Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đặc điểm văn xuôi nghệ thuật nguyễn quang lập...

Tài liệu đặc điểm văn xuôi nghệ thuật nguyễn quang lập

.PDF
126
195
69

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ___________________ Phạm Ngọc Ánh Tuyết ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT NGUYỄN QUANG LẬP LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Thành phố Hồ Chí Minh – 2013 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ___________________ Phạm Ngọc Ánh Tuyết ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT NGUYỄN QUANG LẬP Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN THÀNH THI Thành phố Hồ Chí Minh – 2013 LỜI CÁM ƠN Trước hết, tôi xin gửi lời cám ơn chân thành đến nhà văn Nguyễn Quang Lập, người đã tạo ra những đứa con tinh thần, khơi gợi cảm hứng và sự yêu thích, thôi thúc tôi thực hiện đề tài luận văn này. Đồng thời cũng xin cám ơn những ý kiến chia sẻ chân thành của nhà văn đã giúp tôi có thêm tư liệu quý báu cho việc nghiên cứu. Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Thành Thi, người thầy đã tận tình hướng dẫn, hết lòng giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn từ những bước đầu tiên cho đến khi hoàn thành. Ngoài ra, sự động viên, ủng hộ từ gia đình, bạn bè, đồng nghiệp cũng là nguồn cổ vũ tinh thần lớn lao cho tôi vượt qua những khó khăn, cũng như sự giúp đỡ tạo điều kiện cho tôi được thực hiện và hoàn thành luận văn một cách tốt nhất. TP.HCM, ngày 30 tháng 9 năm 2013 Học viên Phạm Ngọc Ánh Tuyết 1 MỤC LỤC LỜI CÁM ƠN .............................................................................................................. 1 MỤC LỤC .................................................................................................................... 2 MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 4 1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................................4 2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................................4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................9 4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................10 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ....................................................................10 6. Cấu trúc của luận văn ..................................................................................................11 CHƯƠNG 1: VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN QUANG LẬP ........................................................................................... 13 1.1. Văn xuôi nghệ thuật trong bối cảnh đổi mới của văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975 ....................................................................................................................................13 1.1.1. Văn xuôi nghệ thuật ..............................................................................................13 1.1.2. Văn xuôi nghệ thuật trong bối cảnh đổi mới của văn học Việt Nam sau 1975 ....14 1.2. Nhà văn Nguyễn Quang Lập và vị trí văn xuôi trong sự nghiệp sáng tác của ông .............................................................................................................................................21 1.2.1. Nhà văn Nguyễn Quang Lập và quá trình sáng tác ...............................................21 1.2.2. Văn xuôi nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập ................................26 CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI NGUYỄN QUANG LẬP – NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG, CẢM HỨNG .......................................................... 32 2.1. Hiện thực chiến tranh và số phận con người ..........................................................32 2.1.1. Một góc nhìn về hiện thực chiến tranh ..................................................................32 2.1.2. Số phận con người trong suy cảm của nhà văn .....................................................39 2.2. Sự ngộ nhận về lý tưởng và những bi kịch cá nhân ...............................................44 2.2.1. Bi kịch ngộ nhận về lý tưởng của con người và thời đại ......................................44 2.2.2. Bi kịch cá nhân: con người bị sai lệch nhân cách .................................................46 2.3. Chuyện “hàng ngày” viết lại từ ký ức ......................................................................53 2.3.1. Chân dung con người – “những mảnh đời đen trắng” ..........................................54 2.3.2. Chân dung bạn văn ................................................................................................57 2.3.3. Chân dung tự họa ..................................................................................................63 CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI NGUYỄN QUANG LẬP – NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN THỂ LOẠI, NGÔN TỪ .............................................................. 66 2 3.1. Một lối tự sự đa giọng điệu .......................................................................................66 3.1.1. Giọng trữ tình tha thiết ..........................................................................................66 3.1.2. Giọng xót xa, thương cảm .....................................................................................68 3.1.3. Giọng hài hước, hóm hỉnh .....................................................................................71 3.2. Cách xây dựng đoạn kết gợi nhiều suy cảm ............................................................74 3.2.1. Các kiểu đoạn kết ..................................................................................................75 3.2.2. Tính chất “khoảng lặng” của đoạn kết ..................................................................79 3.3. Cách tạo lập diễn ngôn trần thuật mang đậm cá tính sáng tạo.............................81 3.3.1. Diễn ngôn trần thuật và diễn ngôn trần thuật trong văn xuôi hiện đại ..................81 3.3.2. Sự vận dụng và điều phối linh hoạt các thành phần diễn ngôn trần thuật trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập .....................................................................................82 3.3.3. Tạo diễn ngôn trần thuật đậm chất “khẩu văn” – một hiện tượng độc đáo trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập .....................................................................................89 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 101 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 104 PHỤ LỤC ................................................................................................................. 111 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn học Việt Nam sau 1975 có sự nở rộ và phát triển mạnh mẽ ở loại hình văn xuôi nghệ thuật. Có thể nói, đây là “thời kì vàng” của văn xuôi Việt Nam. Xu hướng dân chủ hóa trong văn học đã mở ra cho các nhà văn những chân trời khám phá và những thể nghiệm mới về hiện thực cuộc sống. Hàng loạt các tác phẩm văn xuôi với những cách tân vượt trội cùng với sự xuất hiện của một lực lượng đông đảo các nhà văn trẻ đã làm nên diện mạo đặc biệt cho văn học giai đoạn này. Thực tế đời sống văn học cho thấy, văn học Việt Nam từ 1975 đến nay, nhất là sau 1986, từ lâu đã trở thành đối tượng nghiên cứu lịch sử khá đặc biệt, bởi đã có hàng trăm công trình nghiên cứu. Người ta gọi văn học Việt Nam sau 1986 là giai đoạn “văn học đổi mới”, “văn học trong thời kì đổi mới”. Và để làm nổi bật sự đổi mới đó, bên cạnh việc nghiên cứu tổng quát về những đặc điểm văn học, thành tựu văn học, thiết nghĩ, cần điểm lại chân dung của từng nhà văn với những thành công, những sáng tạo nghệ thuật của họ đã ít nhiều góp phần tạo nên bộ mặt cho văn học giai đoạn này. Nguyễn Quang Lập là một chân dung mới của văn học Việt Nam hiện đại thuộc giai đoạn này, thành công ở nhiều loại hình nghệ thuật như văn xuôi, kịch, sân khấu điện ảnh. Riêng về mảng văn xuôi, ông sáng tác không nhiều, nhưng ở mỗi thể loại, ông đều tạo được những dấu ấn riêng cả về nội dung lẫn phương thức thể hiện. Nguyễn Quang Lập là nhà văn đã xuất hiện và nổi tiếng từ những năm 80 của thế kỉ trước, nhưng điều đáng nói là sau 20 năm vắng bóng, nhà văn đã trở lại với văn đàn với sức viết dồi dào và làm nên một diện mạo mới, đặc biệt là chất “khẩu văn”. Nhà văn đã tạo lập cho mình một thế giới nghệ thuật riêng, mang giọng điệu hài hước, hóm hỉnh nhưng chất chứa trong đó là những chuyện đời, chuyện người vẫn còn lắm nỗi. Chọn đề tài Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Nguyễn Quang Lập, người thực hiện luận văn muốn tìm hiểu một cách hệ thống toàn bộ các sáng tác văn học, khái quát nên những đặc điểm cơ bản văn xuôi nghệ thuật của nhà văn này cả về phương diện nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Qua đó, góp phần khẳng định sự đa dạng, phong phú của văn học Việt Nam đương đại. 2. Lịch sử vấn đề 4 Những tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Quang Lập từ khi ra đời đã tạo được nhiều ấn tượng, dư vang trong lòng bạn đọc nói chung và nhận được nhiều sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình nói riêng. Tuy nhiên, phần lớn là các bài viết ngắn, thiên về cảm nhận, nhận xét và đánh giá. Những bài viết có tính chất nghiên cứu vẫn còn rất hạn chế, thường chỉ quan tâm đến một tác phẩm nào đó, chưa có những bài nghiên cứu mang tính tổng hợp. Hầu hết các bài viết được đăng rải rác trên các trang báo, tạp chí, từ nguồn internet, hoặc từ trang cá nhân của một số bạn bè văn chương của nhà văn Nguyễn Quang Lập, và nhất là được tập hợp khá đầy đủ trong trang cá nhân của ông. Qua khảo sát và tìm hiểu, chúng tôi chia các bài nghiên cứu ra hai nhóm bài viết chính: (1) Nhóm các bài viết nhận xét, đánh giá về phương diện nội dung tác phẩm Nguyễn Quang Lập (2) Nhóm các bài viết có nghiên cứu về nghệ thuật trong tác phẩm Nguyễn Quang Lập Theo đó, tác giả luận văn cố gắng điểm qua một số ý kiến nhận xét, đánh giá tiêu biểu cho từng nhóm bài viết. (1) Trước hết, cần nói đến các bài viết, ý kiến về tác phẩm Những mảnh đời đen trắng (cuốn tiểu thuyết duy nhất của Nguyễn Quang Lập tính đến hiện nay). Vừa ra đời, tác phẩm đã nhận được nhiều ý kiến phê bình, nhận xét bởi tính vấn đề được đặt ra. Thụy Khuê, trong bài viết Những mảnh đời đen trắng của Nguyễn Quang Lập đã khái quát tính bi thảm của cốt truyện trong cuốn tiểu thuyết này. Theo tác giả, “Những mảnh đời đen trắng là một tác phẩm mạnh và dứt khoát. Là cuộc xung đột giữa hai tầng lớp xã hội, hai quan niệm sống khác nhau. Giữa hai thế hệ trẻ và già, giữa lớp người có quá khứ oai hùng và lớp người không được quyền có quá khứ. Giữa lớp bần cố nông làm chủ tập thể, làm chủ tình thế và lớp trí thức tiểu tư sản “đầu thai nhầm thế kỷ, bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh” (Thơ Vũ Hoàng Chương). Cả hai giai tầng đều đáng thương mà không đáng trách. Một bên có khả năng nhận thức mà không được sử dụng. Một bên không có khả năng mà phải gánh vác những công việc quá sức mình. Sự xung đột trải dài trên hai thế hệ”[37]. 5 Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bài viết giới thiệu cho cuốn tiểu thuyết này đã khẳng định một cách cảm nhận riêng, một cái nhìn rất mới mẻ của Nguyễn Quang Lập khi viết về đề tài chiến tranh. Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường, đó là cái nhìn sâu vào những thương tật chiến tranh đã để lại trong tâm hồn con người. Và “để phát hiện ra những nhân vật của mình, Lập đã không nhìn lên bầu trời mà cúi xuống lòng mình, đào bới ở đó những điều thấy cần nói với mọi người” [46;5]. Đặc biệt, ông còn nhấn mạnh, tác phẩm có giá trị và ý nghĩa sâu sắc không phải ở nội dung của nó, mà chính ở cái tâm, cái tình của tác giả – một người muốn nhìn thẳng vào sự thật, “đó là nỗi căm ghét cái ác, sự đòi hỏi về nhân phẩm và lòng khao khát hòa bình và hạnh phúc cuộc sống. Cách viết của Nguyễn Quang Lập là như vậy, là làm thương tổn lương tâm trong ý đồ làm cho lương tâm trở nên hoàn thiện hơn” [47;7]. Nếu bài viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường chỉ dừng lại ở những lời nhận xét chung, đánh giá một cách khái quát, thì bài viết Những mảnh đời đen trắng, hai mươi năm có lẻ của Phạm Xuân Nguyên lại đi sâu vào việc mổ xẻ, phân tích nội dung tác phẩm ở nhiều góc cạnh. Ông khẳng định một cách chắc chắn, mạnh mẽ, rằng: “Cuốn tiểu thuyết này là một bức thông điệp nghệ thuật cho hôm nay và mai sau biết về một quá khứ của đất nước thân yêu và tội nghiệp. Có một thời đại lầm lỗi như thế đấy: người ta hào hứng nhiệt tình xây dựng Chủ nghĩa Xã hội mà không hiểu Chủ nghĩa Xã hội là gì, người ta nhân danh những lý tưởng cao đẹp của Chủ nghĩa Xã hội để làm những việc gây ô danh cho lý tưởng đó, và điều tệ hại và nguy hiểm nhất là người ta nói đến Chủ nghĩa Xã hội mà quên mất con người, xem nhẹ con người với tư cách là một cá nhân riêng tư và độc đáo. Thực chất đó là sự ngộ nhận về Chủ nghĩa Xã hội, đưa đến xuyên tạc bản chất chân chính của nó, từ đó gây nên hậu quả khủng khiếp, đau lòng” [47;294]. Quả thật, nhà phê bình này đã đưa ra những nhận xét khá sâu sắc về nội dung và tính vấn đề mà tác phẩm đặt ra. Tuy nhiên, cách nhận xét như vậy của tác giả dễ khiến người đọc hiểu lầm một cách cực đoan rằng ý đồ của nhà văn trong tác phẩm Những mảnh đời đen trắng dường như là muốn phủ định hoàn toàn một thời đại Xã hội Chủ nghĩa, nghĩa là chẳng có gì là tốt đẹp trong lòng xã hội đó cả. Trong khi đó, những “người ta” mà nhà phê bình này gọi là “hào hứng nhiệt tình xây dựng Chủ nghĩa Xã hội mà không hiểu Chủ nghĩa Xã hội là gì…” thực chất chỉ là một bộ phận của xã hội, của thời đại, như vậy, không nên đánh 6 đồng để hiểu một cách chung chung về cả thời đại ấy. Nhà văn Nguyễn Quang Lập chỉ cố ý dựng lại những vấn đề còn tồn tại của một thời đại xã hội với cái nhìn thương hại, tội nghiệp cho một bộ phận người đang nắm quyền về sự “hiểu biết” nhưng thực chất lại là những kẻ “kém hiểu biết” về thời đại mình, để từ đó đặt ra một vấn đề cấp thiết của sự nhận thức lại lịch sử, đánh giá lại một thực tế còn tồn tại trong quá trình đổi mới xã hội, đất nước. Chứ nhà văn không hề có ý muốn đánh đổ toàn bộ những giá trị đẹp đẽ về một thời đại mà con người từng tự hào và ca ngợi. Trong bài viết của mình, tác giả Phạm Xuân Nguyên còn đưa ra những lời nhận xét, phân tích khá kĩ lưỡng về các nhân vật chính trong tác phẩm. Ông đặc biệt chú ý đến số phận bi kịch của từng cá nhân. “Những cơn bi kịch này giăng mắc, ràng buộc, đan chéo vào nhau tạo thành tấn bi kịch của một cộng đồng ở vào thời kỳ lịch sử nhất định”. Lý giải cho những bi kịch đen trắng trong tác phẩm, nhà phê bình nhận định “Bi kịch này là lầm lỗi của một thời do con người gây ra và con người phải tự trả giá cho chính nó”. “Cá nhân và lịch sử ở đây vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của nhau” [47;296]. Không chỉ phân tích tác phẩm để làm toát lên nội dung tư tưởng mà tác giả Phạm Xuân Nguyên còn nêu lên một số “chỗ yếu”, hạn chế của tác phẩm. Thứ nhất là nhân vật bị nhiễm “từ trường” của tác giả, ít còn được tự do là mình. Theo bài viết của Phạm Xuân Nguyên: “Một số người sau khi đọc Những mảnh đời đen trắng nhận xét: truyện viết mạnh bạo, đạt được nhiều vấn đề suy nghĩ, nhưng nhân vật bị cương cứng quá, có phần bị cường điệu, không đời thật…”. Và chỗ yếu thứ hai là nhân vật bị nằm ở thế tĩnh quan “tính cách của chúng được tác giả quy định ngay từ đầu, nhất thành bất biến suốt cả truyện, tác giả lần lượt bố trí các sự kiện, hành động để chứng tỏ tính cách của chúng như thế mà thôi” [47;299]. Đối với thể loại tản văn của Nguyễn Quang Lập, trong ba cuốn tản văn thì tác phẩm Kí ức vụn nhận được nhiều sự chú ý hơn cả. Bài viết Thân phận, tình người trong từng mảnh “Ký ức vụn” của Nguyễn Đình Xuân đã thâu tóm một cách ngắn gọn và khái quát về những nội dung trong cuốn tản văn này. Tác phẩm là bức tranh về những con người mà “Trong họ có những đức tính tốt, xấu, có những mâu thuẫn trái ngược nhau. Người hám danh hám lợi; người hiền lành, thật thà; người quỷ quyệt, xảo trá… Nhưng những con người đó làm nên một đời sống xã hội đa dạng, đa chiều, toát lên vẻ đẹp hồn quê và cũng làm sống lại một thời kí ức chiến tranh trên vùng đất lửa Quảng Bình” [100]. 7 Tuy nhiên, theo sự nhận định của tác giả, điều đáng nói hơn là nhà văn Nguyễn Quang Lập đã đề cao cái tình trong từng mảnh kí ức đó. Viết về những con người đời thường, “Nguyễn Quang Lập khéo gợi cái tình cả trong những con người khùng khùng, điên điên; gạn trong họ chất NGƯỜI để mà sống, mà chiêm nghiệm, để lòng ta trong sáng hơn”. Còn viết về giới văn nghệ sĩ, “Nguyễn Quang Lập không đánh giá, không khái quát sự nghiệp văn chương, không đi sâu vào tác phẩm; anh chỉ nói về cái tình, vẽ chân dung qua một vài tính cách của họ”, “Mỗi người một tính cách, một “tật” riêng, nhưng trùm lên các trang viết ấy là cái tình, tính nhân bản” [100]. Đây là một sự nhận định khá sâu sắc, có ý nghĩa khẳng định và làm nổi bật giá trị nội dung tản văn Nguyễn Quang Lập. (2) Về phương diện nghệ thuật, các nhà nghiên cứu, phê bình đặc biệt chú ý đến cá tính sáng tạo của nhà văn Nguyễn Quang Lập ở thể loại tản văn. Hầu hết đều thể hiện sự quan tâm và đánh giá cao “chất khẩu văn”, đã làm nên dấu ấn riêng trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập. Đáng kể nhất là bài viết Ngôn từ qua khẩu văn Nguyễn Quang Lập của tác giả Nguyễn Hoài Nguyên, đây là bài viết có tính chất nghiên cứu hơn cả. Theo ông “Khẩu văn Nguyễn Quang Lập có sự pha trộn của lối nói dân gian tự nhiên, sinh động với thể văn hồi kí phóng túng, đầy cảm hứng. Khẩu văn Nguyễn Quang Lập là viết theo lối nói, như tác giả đang nói/trò chuyện trực tiếp với người đọc” [67]. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích khá cặn kẽ những đặc điểm ngôn từ mang tính chất “khẩu văn” được thể hiện qua cách sử dụng từ ngữ và cách tổ chức câu văn: Về từ ngữ, đó là những từ địa phương, khẩu ngữ, từ thông tục; về cách tổ chức câu văn, “chiêu thức nổi trội nhất về cách tổ chức câu văn là: câu mà lời thoại diễn ra liền mạch, không có dấu hiệu phân cách giữa lời dẫn thoại, lời thoại, người kể, người thoại”[67]. Xoay quanh chất “khẩu văn” trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập, có nhiều tác giả gọi bằng những cách khác nhau. Với Đỗ Cao Sang, đó là “dòng văn bạch thoại” (trong bài viết Ký ức vụn – và dòng văn bạch thoại), còn với Nguyễn Lâm Cúc thì đó là “dòng văn bụi” (trong bài viết Nguyễn Quang lập với dòng văn bụi). Các bài viết này đều chung nhau ở việc chỉ ra tính dân dã, bỗ bã là đặc điểm nổi bật của ngôn từ trong các bài tản văn Nguyễn Quang Lập. Lối dùng “khẩu văn” trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập còn được tác giả Lê Ngọc coi đó như là một “âm mưu phá vỡ vùng cấm văn chương” để đi đến “khát vọng dân 8 chủ hóa trong sáng tạo” (trong bài viết “Ký ức vụn” – Từ “âm mưu” phá vỡ “vùng cấm” văn chương đến khát vọng dân chủ trong sáng tạo). Theo tác giả, Nguyễn Quang Lập đã cố tình làm “thô tục hóa ngôn ngữ” để làm cho đời sống bình dân trở nên hiện thực hơn, gần gũi hơn. Cách viết ngông, hành văn dân dã, đời thường của nhà văn chính là “bước đột phá về cách hành ngôn nhắm thẳng tới mục đích phá vỡ tính thi pháp bó buộc của văn tự văn học, nhằm gây cười cho độc giả. “Vùng cấm” ngôn ngữ của văn chương bắt buộc phải mở lối cho ngôn ngữ đời thường dung tục đi vào” [64]. Tác giả còn đặc biệt đánh giá cao tính sáng tạo của nhà văn Nguyễn Quang Lập trong việc tạo dựng thứ văn chương suồng sã, bình dân, hướng đến đối tượng tiếp nhận là những người bình dân. Do đó, tác giả khẳng định “Từ âm mưu phá vỡ “vùng cấm” văn chương theo cách nhà văn thể hiện đã hợp thức hóa mối liên quan giữa tác giả và các hình tượng, chân dung văn học, giữa tác giả và độc giả, đương nhiên sau đó là các hình tượng, chân dung văn học công chúng. Đó cũng là cách thể hiện đầy đủ nhất tinh thần và khát vọng dân chủ tự do trong sáng tạo của Nguyễn Quang Lập” [64]. Tác giả Nguyễn Anh Thế trong bài viết “Ký ức vụn” và chất cười đa giọng điệu đã khẳng định nét đặc sắc trong các bài tản văn của Nguyễn Quang Lập là ở sự đa dạng, phong phú của tiếng cười, tạo nên nhiều sắc thái thẩm mĩ khác nhau. “Cái cười ấy nhiều khi tự nhiên như thể chất gây cười không cần phải nằm trong ý nghĩa câu chuyện mà nằm chính trong lớp vỏ chữ”. Và điều đáng nói là “cười đa giọng của Nguyễn Quang Lập không phải chỉ là cái cười mua vui, không phải là cái cười thuần túy mà nhiều khí chính tiếng cười ấy là là tiếng khóc cho một thân phận không tên giữa cuộc đời”[79]. Ngoài ra, tác giả Lê Mai trong bài viết “Chất trữ tình” Nguyễn Quang Lập đã tìm thấy cái hay, cái đẹp và độ lắng trong các bài tản văn của Nguyễn Quang Lập là ở cách cảm nhận của nhà văn về thiên nhiên, cuộc sống và con người mang đậm yếu tố trữ tình. Nhìn chung, các bài viết về Nguyễn Quang Lập và các sáng tác của ông vẫn còn khá khiêm tốn về nội dung cũng như số lượng và chỉ được đăng tải rời rạc trên một số trang báo, tạp chí, hoặc qua những lời nhận xét, đánh giá trong các bài phỏng vấn được ghi lại. Trong giới hạn khảo sát và tìm hiểu, cho đến nay, chúng tôi vẫn chưa tìm thấy một công trình nghiên cứu hoàn chỉnh nào về nhà văn Nguyễn Quang Lập cũng như các sáng tác của ông. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9 - Đối tượng: Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Nguyễn Quang Lập - Phạm vi: Để nghiên cứu về đặc điểm văn xuôi Nguyễn Quang Lập, người viết tìm hiểu và khảo sát các thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn và tản văn với các tác phẩm: Tiếng gọi phía mặt trời lặn (1987), Những mảnh đời đen trắng (1989), Kí ức vụn (2009), Bạn văn (2011), Chuyện đời vớ vẩn (2011), Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Quang Lập (2010), Chuyện nhà quê (2013), và một số tác phẩm được tham khảo từ trang cá nhân của chính nhà văn. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp hệ thống giúp xác định vị trí văn xuôi Nguyễn Quang Lập trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn nói chung. - Phương pháp loại hình được sử dụng nhằm khảo sát, phân loại và xác định đặc điểm các thể loại văn xuôi trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập. - Phương pháp lịch sử được vận dụng để miêu tả, phân tích những đặc điểm văn xuôi của một nhà văn được đặt trong sự vận động chung của một giai đoạn văn học (cụ thể là giai đoạn văn học hiện đại Việt Nam sau 1975). - Phương pháp nghiên cứu liên ngành: nghiên cứu văn hóa học và xã hội học trong việc tìm hiểu văn hóa vùng miền, đặc biệt là hiện tượng sử dụng khẩu ngữ; nghiên cứu ngôn ngữ học trong việc khai thác và phân tích chất “khẩu văn”. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các thao tác nghiên cứu hỗ trợ như thống kê, phân tích, tổng hợp, giảng bình… để lý giải một số vấn đề, hiện tượng được đặt ra trong tác phẩm. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Trước hết, đây là đề tài nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống về đặc điểm văn xuôi Nguyễn Quang Lập trên cả hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Qua đó, đề tài có ý nghĩa tích cực trong việc khẳng định vị trí của văn xuôi Nguyễn Quang Lập nói riêng và vị trí của nhà văn nói chung, góp phần làm nên diện mạo đa dạng về tác giả, tác phẩm cũng như phong cách nhà văn ở thời kì văn học hiện đại giai đoạn sau 1975. Nghiên cứu về đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Nguyễn Quang Lập còn có ý nghĩa thực tiễn trong công tác giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở nhà trường phổ thông. Đặc biệt trong xu 10 hướng đổi mới chương trình, nhiều tác phẩm được viết sau 1975 đã được tuyển chọn giảng dạy trong nhà trường phổ thông. Bên cạnh một số nhà văn hiện đại quen thuộc, có phong cách như Thạch Lam, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Nguyễn Minh Châu… nay chúng tôi có dịp giới thiệu thêm một gương mặt nhà văn mới. Nguyễn Quang Lập và những sáng tác của ông có thể không mới đối với bạn đọc cũng như giới nghiên cứu, phê bình văn học, nhưng hoàn toàn xa lạ với môi trường phổ thông. Do đó, với việc giới thiệu thêm một gương mặt mới trong bối cảnh văn học đương đại, nội dung giảng dạy trong chương trình Ngữ văn phổ thông sẽ thêm phong phú, rộng mở. 6. Cấu trúc của luận văn Một tác phẩm nghệ thuật, theo Bakhtin bao gồm hai lớp hình thức: “Hình thức tổ chức về mặt giá trị hướng tới nội dung” và hình thức tổ chức tác phẩm, còn gọi là kĩ thuật của hình thức. Cả hai lớp này đều phải được nghiên cứu trong một tương quan hợp lý. Và với luận văn này, việc nghiên cứu Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Nguyễn Quang Lập, cụ thể là tìm hiểu và khái quát những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật trong các tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Quang Lập, do đó, sẽ chú trọng đến hai vấn đề được trình bày ở chương 2 và chương 3. Cấu trúc luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Thư mục tham khảo, Phụ lục, phần trọng tâm là Nội dung chính gồm ba chương. Chương 1. Văn xuôi nghệ thuật và quá trình sáng tác của Nguyễn Quang Lập Trong chương này, người viết trước hết sẽ làm rõ một số khái niệm thể loại về văn xuôi nghệ thuật có liên quan đến những sáng tác của nhà văn Nguyễn Quang Lập được nghiên cứu như tiểu thuyết, truyện ngắn, tản văn. Tiếp theo là phần khái quát về bối cảnh đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam giai đoạn sau 1975, từ đó, xác định vị trí của nhà văn Nguyễn Quang Lập, cùng với việc khái quát, tổng hợp các sáng tác của ông, đặc biệt chú ý đến vị trí các tác phẩm văn xuôi nghệ thuật trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của nhà văn nói chung. Chương 2. Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Quang Lập – nhìn từ phương diện nội dung, cảm hứng Đây là phần tập trung làm rõ những nội dung chủ yếu trong văn xuôi nghệ thuật của Nguyễn Quang Lập trên từng thể loại. Nhìn từ phương diện nội dung, cảm hứng, có thể tìm 11 thấy nhiều đề tài khác nhau trong các sáng tác của Nguyễn Quang Lập sẽ được làm rõ như: hiện thực về chiến tranh và số phận con người, sự ngộ nhận về lý tưởng của một thời đại và những bi kịch cá nhân, hay là những chuyện hàng ngày được viết lại từ kí ức. Trong chương này, nội dung cụ thể của mỗi tác phẩm sẽ được tìm hiểu, phân tích, nhằm làm nổi bật chủ đề tác phẩm, cũng như tư tưởng, quan niệm của nhà văn về cuộc đời và thân phận con người. Chương 3. Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Quang Lập – nhìn từ phương diện thể loại, ngôn từ Nhiệm vụ của chương là khảo sát một số đặc điểm về thể loại và hình thức ngôn từ trong sáng tác của Nguyễn Quang Lập có tác dụng như thế nào trong việc biểu đạt ý nghĩa nội dung. Chúng tôi đi sâu khai thác các yếu tố chính: Lối tự sự đa giọng điệu; Cách xây dựng đoạn kết gợi nhiều suy cảm; và đặc biệt là Nghệ thuật tạo lập diễn ngôn mang cá tính sáng tạo, trong đó đáng chú ý là cách sử dụng ngôn từ và diễn ngôn để tạo nên chất “khẩu văn” độc đáo. 12 CHƯƠNG 1: VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN QUANG LẬP 1.1. Văn xuôi nghệ thuật trong bối cảnh đổi mới của văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975 1.1.1. Văn xuôi nghệ thuật Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Văn xuôi trong nghĩa rộng chỉ loại văn đối lập với văn vần, và trong nghĩa hẹp chỉ các tác phẩm văn phân biệt với kịch, thơ, bao gồm một phạm vi rộng từ tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, kí, tiểu phẩm chính luận” [19;293]. Trước thời cận đại, ở hầu khắp các nền văn học dân tộc, văn xuôi phát triển ở ngoại vi của nghệ thuật ngôn từ, tạo nên những hiện tượng ngôn từ pha trộn, nửa nghệ thuật (biên niên lịch sử, độc thoại triết học, hồi ký, thuyết pháp, tác phẩm tôn giáo…). Sau này, thuật ngữ “văn xuôi” đã được dùng để chỉ hình thức văn xuôi hoàn toàn sử dụng ngôn từ làm chất liệu, nói cách khác, “văn xuôi” là một hình thức của nghệ thuật ngôn từ. Do đó, hoàn toàn có thể đồng nhất thuật ngữ “văn xuôi” với “văn xuôi nghệ thuật”. Và trong phạm vi luận văn này, chúng tôi thống nhất dùng thuật ngữ “văn xuôi” với ý nghĩa chỉ “văn xuôi nghệ thuật”. Văn xuôi bao gồm nhiều thể loại, theo Từ điển thuật ngữ văn học thì văn xuôi trong nghĩa hẹp bao gồm các thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện vừa, kí. Như vậy, khi nghiên cứu Văn xuôi nghệ thuật Nguyễn Quang Lập, chúng tôi đã tiếp cận khái niệm “văn xuôi” theo nghĩa hẹp, với các tác phẩm thuộc thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn, tản văn. Tiểu thuyết là “tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực cuộc sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian” [19;328]. Với dung lượng lớn và khả năng phản ánh sâu rộng về hiện thực cuộc sống, nhiều cuộc đời, nhiều số phận, nhiều tính cách, “tiểu thuyết hấp thụ vào bản thân nó mọi yếu tố ngổn ngang bề bộn của cuộc đời bao gồm cái cao cả lẫn cái tầm thường, nghiêm túc và buồn cười, bi và hài, cái lớn lẫn cái nhỏ” [19;330]. Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, nội dung bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống. Tuy nhiên, với dung lượng ngắn, “truyện ngắn thường hướng tới khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn 13 con người” [19;370]. Nói cách khác, truyện ngắn không có nhiệm vụ phản ánh cuộc sống một cách sâu rộng như tiểu thuyết, mà ngược lại, nhà văn chỉ chọn lấy một lát cắt của cuộc sống để phân tích, lý giải, qua đó thể hiện tư tưởng, quan điểm của mình. Ngoài ra, còn có tản văn, chiếm một phần rất lớn trong văn xuôi nghệ thuật của Nguyễn Quang Lập mà chúng tôi tiếp cận và khảo sát. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Tản văn là loại văn xuôi ngắn gọn, hàm súc, có thể trữ tình, tự sự, nghị luận, miêu tả phong cảnh, khắc họa nhân vật” [19;293]. Điều cốt yếu ở tản văn là khả năng “bộc lộ trực tiếp tình cảm, ý nghĩ mang đậm bản sắc cá tính của tác giả” [19;293]. Một bài tản văn có dung lượng tương đối khiêm tốn, cấu trúc tương đối phóng túng, ghi lại những rung cảm nhỏ nhoi nhất của tác giả. Đây là thể loại không kén độc giả, vì nó không đòi hỏi ở người tiếp nhận khả năng lý giải tình tiết như đọc truyện ngắn hay tiểu thuyết. Trong văn học hiện đại, tản văn gồm các thể kí, tùy bút, văn tiểu phẩm, văn chính luận, tạp văn, ngụ ngôn, chân dung văn học,… Với các tác phẩm Kí ức vụn, Chuyện đời vớ vẩn và Bạn văn của Nguyễn Quang Lập, có người gọi là tản văn, có người gọi là tạp văn. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, tạp văn “Đó là một thứ văn vừa có tính chính luận sắc bén vừa có tính nghệ thuật cô đọng, phản ánh và bình luận kịp thời các hiện tượng xã hội” [19;294]. Như vậy, nếu dựa vào nội dung khái niệm này thì khó có thể đóng khung các tập tác phẩm Kí ức vụn, Chuyện đời vớ vẩn và Bạn văn của Nguyễn Quang Lập vào thể tạp văn. Mặc dù hiện nay, tạp văn có thể được hiểu theo nghĩa rộng hơn, như một thể văn khá phóng túng, tự do về nội dung, phạm vi đề tài, kết cấu, ngôn ngữ,… chỉ cốt làm sao có thể bộc lộ, thể hiện được suy nghĩ, cảm xúc của tác giả. Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi thống nhất chọn cách gọi các tác phẩm Kí ức vụn, Chuyện đời vớ vẩn và Bạn văn của Nguyễn Quang Lập là tản văn. 1.1.2. Văn xuôi nghệ thuật trong bối cảnh đổi mới của văn học Việt Nam sau 1975 Đại thắng mùa xuân năm 1975 đưa lịch sử dân tộc bước sang một trang mới, đồng thời đánh dấu một giai đoạn đổi mới toàn diện của văn học Việt Nam. Đi qua thời chiến, cuộc sống trở lại với những quy luật bình thường, con người cũng trở về với muôn mặt đời thường, phải đối diện với những vấn đề về thế sự, nhân sinh và cả những chuyện rất riêng 14 tư. Hiện thực đất nước đổi mới đã mở ra một bước ngoặt phát triển cho văn nghệ, văn học vì thế tất yếu cũng phải đổi mới theo tinh thần thời đại. Quá trình phát triển của văn học Việt Nam sau 1975 có thể chia ra làm hai chặng đường tiếp nối nhau: từ 1975 đến 1985 là chặng đường có tính chất chuyển tiếp từ văn học sử thi thời chiến sang văn học thời hậu chiến; và từ 1986 trở đi, văn học chính thức bước vào giai đoạn đổi mới một cách toàn diện. So với thơ ca, văn xuôi có nhiều khởi sắc đáng kể hơn. Đây là giai đoạn bừng nở và phát triển mạnh mẽ của văn xuôi. Ở chặng đường thứ nhất, ý thức đổi mới ở các nhà văn được bộc lộ thông qua việc thay đổi cách viết, cách tiếp cận hiện thực đời sống. Một loạt các sáng tác của Nguyễn Khải (Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người), Ma Văn Kháng (Mùa lá rụng trong vườn), Nguyễn Minh Châu (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê), Nguyễn Mạnh Tuấn (Đứng trước biển)… đã khơi dòng cho một hướng tiếp cận mới trong văn học, đặc biệt là sự mở ra các vấn đề thế sự, đời tư. Tuy nhiên, phải đến chặng đường thứ hai mới thấy hết được bối cảnh và không khí đổi mới toàn diện của văn học sau 1975. Nghị quyết 5 về văn hóa văn nghệ (1987) của Bộ chính trị đã khẳng định: Tiếng nói của văn nghệ hiện thực Xã hội chủ nghĩa phải là tiếng nói đầy trách nhiệm, trung thực, tự do, tiếng nói của lương tri, của sự thật. Nhờ sự cổ vũ bởi làn gió dân chủ và cởi mở của Đảng, văn học cũng phát triển mạnh với xu hướng dân chủ hóa trong đời sống xã hội cũng như đời sống tinh thần của con người. Nhiều văn nghệ sĩ đã chân thành bày tỏ suy nghĩ và tâm huyết về văn nghệ. Do đó, văn học trở thành phương tiện cũng như mảnh đất màu mỡ để các nhà văn phát biểu tư tưởng, quan niệm, chính kiến của mình về xã hội, cuộc sống và con người. Họ say sưa với hành trình khám phá cuộc sống và tìm kiếm một lối đi riêng cho mình. Nhiều cây bút đã lựa chọn các thể loại văn xuôi như một phương tiện đắc dụng trong việc thể nghiệm và khám phá hiện thực sâu rộng của cuộc sống. Có thể coi đây là “thời kì vàng” của văn xuôi Việt Nam. Vì ít có bao giờ văn học Việt Nam lại có một đội ngũ nhà văn đông đảo và số lượng tác phẩm đồ sộ, đạt chất lượng như ở giai đoạn này. Bên cạnh những nhà văn đã trưởng thành từ giai đoạn trước đang say mê với những thể nghiệm mới ở những năm đầu sau 1975 như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Quang Sáng, Ma Văn Kháng,… là sự xuất hiện của một loạt cây bút mới như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Quang Lập, Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ, Tạ Duy Anh, 15 Phạm Thị Hoài,… với những sắc thái khác nhau và những đổi mới mà họ đem đến đã làm thay đổi toàn bộ diện mạo của văn xuôi Việt Nam. Văn xuôi nghệ thuật sau 1975 thuộc về “cái đương đại chưa hoàn thành” (M.Bakhatin), quá trình đổi mới diễn ra phong phú, đa dạng, nhiều chiều nhưng rất phức tạp. Đặc biệt vào thời điểm những năm 80 trở đi, đã có những bước chuyển mình rõ rệt với những thay đổi về tư duy nghệ thuật, cảm hứng và cách viết. Nếu như trước 1975, văn xuôi chủ yếu mang khuynh hướng sử thi với cảm hứng ca ngợi, phù hợp với đối tượng cũng như hiện thực mà nó phản ánh, thì đến sau 1975, hiện thực cuộc sống mở ra một trang khác, nó đòi hỏi một cách cấp thiết về sự đổi mới tư duy nghệ thuật. Trong lời kêu gọi “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa”, Nguyễn Minh Châu không cố ý phủ nhận những thành tựu văn học trong quá khứ ở giai đoạn trước mà đó là lời cảnh tỉnh, đòi hỏi văn học phải được trở về chính mình, đúng với bản chất của nó là sự phản ánh chân thực về con người và cuộc sống. Tư duy sử thi ở giai đoạn trước đã được thay thế bằng tư duy tiểu thuyết để phù hợp với nội dung phản ánh là tính đa chiều của cuộc sống. Không chỉ có thể loại tiểu thuyết mà cả với truyện vừa, truyện ngắn, tư duy tiểu thuyết cũng được sử dụng tối đa và ngày càng chiếm ưu thế ở giai đoạn này. Cùng với sự thay đổi tư duy nghệ thuật là sự thay đổi tất yếu các yếu tố cơ bản trong cơ cấu một tác phẩm văn xuôi cả về nội dung như đề tài, chủ đề, cốt truyện, nhân vật lẫn hình thức nghệ thuật như ngôn từ, lời văn, giọng điệu,… Trong sự thức nhận về con người và hiện thực trên bình diện chiều rộng và cả chiều sâu đã tạo nên những hiện tượng văn học mới lạ. Với xu hướng dân chủ hóa đời sống văn hóa văn nghệ, văn học Việt Nam giai đoạn đổi mới đã tìm thấy sự đổi mới qua nhiều khuynh hướng sáng tác. Khuynh hướng nhận thức lại xuất hiện và phát triển khá sôi nổi vào những năm đầu thời kì đổi mới đòi hỏi sự nhận thức lại hiện thực với những mặt trái còn bị che khuất, phê phán những cái xấu cái ác đằng sau những gì được tôn thờ, ca ngợi. Khơi dòng cho khuynh hướng này là tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu. Tiếp sau đó là hàng loạt các tác phẩm xuất hiện vào những năm cuối thập kỉ 80 đến 90 như Bến không chồng của Dương Hướng, Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng, Những thiên đường mù của Dương Thu Hương, Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh,… Bên cạnh đó, khuynh hướng triết luận cũng phát triển khá mạnh mẽ thể hiện sự chiêm nghiệm, triết lý về cuộc đời và con người. Khuynh hướng này không chỉ có ở 16 những nhà văn nhiều từng trải như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải mà còn khơi gợi sự hứng thú, say mê đối với nhiều cây bút thuộc thế hệ sau như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Quang Lập, Phạm Thị Hoài, Hòa Vang,… Gần đây lại xuất hiện loại văn xuôi kì ảo như một sự thể nghiệm và khám phá mới trong sáng tạo nghệ thuật, có thể kể đến các tác phẩm của Nguyễn Khắc Trường, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương,… Dù là sáng tác theo khuynh hướng nào thì đặc điểm chung của văn xuôi sau 1975 đều hướng đến mục đích khám phá đời sống muôn màu muôn vẻ trong cái hằng ngày, trong các quan hệ thế sự và đời tư. Có thể nói, sau 1975, văn học đã từng bước mở ra những chiều kích nhằm khám phá, lý giải đời sống và con người, góp phần xây dựng con người xã hội. Tinh thần đổi mới tư duy, “nhìn thẳng vào sự thật” tạo cơ sở cho người cầm bút có điều kiện nhìn lại văn học, cũng như tìm tòi những hướng đi mới. Nguyễn Đăng Mạnh xem đó là cuộc “tìm đường” của văn học. Cuộc tìm đường này nhằm đưa văn học vào vị trí xứng đáng với cuộc sống văn hóa và xã hội, trả nó về với bản chất của nó. Một trong những đổi mới của văn xuôi giai đoạn này là sự đổi mới quan hệ giữa nhà văn và hiện thực với nhu cầu được “nói thật”. Do đó, những mặt tiêu cực của hiện thực, cái xấu cái ác trong cuộc sống, những điểm đen của con người, đều bị đem ra mổ xẻ, phanh phui đến tận cùng. “Trước năm 1975, văn chương rưng rưng một cảm hứng trước cái cao cả hào hùng. Sau năm 1975, như để trả lại sự cân bằng, cái méo mó nghịch dị, cái phàm tục dơ dáng từng làm dậy hứng cho không biết bao nhiêu sáng tác văn chương” [65]. Hiện ra trong các trang văn xuôi là một hiện thực trần trụi với tính đa sự, đa đoan, cùng những mối quan hệ phức tạp và chằng chịt của nó. Tuy nhiên, cách nhìn và lối viết của văn xuôi hiện đại đã thật sự đổi mới, việc phản ánh hiện thực bị đẩy lùi xuống hàng thứ yếu để nhường chỗ cho việc cắt nghĩa và lý giải thiện thực, và do đó, nhà văn không còn đơn thuần là người kể chuyện, người ghi chép mà còn tham gia vào tác phẩm để cùng đối thoại với nhân vật, hoặc là những nhà tư tưởng, là người phát ngôn,… Sự đổi mới quan niệm về hiện thực tất yếu kéo theo sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người. Ý thức cá nhân trỗi dậy mạnh mẽ và đòi hỏi cần được giải phóng đã làm thay đổi sâu sắc quan niệm về con người trong quá trình sáng tạo của hầu hết các nhà văn ở giai đoạn này. “Con người trong văn học hôm nay được nhìn từ nhiều vị thế và trong tính đa chiều của mọi mối quan hệ: con người với xã hội, con người với lịch sử, con người của gia đình, gia tộc, con người với phong tục, với thiên nhiên, với những người khác và với chính 17 mình” [52;16]. Con người không chỉ được soi xét trên phương diện xã hội mà còn được mở rộng, “đào bới” ở bình diện đời tư cá nhân, những bình diện tồn tại riêng lẻ của những mảnh đời, số phận. Trong khả năng ấy, quan niệm nghệ thuật về con người chẳng những được sâu sắc, đa dạng và phong phú hơn mà còn khẳng định được thành tựu từng bước trong quá trình phát triển của nó. Các nhà văn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Trọng Oánh, Nguyễn Khải, Xuân Thiều, Ma Văn Kháng, Chu Lai, Lê Lựu, Thái Bá Lợi,… đã không ngừng nỗ lực mở rộng những chiều kích về tâm hồn, đạo đức, lối sống, đào sâu con người ở bản thể nhà văn trên cơ sở sở trường của mình, để từ đó có sự nhìn nhận, lý giải riêng về con người hôm nay. Văn xuôi sau 1975 đặc biệt quan tâm đến con người cá nhân, xây dựng được khá nhiều kiểu loại nhân vật, vốn chưa từng có hoặc ít thấy trong giai đoạn trước như: nhân vật cô đơn, con người bi kịch, con người lạc thời, nhân vật tư tưởng, nhân vật kì ảo,… Các nhân vật tồn tại như một nhân cách, một tính cách riêng biệt chứ không còn là một ý niệm. Và nó đã trở thành đối tượng thẩm mỹ quan trọng của văn xuôi Việt Nam đương đại. Do đó, người ta không còn tìm thấy trong văn xuôi hiện đại những kiểu nhân vật điển hình hay nhân vật phiến diện, một chiều mà thay vào đó là sự đa dạng hoặc xung đột về tính cách của con người trong hầu hết các tác phẩm văn xuôi hiện đại. Con người hôm nay được khám phá, soi chiếu ở nhiều bình diện, nhiều tầng bậc, nên “sẵn sàng” bộc lộ hết các mặt tối và sáng, tốt và xấu, khát vọng cao cả và dục vọng tầm thấp hèn, không chỉ có đời sống tình cảm mà còn có đời sống tự nhiên, bản năng, vừa là con người trong tính nhân loại phổ quát, vừa là con người cụ thể, cá biệt. Có thể tìm thấy trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu là con người sám hối, con người thức tỉnh, con người nhận đường và đầy suy tư dằn vặt. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp lại thể hiện sự quan tâm đến con người cô đơn đầy cay đắng. Trong truyện ngắn Nguyễn Quang Lập là con người vừa anh hùng vừa hèn hạ, con người mất mát trong chiến tranh, con người bị tổn thương về tâm hồn. Và với tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, ta có thể tìm thấy những con người vừa đáng ghét vừa đáng thương,… Đặc biệt, các nhà văn sau 1975 có xu hướng nhấn mạnh phần “bản thể tự nhiên” của con người trên tinh thần nhân bản, đề cao đời sống tự nhiên, tình cảm tự nhiên của con người với nhu cầu: con người cần được sống đến tận cùng cá tính. Trên tinh thần đó, các nhà văn ngày càng quan tâm đến đời sống nội tâm của con người, họ ý thức sâu sắc hơn về nhiệm vụ của người cầm bút: “Văn chương là chuyện đời thông qua việc đào bới bản thể ở chiều sâu tâm 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất