định đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh là một vấn đề mới đƣợc cụ thể hóa trong quy định của pháp luật, cụ thể là Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Do đó mà chƣa có công trình nghiên cứu nào liên quan đến vấn đề này từ khi quy định của pháp luật có hiệu lực thi hành. Vấn đề liên quan đến đại diện đƣợc nhắc đến trong một số đề tài, bài viết, riêng lẻ đánh giá trƣớc đó nhƣ: “Phƣơng thức giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng trong hoạt động kinh doanh”, Đề tài khoa học cấp trƣờng: Tài sản của vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, do Nguyễn Phƣơng Lan chủ nhiệm (2008), “Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam – nhìn từ góc độ luật so sánh” của PGS.TS Ngô Huy Cƣơng, Tạp chí nhà nƣớc và pháp luật (04/2009), Luận văn thạc sĩ “Pháp luật Việt Nam về đại diện trong quan hệ hợp đồng” của Đỗ Hoàng Yến (2012), Luận văn thạc sĩ “Đại diện giữa vợ và chồng theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành” của Nguyễn Thị Hạnh (2012). Với tính chất là một vấn đề mới và trong thực tiễn cuộc sống cũng phát sinh nhiều tranh chấp liên quan đến này, nên việc nghiên cứu một cách hệ thống 8 quy định về đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh là cần thiết và phù hợp. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn - Mục đích của luận văn Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ các quy định của pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh. Phân tích và làm rõ những vấn đề về lý luận và thực tiễn của đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh để từ đó làm cơ sở cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật, cũng nhƣ đƣa ra một số định hƣớng, kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh nhằm bảo đảm quyền lợi cho các bên trong quan hệ hôn nhân cũng nhƣ các chủ thể khác trong giao dịch với vợ, chồng. - Nhiệm vụ của luận văn Để thực hiện những mục đích trên, luận văn còn có những nhiệm vụ sau: + Nghiên cứu để làm rõ vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hiện hành về đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh. + Phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về đại diện của vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh, từ đó đƣa ra những nhận xét, đánh giá về ƣu, nhƣợc điểm khi áp dụng pháp luật. + Đề xuất đƣa ra những định hƣớng, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh để tăng cƣờng hiệu quả của quy định pháp luật trong thực tiễn áp dụng. 4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu - Đối tƣợng nghiên cứu: + Những vấn đề lý luận chung về đại diện theo quy định của pháp luật dân sự; 9 + Những quy định của pháp luật cụ thể về đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh; + Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật vào thực tế. - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về vấn đề đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh, vì vậy luận văn đi từ cái chung đến cái riêng, với nguồn cơ bản là Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này chỉ nghiên cứu các vấn đề về đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh ở Việt Nam hiện nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh cũng nhƣ các quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về pháp luật, hôn nhân và gia đình. Các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể đƣợc sử dụng là phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh, thống kê, logic v.v... 6. Tính mới và đóng góp của đề tài Hiện nay, chƣa có công trình nghiên cứu cụ thể nào về vấn đề đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh. Là vấn đề mới đƣợc cụ thể hóa trong luật nên hiện nay chỉ dừng lại ở việc có những bài viết, bài giảng riêng lẻ đánh giá về nó. Luận văn cố gắng làm sáng tỏ những vấn đề mà thực tế trong cuộc sống đang xảy ra, đánh giá cặn cẽ tác động của luật định đối với vấn đề này trong cuộc sống để từ đó đƣa ra hƣớng đề xuất phù hợp. Chính vì vậy mục tiêu mà luận văn hƣớng đến là làm tài liệu tham khảo cho hoạt động áp dựng thực tiễn cũng nhƣ tài liệu nghiên cứu khoa học về sau. 10 7. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm phần mở đầu, 3 chƣơng, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận chung về đại diện giữa vợ chồng Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật hiện hành ở Việt Nam về đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh. Chƣơng 3: Nhu cầu, định hƣớng và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh. 11 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ CHỒNG TRONG QUAN HỆ KINH DOANH 1.1. Khái niệm,đặc điểm đại diện và đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh 1.1.1. Khái niệm chung về “Đại diện” Đại diện là một chế định pháp lý theo đó ngƣời đại diện độc lập thực hiện sự thể hiện ý chí làm phát sinh hậu quả pháp lý trực tiếp đối với ngƣời đƣợc đại diện. Xét từ góc độ lý luận thì ngƣời thực hiện các hành vi pháp lý đồng thời là ngƣời tiếp nhận kết quả của các hành vi đó. Có thể thấy đại diện là một chế định pháp luật thể hiện sự linh hoạt, mềm dẻo trong cách thức tham gia vào giao dịch dân sự (GDDS) của các chủ thể. Theo cách diễn giải tại cuốn Từ điển tiếng Việt thì đại diện là sự “thay mặt (cho cá nhân, tập thể)” [35, tr.279]. Từ điển Luật học giải thích đại diện là “việc một ngƣời, một cơ quan, tổ chức nhân danh ngƣời, cơ quan, tổ chức khác xác lập, thực hiện hành vi pháp lý trong phạm vi thẩm quyền đại diện” [36, tr225]. Với các cách hiểu này có thể thấy chủ thể tham gia giao dịch gồm có ngƣời đại diện, ngƣời đƣợc đại diện và một bên thứ ba khi ngƣời đại diện thay mặt ngƣời đƣợc đại diện giao dịch vớibên thứ ba. Cả ba bên đều có thể là cá nhân, tổ chức. Nhƣ vậy mối quan hệ giữa ngƣời đại diện và ngƣời đƣợc đại diện là sự thỏa thuận tự nguyện và đúng theo quy định của pháp luật. Các giao dịch mà ngƣời đại diện thay mặt ngƣời đƣợc đại diện thực hiện với Bên thứ ba sẽ tạo ra quyền và nghĩa vụ đối với ngƣời đƣợc đại diện. Trong xã hội La Mã, ngƣời chủ trong gia đình đƣợc quyền sở hữu mọi thứ do những ngƣời trong gia đình có đƣợc từ các nguồn khác nhau hoặc do nô lệ tạo 12 nên. Vì vậy mà luật La Mã không có quy định nào cụ thể về đại diện nhƣ các nƣớc theo truyền thống Common Law [7, tr.26-31]. Càng về sau, do yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội, giao lƣu trong thƣơng mại và vấn đề đại diện đƣợc đề cập đến nhiều hơn. Cho đến ngày nay, chế định này đã phổ biến rộng rãi trong đời sống giao lƣu dân sự. Nó thừa nhận sự tự do ý chí của các bên, theo đó phải tuân thủ những cam kết mà mình đã đƣa ra. Hầu nhƣ các quốc gia trên thế giới, dù theo truyền thống Common Law hay Civil Law đều thừa nhận và quy định về chế định đại diện. Bộ luật Dân sự Đức quy định: “Biểu lộ ý chí mà một người đưa ra bằng tên của người được đại diện trong phạm vi quyền đại diện của mình có hiệu lực trực tiếp đối với cả lợi ích và việc chống lại người được đại diện. Không có sự khác biệt giữa biểu lộ ý chí được đưa ra một cách rõ ràng bằng tên của người được đại diện, hoặc nếu hoàn cảnh chỉ ra rằng biểu lộ ý chí phải đưa ra bằng tên của người đại diện” [3]. Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804 cũng đã quy định về đại diện nhƣ sau: “Ủy quyền hay ủy nhiệm là hành vi mà theo đó một người trao cho người khác quyền làm một việc gì đó cho người ủy quyền bằng tên của người ủy quyền. Hợp đồng không được tạo lập khi không có sự chấp thuận của người được ủy quyền.” [4, Điều 1984]. Ở Việt Nam, chế định đại diện đƣợc quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật và cụ thể nhất là trong Bộ luật Dân sự 2005. Từ những quy định trong Bộ luật Dân sự 2005 và các văn bản khác có thể rút ra đƣợc khái niệm về đại diện là: Đại diện là việc một người (sau đây gọi là người đại diện) thay mặt người khác (sau đây được gọi là người được đại diện) thực hiện một số giao dịch dân sự nhất định vì lợi ích hợp pháp trong phạm vi được người đại diện cho phép. 13  Đặc điểm của quan hệ đại diện Đại diện là một quan hệ pháp luật dân sự, vì thế ngoài các đặc điểm của quan hệ pháp luật dân sự thì đại diện còn có những đặc điểm riêng: - Đại diện làm phát sinh hai mối quan hệ cùng tồn tại: Đó là quan hệ bên trong và quan hệ bên ngoài [18, tr.142]. Quan hệ bên trong là quan hệ đƣợc hình thành giữa ngƣời đƣợc đại diện và ngƣời đại diện theo quy định của pháp luật (đại diện theo pháp luật) hoặc theo hợp đồng (đại diện theo ủy quyền). Ngƣời đại diện là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, nhân danh chủ thể trong việc thực hiện các giao dịch pháp luật cho phép hoặc theo nội dung đƣợc ủy quyền. Ngƣời đƣợc đại diện có thể là cá nhân hoặc tổ chức có nhu cầu ủy quyền cho một cá nhân khác thay mình thực hiện một công việc, một giao dịch dân sự nào đó. Ví dụ: Theo quy định của pháp luật hiện hành thì mọi giao dịch dân sự của ngƣời chƣa đủ 6 tuổi đều phải do ngƣời đại diện xác lập, thực hiện. Nhƣ vậy quan hệ đại diện ở đây đƣợc xác lập theo quy định của pháp luật chứ không phải dựa trên sự thỏa thuận của các bên. Quan hệ bên ngoài là quan hệ đƣợc xác lập giữa ngƣời đƣợc đại diện và ngƣời thứ ba. Quan hệ bên trong là tiền đề, là cơ sở cho sự xuất hiện và tồn tại của quan hệ bên ngoài. - Ngƣời đại diện nhân danh ngƣời đƣợc đại diện thực hiện các giao dịch dân sự với bên thứ ba. Ở đây ngƣời đại diện xác lập quan hệ với ngƣời thứ ba nhân danh ngƣời đƣợc đại diện chứ không nhân danh bản thân mình, vì vậy các quyền và nghĩa vụ do ngƣời đại diện thực hiện trong phạm vi thẩm quyền đại diện với ngƣời thứ ba đều thuộc về ngƣời đƣợc đại diện. Ngƣời đại diện có thể đƣợc hƣởng những lợi 14 ích nhất định từ ngƣời đƣợc đại diện khi thực hiện hành vi đại diện với ngƣời thứ ba, chứ không đƣợc hƣởng bất kỳ lợi ích nào từ ngƣời thứ ba. Trong giao dịch do ngƣời đại diện nhân danh ngƣời đƣợc đại diện xác lập thực hiện phát sinh với ngƣời thứ ba chứ không phải ngƣời đƣợc đại diện là ngƣời trực tiếp xác lập và thực hiện giao dịch dân sự với ngƣời thứ ba. Trƣờng hợp ngƣời đại diện thực hiện việc đại diện vƣợt quá thẩm quyền hoặc không có thẩm quyền thì tùy vào từng trƣờng hợp cụ thể, chủ thể của giao dịch dân sự đó sẽ thay đổi. Ngƣời đại diện sẽ trở thành một bên đại diện và chịu trách nhiệm đối với hậu quả pháp lý của giao dịch đó. - Ngƣời đại diện đƣợc chủ động trong việc xác lập giao dịch dân sự với bên thứ ba trong phạm vi đại diện nhằm đảm bảo quyền lợi cao nhất cho ngƣời đƣợc đại diện. Phạm vi đại diện mà ngƣời đại diện thực hiện trong quá trình giao dịch với bên thứ ba áp dụng theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận của các bên. - Trong quan hệ đại diện, ngƣời đƣợc đại diện trực tiếp thu nhận các kết quả pháp lý do hoạt động của ngƣời đại diện thực hiện trong phạm vi thẩm quyền đại diện mang lại. Phạm vi đại diện đƣợc hiểu là hành động thực hiện với tƣ cách một ngƣời khác mà đƣợc sự đồng ý của họ. Các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự do ngƣời đại diện xác lập thực hiện với ngƣời thứ ba đều thuộc về ngƣời đƣợc đại diện, điều này có nghĩa là quan hệ pháp luật dân sự phát sinh giữa ngƣời đƣợc đại diện và ngƣời thứ ba, chứ không phải giữa ngƣời trực tiếp tiến hành xác lập giao dịch dân sự ngƣời đại diện với ngƣời thứ ba. 15 Trong trƣờng hợp ngƣời đại diện thực hiện giao dịchvƣợt quá phạm vi đại diện thì ngƣời đƣợc đại diện sẽ không phải chịu trách nhiệm đối với phạm vi vƣợt quá đó trừ trƣờng hợp ngƣời đƣợc đại diện đồng ý.  Nguyên tắc của quan hệ đại diện - Dựa trên nguyên tắc bảo đảm quyền tự do của công dân theo Hiến pháp. Công dân có quyền và lợi ích dù không thực hiện các giao dịch dân sự có liên quan tới mình và đƣợc thực hiện thông qua ngƣời đại diện. Đại diện bảo đảm cho quyền của công dân không bị gián đoạn khi mà họ có nhu cầu giao dịch nhƣng vì những lý do khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng mà không thể tự mình thực hiện giao dịch đƣợc. - Dựa trên nguyên tắc tự do giao kết của các chủ thể trong xã hội. Công dân có quyền làm những việc mà pháp luật không cấm. Vì vậy mà trong khuôn khổ quy định của pháp luật, các cá nhân có quyền thay mặt nhau thực hiện những công việc theo thỏa thuận. Ngƣời đại diệnnhân danh ngƣời đƣợc đại diện trong giao dịch, nhƣng cũng có quyền tự do thể hiện ý chí của mình trong phạm vi đại diện đó .  Ý nghĩa của quan hệ đại diện Trong đời sống hiện nay, cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội và các mối giao lƣu dân sự, quan hệ đại diện đƣợc xác lập ngày càng nhiều. Bởi vậy chế định đại diện có ý nghĩa rất lớn trong thực tiễn quan hệ pháp luật dân sự. - Hiện nay có rất nhiều cá nhân rơi vào tình trạng mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi nhƣng vẫn có nhu cầu về các giao dịch tối thiểu để phục vụ sinh hoạt của mình cũng nhƣ thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản đối với bên thứ ba. Những hạn chế đó cản trở và họ không thể tự mình thực hiện các giao dịch. Chế định đặt ra vấn đề giám hộ, đại diện giúp đỡ rất lớn cho những ngƣời không đủ khả năng 16 nhận thức và điều khiển hành vi xác lập các giao dịch phù hợp với nhu cầu cá nhân của họ. - Là công cụ đắc lực thúc đẩy các giao dịch dân sự phát triển an toàn và hiệu quả trong dòng chảy của các giao lƣu dân sự ngày càng phong phú và đa dạng nhƣ hiện nay. - Kinh tế, xã hội ngày càng phát triển thì đại diện ngày càng đƣợc biết đến nhƣ là một dịch vụ trong nền kinh tế tri thức. Những ngƣời có đủ năng lực, trình độ chuyên môn sẽ thực hiện cáccông việc mà ngƣời có nhu cầu mong muốn thông qua hợp đồng ủy quyền. Ví dụ nhƣ ông A có tranh chấp đối với ông B và ông A kiện ông B ra tòa. Vì lý do sức khỏe mà ông A không muốn trực tiếp tham gia vào vụ kiện này mà muốn ủy quyền cho một ngƣời khác thay mặt mình giải quyết các công việc liên quan đến nội dung của vụ kiện. Ông A đã thuê ông C – Luật sƣ của Văn phòng luật sƣ Z để thay mặt và nhân danh mình thực hiện tất cả các thủ tục với cơ quan có thẩm quyền cũng nhƣ giải quyết tất cả các vấn đề về vụ kiện. Đây là một nhu cầu thực tế và thiết yếu hiện nay khi mà có nhiều giao dịch dân sự ngƣời có nhu cầu không thể tự mình thực hiện đƣợc và phù hợp trong nền kinh tế thị trƣờng ngày nay. Chế định đại diện là một chế định quan trọng và có ý nghĩa lớn không chỉ trong khoa học pháp lý mà còn có ý nghĩa quan trọng trong các giao dịch dân sự hàng ngày, liên quan đến nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này chỉ đề cập tới vấn đề đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh mà không đề cập đến các vấn đề đại diện khác nhƣ đại diện hành chính, ngoại giao.....  Bộ luật Dân sự 2015 và những điểm mới về đại diện 17 BLDS 2005 sau 10 năm thi hành, đã có tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc cũng nhƣ đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự. Tuy nhiên, bƣớc sang giai đoạn phát triển mới của đất nƣớc, trƣớc yêu cầu thể chế hóa các Nghị quyết của Đảng và yêu cầu về công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công dân, về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 thì BLDS 2005 hiện hành đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, nổi bật là: Một là những yêu cầu của Nhà nƣớc pháp quyền, đặc biệt Hiến pháp 2013 quy định Nhà nƣớc phải có cơ chế pháp lý để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt hơn quyền con ngƣời, quyền công dân về dân sự. Tuy nhiên, một số quy định của BLDS hiện hành chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu này nhƣ quy định về chủ thể, giao dịch, đại diện, nghĩa vụ, hợp đồng,…còn bất hợp lý, thiếu tính khả thi. Hai là nhiều quy định của BLDS còn chƣa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Những hạn chế, bất cập nêu trên đã ảnh hƣởng không nhỏ đến hiệu lực và hiệu quả của BLDS nói riêng, pháp luật dân sự nói chung; chƣa thực sự tạo môi trƣờng pháp lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc cũng nhƣ cho việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền dân sự của ngƣời dân. Thực hiện thể chế hóa Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011 – 2020 và yêu cầu bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế đã đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp 2013, ngày 24/11/2015, tại kỳ họp thứ 18 10 Quốc hội Khóa XIII đã thông qua Bộ luật dân sự 2015 (Luật số 91/2015/QH13, có hiệu lực từ ngày 01/01/2017 - sau đây gọi tắt là BLDS 2015), với 06 phần, 27 Chƣơng, 689 điều (giảm 88 điều so với BLDS 2005). Phạm vi sửa đổi Bộ luật dân sự là sửa đổi căn bản, toàn diện, trong đó quy định về đại diện cũng đƣợc sửa đổi phù hợp hơn với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc trong thời kỳ hội nhập. Những điểm mới về đại diện trong BLDS 2015 so với BLDS 2005 gồm: Một là: Quy định rõ ràng bên đại diện có thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Nếu nhƣ BLDS 2005 quy định bên đại diện chỉ là cá nhân thì trong BLDS 2015 đã mở rộng đối tƣợng đƣợc là ngƣời đại diện có thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự. Hai là: Pháp nhân có thể có nhiều ngƣời đại diện theo pháp luật. Đây là quy định mới lần đầu tiên đƣợcđƣa vào BLDS. Quy định này phù hợp với Luật Doanh nghiệp 2014, đảm bảo sự hài hòa giữa quy định của luật chung cũng nhƣ luật chuyên ngành. Ba là: Theo BLDS 2005, ngƣời đại diện theo pháp luật của hộ gia đình là Chủ hộ, của tổ hợp tác là Tổ trƣởng. Tuy nhiên đến nay, BLDS2015 đã không còn ghi nhận tƣ cách ngƣời đại diện theo pháp luật của hộ gia đình, tổ hợp tác, thay vào đó các thành viên trong hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tƣ cách pháp nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tƣ cách pháp nhân đó. Thứ tƣ: Bổ sung quy định về thời hạn đại diện BLDS 2015 bổ sung thêm quy định về việc xác định thời hạn đại diện trong trƣờng hợp không xác định đƣợc thời hạn đại diện theo văn bản ủy quyền; quyết định của cơ quan có thẩm quyền; điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy 19 định của pháp luật. Cụ thể: Nếu quyền đại diện đƣợc xác định theo giao dịch dân sự cụ thể thì thời hạn đại diện đƣợc tính đến thời điểm chấm dứt giao dịch dân sự đó; Nếu quyền đại diện không đƣợc xác định với giao dịch dân sự cụ thể thì thời hạn đại diện là 01 năm, kể từ thời điểm phát sinh quyền đại diện. 1.1.2. Cơ sở của quy định về đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh Có thể thấy quy định của pháp luật về đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh bị ảnh hƣởng bởi yếu tố: Sự bình đẳng của các bên đối với tài sản khi đƣa vào giao dịch dân sự và nhu cầu phát triển chung của nền kinh tế thị trƣờng. Pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ phong kiến, vấn đề vợ chồng đại diện cho nhau trong quan hệ kinh doanh đối với tài sản không đƣợc ghi nhận. Hệ tƣ tƣởng Nho giáo còn ảnh hƣởng sâu sắc đến đời sống chính trị, tƣ tƣởng, tình cảm của mọi tầng lớp xã hội với quan điểm “trọng nam khinh nữ”. Trong gia đình ngƣời đàn ông có quyền lực tuyệt đối còn ngƣời phụ nữ không có quyền tự quyết định những công việc liên quan đến tài sản của gia đình. Do vậy mà vấn đề đại diện không đƣợc ghi nhận, mà đƣợc xem là một điều đƣơng nhiên. Sở dĩ nhƣ vậy bởi theo quan niệm ngƣời đàn ông là trụ cột trong gia đình, có quyền quyết định mọi vấn đề và ngƣời phụ nữ có nghĩa vụ phải tuân theo mà không cóquyền góp ý. Bên cạnh đó, ngƣời chồng cũng nắm kinh tế gia đình. Khi thực hiện bất kỳ một giao dịch nào, ngƣời chồng không cần hỏi ý kiến ngƣời vợ nhƣng vẫn có quyền dùng tài sản chung để thanh toán cho giao dịch đó. Thực tế không xuất hiện quan hệ đại diện nhƣng lại xuất hiện trách nhiệm liên đới dù đôi khi giao dịch mà ngƣời chồng xác lập ngƣời vợ không đƣợc biết. Nhƣ vậy, có thể thấy sự bất bình đẳng trong quan hệ vợ chồng bởi giao dịch đƣợc thực hiện từ một phía. Trong khi đó, theo quy định của pháp luật hiện hành về đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh cho thấy sự bình đẳng của vợ chồng trong quan hệ gia đình cũng nhƣ trong quan hệ đối với tài sản chung và tài sản riêng. Vợ chồng có 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan