ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
HOÀNG DIỆU
ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN LÊ TRÂM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
VĂN HỌC VIỆT NAM
Đà Nẵng - Năm 2022
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
HOÀNG DIỆU
ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN LÊ TRÂM
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 8220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS. TS. NGÔ MINH HIỀN
Đà Nẵng - Năm 2022
iv
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................i
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu .................................................................................. 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 6
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 6
5. Bố cục của luận văn ............................................................................................ 7
CHƢƠNG 1. TRUYỆN NGẮN LÊ TRÂM TRONG SỰ ĐỔI MỚI CỦA
TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI ......................................................... 8
1.1. Những đổi mới cơ bản của truyện ngắn Việt Nam đƣơng đại .................. 8
1.1.1. Đổi mới về quan niệm nghệ thuật........................................................ 8
1.1.2. Đa dạng trong phản ánh cuộc sống .................................................... 10
1.1.3. Dung hợp các kiểu diễn ngôn ............................................................ 12
1.2. Những bƣớc đi mới của truyện ngắn Quảng Nam trong sự đổi mới của
truyện ngắn Việt Nam đƣơng đại ..................................................................... 14
1.2.1. Từ sau 1986 đến 1996........................................................................ 14
1.2.2. Từ sau 1996 đến nay .......................................................................... 16
1.3. Lê Trâm - Cây bút truyện ngắn nổi bật của văn học Quảng Nam đương đại .. 19
1.3.1. Hành trình sáng tạo nghệ thuật của Lê Trâm..................................... 19
1.3.2. Quan niệm nghệ thuật của Lê Trâm .................................................. 20
1.3.3. Truyện ngắn Lê Trâm – một sắc màu nghệ thuật đậm “cá tính Quảng” . 24
Tiểu kết ..................................................................................................................... 26
CHƢƠNG 2. CUỘC SỐNG VÀ CON NGƢỜI TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ TRÂM....27
2.1. Từ nơi đầu sóng ngọn gió Quảng Nam ...................................................... 27
2.1.1. Cuộc sống gian truân mà bình dị ....................................................... 27
2.1.2. Những cuộc dấn thân kiên cường, bạo liệt ........................................ 31
2.2. Đến những hành trình mƣu sinh mới ........................................................ 36
2.2.1. Hành trình thử thách và khát vọng chinh phục .................................. 36
2.2.2. Tin tưởng vào các giá trị tốt đẹp của cuộc đời .................................. 42
Tiểu kết ..................................................................................................................... 48
CHƢƠNG 3 . MỘT SỐ PHƢƠNG THỨC NGHỆ THUẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN LÊ TRÂM ................................................................... 49
3.1. Nhân vật ........................................................................................................ 49
3.1.1. Đa dạng kiểu nhân vật ....................................................................... 49
3.1.2. Nhân vật khắc khoải, chiêm nghiệm về cuộc đời .............................. 52
v
3.2. Không gian và thời gian nghệ thuật ........................................................... 56
3.2.1. Không gian thực tại đan xen hoài niệm ............................................. 56
3.2.2. Không gian văn hóa Quảng Nam....................................................... 60
3.2.3. Đan cài thời gian biến cố và thời gian tâm lý .................................... 65
3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu nghệ thuật............................................................ 69
3.3.1. Ngôn ngữ giản dị, đậm phương ngữ Quảng Nam ............................. 69
3.3.2. Giọng thương cảm, trân trọng, giàu suy ngẫm .................................. 72
Tiểu kết ..................................................................................................................... 77
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 79
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Hòa vào sự phát triển của nền văn học nước nhà, các nhà văn Quảng
Nam - Đà Nẵng những năm 70 của thế kỉ XX đã nỗ lực sáng tạo nên những tác
phẩm mang hơi thở cuộc sống của vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng. Với nhiều
góc nhìn đa dạng về cuộc sống và con người, các nhà văn Quảng Nam - Đà
Nẵng đã tạo nên những tác phẩm nghệ thuật phản ánh đầy đủ hiện thực cuộc
sống giúp con người tự khám phá, hiểu biết, nâng cao niềm tin vào bản thân,
hướng tới chân lý, hướng tới cái đẹp của cuộc đời, góp phần làm đa dạng những
thành tựu của văn học Việt Nam đương đại.
1.2. Lê Trâm được xem là một trong những cây bút nổi bật của văn học địa
phương Quảng Nam - Đà Nẵng. Từ cuối những năm 80 của thế kỷ trước, truyện
ngắn của Lê Trâm, với những tìm tòi, thể nghiệm khá mới mẻ đã tạo được dấu
ấn đặc biệt cho văn xuôi của đất Quảng. Với những câu chuyện đời sống của
những người dân miền Trung nói riêng, con người Việt Nam nói chung, gắn với
những giai đoạn phát triển của đất nước, từ lúc chiến tranh đến thời kỳ đổi mới và
trong đời sống kinh tế thị trường, hội nhập với thế giới hôm nay, Lê Trâm đã thể
hiện rất rõ những khao khát sáng tạo, khả năng tái hiện cuộc sống chân thực và tinh
tế. Truyện ngắn Lê Trâm đã tái hiện một cách đa dạng cuộc sống, con người
Quảng Nam – Đà Nẵng từ khi chiến tranh kết thúc đến nay. Truyện ngắn của Lê
Trâm đã khắc họa nên một thế giới nhân vật đầy màu sắc, sinh động, đậm “chất
Quảng Nam”. Điều này khiến truyện ngắn của Lê Trâm không chỉ được đánh giá
cao trong Văn học Quảng Nam – Đà Nẵng mà còn tạo được thiện cảm với người
đọc.
1.3. Chọn đề tài Đặc điểm truyện ngắn Lê Trâm, chúng tôi mong muốn
thông qua việc tìm hiểu những vấn đề về cuộc sống, con người được phản ánh
trong truyện ngắn Lê Trâm mà phát hiện, làm sáng rõ những đặc điểm nội dung
và nghệ thuật làm nên sự đặc sắc cho truyện ngắn của ông. Qua đó, khẳng định
giá trị truyện ngắn của Lê Trâm, đồng thời khẳng định vị trí cũng như những
đóng góp của nhà văn đối với văn học Quảng Nam – Đà Nẵng nói riêng, văn học
Việt Nam nói chung.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Các nhà nghiên cứu đã có một số bài viết nhận xét về truyện ngắn của Lê
Trâm:
Năm 2017, trên báo Văn nghệ, Phùng Tấn Đông đã chỉ ra nét đa dạng, độc
đáo của thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Trâm. Theo ông, đó là những
2
nhân vật nữ “với hành trang lạ lùng, vừa thông minh vừa đa cảm, vừa có thật mà
cũng rất liêu trai… mang vẻ đẹp đầy tự trọng của tình yêu trong sáng, tận hiến,
vô nhiễm và đầy “thiên tính nữ”” (...) dù có số phận “chìm nổi, bèo bọt” nhưng ở
họ “đều có niềm tin hằng cửu vào tình yêu, vào lòng tốt” và “khôn nguôi hi vọng
về một “tình yêu tìm thấy” ở ngày mai” [47]. Phùng Tấn Đông cũng nhận thấy
các nhân vật nam trong trong truyện ngắn Lê Trâm là “những nhân vật của
“ngổn ngang ký ức và thời gian” với bao hoài niệm đẹp đẽ” (....) “đầy cá tính,
trung thực, tài hoa, lịch lãm”, “mang hồn cốt quê kiểng thơm” Đó là “những
nhân vật xưng tôi (....) lúc nào cũng đau đáu phân thân giữa thực tại và tương lai,
nội giới và ngoại cảnh, trẻ con và người lớn... khi thì là thằng tôi thất bại vừa
thương yêu, chia sẻ với cộng đồng, vừa sống với huyền tích đầy ám ảnh của làng
xóm vừa nổi điên … là những thân phận dở dang nhưng đầy ám ảnh với mộng,
thực mờ nhoà” [47].
Qua quan sát về các tuyến nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong
truyện ngắn của nhà văn Lê Trâm, Tây Bình nhận định: “Tuyến nhân vật trong
tập truyện giăng mắc giữa xô bồ và bị xua đuổi, muốn đi tìm chính mình. Trong
cuộc trốn chạy ấy, họ ngã vào thiên nhiên hòng mong sự giải thoát nhưng cuối
cùng vẫn chấp chới ”. Ông cho rằng, Lê Trâm đã “không đẩy nhân vật của mình
đến cạn cùng, quyết liệt mà cứ lưng lửng, chơi vơi”[42] và LêTrâm chọn “những
bến sông, bãi biền, Lê Trâm đẩy nhân vật của mình ra không gian không giới
hạn, để từ đó bật lên bản ngã trong cuộc tìm kiếm đục - trong, khát khao được
sống đúng với mình…” [42].
Cũng nhận xét về các tuyến nhân vật trong truyện ngắn Lê Trâm, Nguyễn
Tấn Ái trong bài viết Nhân vật và giọng điệu đã khẳng định: “những nhân vật
chính diện chưa bao giờ có cơ hội làm nhân vật chính trong truyện của Lê Trâm
(...).Nhân vật được nói đến, là những nhân vật chưa được phép có diễn ngôn dù
họ là cái phần tốt đẹp mà chuỗi diễn ngôn của nhà văn hướng đến. Ấy là khi
nhân vật chính bỏ cuộc để nhận ra nhân vật chính của cuộc đời lẽ ra không phải
là họ. Như có một ẩn ức phi lý trong xử lý nhân vật của nhà văn. Ẩn ức phi lý ấy
còn được dẫn dụ bởi hình tượng nhân vật chính lắm khi cứ như kẻ ngốc giữa
cuộc đời, chao đảo ngả nghiêng bên lằn ranh thiện-ác” [41].
Nguyễn Hiệp đã phát hiện về con người trong truyện ngắn của Lê Trâm:
“Số phận con người vốn đầy những ảo giác, ảo giác về tình yêu, ảo giác về bước
đường hoàn lương, ảo giác về những ước mơ trở thành hiện thực. Không phải chỉ
cuộc lạc rừng tuyệt vọng mà chính là cuộc lạc giữa xã hội người lúc ấy đã nhấn
chìm nhân vật chính của truyện trở thành một thứ hiện thân của ảo giác, của thất
3
bại, của hư đốn và của những bước chân chậm trễ trong cuộc đời” [52]. Truyện
ngắn Lê Trâm còn là “tập họp những lát cắt thật đến run rẩy, sâu đến mơ hồ,
những rung động, những đớn đau chính là thứ ranh giới- không ranh giới trong
các ngăn kí ức đời người. Và đó chính là đời, là con người, là hiện sinh, là cái tôi
sống, yêu thương, giận hờn, nhẫn nhục, lầm lạc, vươn lên, chịu trách nhiệm…
Hiểu biết về nhiều mặt của nhân tính chính là hiểu sâu về con người vậy” [52].
Trong bài viết Đất và người xứ Quảng trong truyện ngắn Lê Trâm, Phạm
Phú Phong đã có những nhận xét về quan niệm nghệ thuật về con người của Lê
Trâm: “Nhân vật của Lê Trâm là con người quá khứ, quan niệm nghệ thuật về
con người của anh cũng dưới góc nhìn quá khứ - một quá khứ chiến tranh như
một vết cắt của lịch sử mà nhiều lần anh đã lặp đi lặp lại” (…) “con người hiện
tại để hồi ức về quá khứ, trước khi kể chuyện quá khứ đều bắt đầu bằng hiện
tại” (…) “bao lo toan trong cuộc sống bộn bề thời bình với một cảm quan hiện
thực hết sức chân thực về công cuộc mưu sinh, quan niệm về lối sống, về tình
yêu, về trạng thái của con người hiện đại không cô đơn nhưng mà cô độc,
hoặc những dấu vết văn hóa hư ảo khoác màu sắc tâm linh” [54].
Nhà văn Nguyễn Nhã Tiên với bài viết Mười năm một lối đi đã chỉ ra cái
nhìn mới về con người và cuộc sống của Lê Trâm trong truyện ngắn: “Cảnh
vật mười mươi hiện thực, ngoại trừ các nhân vật. Có thể nói, yếu tố huyền ảo
làm nên sức sống thẩm mỹ trong truyện ngắn Lê Trâm, mà dấu vết của nó ẩn
dụ rõ sự mong manh qua hình tượng nhân vật đối thoại. Con người gặp nhau
trong biên giới thực và hư, vừa cụ thể vừa mơ hồ bất định, đó cũng là chiều
kích ý niệm của truyện” [ 56].
Bài viết Truyện ngắn Lê Trâm và Những cuộc hội nhập, Phan Văn Minh
đánh giá cách Lê Trâm đề cập đến con người trong truyện ngắn: “Dường như
con người hiện tại chỉ là những cá thể mờ nhạt và bất lực trước hiện thực. Trong
từng mẩu chuyện lại là những sự kiện, những số phận, những văn bản tư liệu,
những liên tưởng chồng lấn, đồng hiện với nhau. Tất cả những điều trên hình
như chỉ có một tương quan duy nhất là từng tồn tại, từng xảy ra bên một dòng
sông mà nguồn gốc vốn không được chính danh. Ở đó có những ký ức không
mấy êm đềm của tuổi thơ, có nỗi ám ảnh về con bò cái nước mắt ròng ròng, bốn
chân bíu lấy đất không dám bước vào lò sát sinh” [51].
Trong bài viết Nhà văn Lê Trâm cô đơn vì phía gió biển không còn ai Lê
Công Sơn đã đưa ra nhận xét về cách nhìn của Lê Trâm về cuộc sống: “Một số
truyện còn lại bám theo dòng chảy của cuộc sống đương đại, cố gắng thoát khỏi
sự mô tả để tìm những điều ẩn giấu đằng sau sự biểu hiện bên ngoài ấy nhìn
4
nhận ra bản chất của con người, từ đó ông chiêm nghiệm về sự sống, cái chết,
hơn thua mất còn, giàu nghèo, sang hèn…” [ 55].
Lê Đức Thịnh khi tiếp cận những truyện ngắn của Lê Trâm đã nhận xét về
nội dung và nghệ thuật truyện ngắn của nhà văn: “Mỗi câu chuyện mang bóng
dáng đời thường được tác giả nhặt ra từ dòng ký ức trải dài từ tuổi thơ theo đến
tận kiếp người gắn với quê hương xứ Quảng với bao biến cố của tự nhiên và xã
hội: lũ lụt - những dòng sông bên lở bên bồi, chiến tranh - trại định cư, con
người - số phận” [59]. “Lê Trâm nhẩn nha trong từng câu chữ và sự kiện; không
dồn nén nhưng cuốn hút người đọc từ chuyện đến truyện mà trong đó có trăn trở
từ đời sống không cùng nhưng cứ tuần tự trôi vèo một kiếp người” [59].
Nhà nghiên cứu Phạm Phú Phong đã nhấn mạnh cách Lê Trâm chạm đến
hiện thực cuộc sống con người trong truyện ngắn: “chất liệu hiện thực đã lui vào
quá vãng, nhưng không chịu ngủ yên, mà đầy ắp, quẫy đạp, sinh sôi, đòi phải
hiện hình ra trang giấy” [54].
Trong bài viết Hình bóng thời gian trong truyện ngắn Lê Trâm Lê Công
Sơn cũng đưa ra nhận định về mối quan hệ giữa hiện thực cuộc sống và thời gian
nghệ thuật trong truyện ngắn Lê Trâm: “Cái ngưng đọng hay vèo trôi của thời
gian trong truyện Lê Trâm thường gắn cụ thể với vùng đất Quảng quê anh.
Những con người của đồng đất xóm bãi nghèo xơ bơ xấc bấc, tuổi nhỏ đi học thì
hai mùa mưa nắng qua sông đều cực, lớn lên chiến tranh ly loạn, người tản cư,
người bám làng chiến đấu, người còn người mất, rồi hết giặc về dựng lại mấy
mái tranh, cày ruộng, vô hợp tác, rồi khoán, cũng qua một kiếp người và người
đang nằm trên chõng tre chờ về với đất, trong ấm nồng tình làng nghĩa xóm”
[55].
Phan Văn Minh nhận định cách vận dụng thủ pháp nghệ thuật của Lê Trâm:
“tốc độ hành văn của anh “chảy” nhanh hơn, ít bị ngưng trệ bởi những phân tích,
suy nghiệm vụn vặt thường thấy trong những truyện trước đây. Một điều đáng
ngạc nhiên là tuy mới “hội nhập” vào “sân chơi” hậu hiện đại, nhưng tất cả
những thủ pháp của anh đã khá liền mạch, ít bị lộ diện vết chắp vá vụng về như ở
một số tác giả khác” [51], đồng thời Phan Văn Minh cũng đã nhận định người
đọc sẽ nhận diện ở Lê Trâm “Một số truyện ngắn của Lê Trâm đã đánh dấu
một gương mặt mới trong những cây bút văn xuôi trẻ nổi bật ở Quảng
Nam - Đà Nẵng, độc giả sẽ say đắm trong chất trữ tình và sự tinh tế trong
ngôn ngữ. Bên cạnh đó, trong một chừng mực, anh cũng tiếp nhận và thể nghiệm
những xu hướng và thủ pháp mới của văn xuôi đương đại" [51].
5
Trong bài viết Chữ bầu lên nhà văn Lê Trâm, Lê Đức Thịnh cũng đã đưa ra
nhận xét về không gian nghệ thuật và kết cấu trong truyện ngắn Lê Trâm:
“Nương theo những không gian mà tác giả đã dẫn dắt bạn đọc từ làng quê đến
phố thị, từ đồng bãi đến núi đồi, từ “Ven đô” chộ rộ đến “Phía gió biển không
còn ai”… để thấm thía với những câu chuyện giản dị, gần gũi; có khi là đời
thường, có khi là chuyện của đời sống không cùng nhưng cứ tuần tự “trôi vèo
một kiếp người”; có lãng mạn làm xao động mạch nhịp trái tim “vừa hồn nhiên
vừa cuồng nhiệt”, có hiện thực cụ cựa ám chặn trong từng số phận hữu danh hay
vô danh và đôi khi có không khí liêu trai ám ảnh hư thực ma mị trong “đêm của
bướm” khiến người trong cuộc “lạnh buốt sống lưng” [60]. Bài viết cũng đã nêu
“và đến khi kết truyện… thoáng có tí nuối tiếc; nhưng cũng có cái cảm giác mãn
nguyện vì cái độ gợi mà tác giả mở ra cho bạn đọc trong tưởng tượng không
cùng đầy nhân văn nhân tình nhân nghĩa” [60].
Nhà văn Nguyễn Nhã Tiên trong Mười năm chọn một lối đi đã chỉ ra cách
tái hiện và bày biện không gian trong truyện ngắn của Lê Trâm: “ bày biện một
không gian, một thế giới tưởng cụ thể đến từng thước tấc của núi, cụ thể đến
từng tên đất tên người, cả những tên cỏ cây hoa lá... cảnh vật mười mươi hiện
thực” [56].
Bài viết Chút hương cỏ xưa nơi xứ rượu hồng đào của Nguyễn Nhã Tiên đã
chỉ ra nét đặc biệt trong văn phong truyện ngắn của Lê Trâm: “thế giới đó không
còn là ngoại giới - một đối tượng để mô tả, mà là thế giới tự nội, từ đấy những
nhân vật của nhà văn bước ra… Nếu hiểu bút pháp như là thứ của riêng mỗi nhà
văn thì cái cách hành văn nhẹ nhàng mà đằm sâu, giản dị mà sáng sủa, tất cả đã
tạo nên một phong cách Lê Trâm đĩnh đạc, điềm tĩnh, chừng như anh xa lạ với
những phong cách phóng túng, cầu kỳ” [57].
Qua bài viết Nhân vật và giọng điệu, Nguyễn Tân Ái khẳng định: “…Sức
hấp dẫn của truyện không chỉ ở một bút pháp giàu chất thơ, mà ở những vỉa ý
nghĩa cũng mơ hồ thoáng qua, nó tự phá bỏ hình hài để nỗ lực đi tìm một đối
thoại ngoài mình. Và như thế, phần lớn các truyện ngắn của Lê Trâm là những
truyện chưa hoàn chỉnh, nó dành để một biên độ mở cho người đọc” [41].
Tóm lại, có thể nhận thấy, các nhà nghiên cứu đã có nhiều bài viết quan
tâm đến một số khía cạnh trong truyện ngắn của của Lê Trâm nhưng chưa có
công trình nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn Lê Trâm một
cách hệ thống. Vì vậy, nghiên cứu Đặc điểm truyện ngắn Lê Trâm, nếu làm tốt
sẽ có được cái nhìn hệ thống về đặc điểm nội dung và nghệ thuật của truyện
ngắn Lê Trâm, đánh giá được những sáng tạo của Lê Trâm ở thể loại truyện
6
ngắn góp phần khẳng định những đóng góp của ông đối với văn học Quảng
Nam - Đà Nẵng nói riêng, truyện ngắn Việt Nam nói chung.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các tập truyện ngắn của Lê Trâm,
gồm:
Lai lịch một thành hoàng (1992), NXB Hội VHNT Quảng Nam - Đà Nẵng.
Tìm lại thời gian (1999), NXB Đà Nẵng.
Một giấc hồ điệp (2007), NXB Hà Nội.
Phía gió biển không còn ai (2016), NXB Trẻ.
Đêm nguyệt bạch (2018), NXB Trẻ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đặc điểm của truyện ngắn Lê Trâm được thể hiện ở hai phương diện nội
dung và nghệ thuật. Trong đó có những vấn đề về cuộc sống và con người xứ
Quảng, các phương diện nghệ thuật biểu hiện trong truyện ngắn Lê Trâm.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài Đặc điểm truyện ngắn Lê Trâm, chúng tôi sử dụng các
phương pháp sau:
4.1. Phương pháp cấu trúc - hệ thống
Cấu trúc truyện ngắn Lê Trâm thành một hệ thống để xem xét các yếu tố
nổi bật được thể hiện trong nội dung và nghệ thuật truyện ngắn Lê Trâm theo hệ
thống đã xác định.
4.2. Phương pháp phân tích - tổng hợp
Khảo sát từng phương diện nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm, từ đó
rút ra đặc điểm truyện ngắn của nhà văn Lê Trâm.
4.3. Phương pháp so sánh- đối chiếu
Tiến hành so sánh đối chiếu truyện ngắn của Lê Trâm với một số truyện
ngắn của các nhà văn: Quế Hương, Đà Linh, Nguyễn Hiệp, Lê Hoài Lương, …
để thấy được sự tương đồng và khác biệt trong sáng tác của Lê Trâm với các nhà
văn này, qua đó có cái nhìn rõ hơn về những đóng góp của Lê Trâm trong tiến
trình phát triển của văn xuôi miền Trung nói riêng và dòng chảy văn học đương
đại nói chung.
4.4. Phương pháp nghiên cứu văn hoá học
Vận dụng kiến thức ngành văn hóa học để giải thích ý nghĩa của biểu tượng
văn hóa và qua đó nhận diện, khẳng định sự ảnh hưởng của những yếu tố văn
hóa đến cuộc sống và con người trong truyện ngắn Lê Trâm.
7
Ngoài ra trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi còn sử dụng thêm các
phương pháp nghiên cứu hỗ trợ khác.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung luận văn
gồm có ba chương:
Chương 1: Truyện ngắn Lê Trâm trong sự đổi mới của truyện ngắn Việt
Nam đương đại
Chương 2: Cuộc sống và con người trong truyện ngắn Lê Trâm
Chương 3: Một số phương thức nghệ thuật trong truyện ngắn Lê Trâm.
8
CHƢƠNG 1
TRUYỆN NGẮN LÊ TRÂM TRONG SỰ ĐỔI MỚI
CỦA TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
1.1. Những đổi mới cơ bản của truyện ngắn Việt Nam đƣơng đại
1.1.1. Đổi mới về quan niệm nghệ thuật
Đổi mới không chỉ là quá trình vận động nội tại, tự thân của văn học mà
còn là quá trình lịch sử khách quan diễn ra dưới tác động của rất nhiều yếu tố có
quan hệ biện chứng với nhau. Sau 1986, dưới tác động của quá trình giao lưu,
hội nhập quốc tế cùng những thay đổi hệ giá trị văn học và đạo đức thẩm mỹ,
văn học Việt Nam đã có nhiều đổi mới về quan niệm nghệ thuật. Trong quan
niệm của các nhà văn, đối tượng phản ánh, khám phá được mở rộng một cách
toàn diện. Hiện thực không chỉ là các biến cố lịch sử và đời sống cộng đồng mà
còn là cuộc sống hàng ngày với các quan hệ thế sự đa đoan, phức tạp chằng chịt
những mạch nổi và mạch ngầm của đời sống. Hiện thực đó còn là đời sống cá
nhân con người với những vấn đề riêng tư, số phận, nhân cách, với khát vọng,
hạnh phúc và bi kịch. Quan niệm mới về hiện thực cùng cái nhìn cá thể, vốn tri
thức phong phú của các nhà văn khiến truyện ngắn đương đại có được nhiều thay
đổi mang tính “bước ngoặt”, cuộc sống con người với các mặt sáng tối đã được
nhận diện, khám phá, khai thác một cách bản chất, từ chiều sâu nhân bản. Các
tác phẩm của Nguyễn Mạnh Tuấn (Đứng trước biển, Cù Lao Tràm); Dương Thu
Hương (Bên kia bờ ảo vọng); Hồ Anh Thái (Trời vẫn sáng suốt đêm, Ngồi
đường, Trong muốn ra ngoài muốn vào, Vốc nước trong lòng bàn tay)…; Y Ban
(Bây giờ con mới hiểu, Bức thư gửi mẹ Âu cơ, Ai chọn dùm tôi, Biển và người
đàn bà); Nguyễn Ngọc Tư (Ngọn đèn không tắt, Nắng nghịch mùa, Một mối
tình, Cố định một đám mây, Ngày mai của những ngày mai, Cuối mùa nhan sắc,
Không ai qua sông)... đã cho thấy những nỗ lực đổi mới quan niệm nghệ thuật
của các nhà văn, đánh dấu sự đổi mới về tư duy văn học, sự thay đổi trong cách
nhìn nhận về mối quan hệ giữa văn học và cuộc sống, trong cách tiếp cận và
phản ánh hiện thực của nhà văn.
Để bắt nhịp với những tiến bộ của văn học thế giới và nâng cao giá trị của
văn học, các nhà văn Việt Nam từ sau 1986 rất chú ý đến việc đổi mới quan
niệm nghệ thuật về con người. Có thể thấy con người trong truyện ngắn đương
đại đã được thể hiện một cách mới mẻ. Con người không còn được lí tưởng hóa,
thần thánh hóa mà được nhìn nhận như nó vốn có. Các cây bút truyện ngắn
đương đại quan tâm nhiều đến con người tự nhiên, từ nhiều góc độ, trong tính
9
toàn vẹn của nó, coi bản năng tự nhiên như một “lực sống” của con người (theo
cách diễn đạt của Freud). Điều này khiến con người hiện ra trong truyện ngắn
đầy đặn và sống động hơn. Nguyễn Huy Thiệp (Tướng về hưu, Muối của rừng,
Không có vua, Con gái thủy thần, Những người thợ xẻ, Những ngọn gió hua tát,
Thương nhớ đồng quê, Sang sông); Võ Thị Hảo (Biển cứu rỗi, Người sót lại của
Rừng Cười, Ngậm cười… Góa phụ đen, Hồn trinh nữ, nghịch tử…); Y Ban
(Người đàn bà có ma lực, Chuyện nhỏ xóm nghèo, cõi thù hận, Mỗi người đàn
ông chỉ của riêng một người đàn bà, Cưới chợ…); Trần Thùy Mai (Đêm tái sinh,
Biển đời người, Mưa đời sau, Thương nhớ Hoàng Lan, Trò chơi cấm ….)
Các nhân vật trong truyện ngắn đương đại đa phần “thành công là sự xuất
hiện những nhân vật tuy sống trong một bối cảnh khắc nghiệt, cam go, những số
phận có thể là nạn nhân nhưng không đánh mất bản ngã, không phải để “tồn tại”
mà để “sống” ... Những vết thương tinh thần không thấy rõ đối phương, con
người trăn trở vật vã để vượt qua, trước hết để vượt qua mình. Con người không
thuần nhất, đầy tâm trạng trong cuộc vận động mưu sinh, hoàn cảnh sống khắc
nghiệt, cạm bẫy rình rập, đời sống của họ - một đồ thị hình sin cách quãng, chao
đảo, phân ly, nhưng ánh sáng thiên lương vẫn không hề bị dập tắt, dẫu “trầy trật”
trên mỗi bước đi, luôn“ tự vấn” hướng về chân lý và điều thiện ”[66], điều đó
được thể hiện rõ qua các nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Bảo
Ninh, Nguyễn Ngọc Tư, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn
Bình Phương, Nguyễn Quang Thân, Chu Lai, Trần Thuỳ Mai, Ban, Võ Thị
Xuân Hà, Sương Nguyệt Minh...
Nhiều kiểu nhân vật, như nhân vật tha hóa, nhân vật bản năng, dị biệt,
người điên hay kẻ lạc loài... xuất hiện, có tri thức, bình tĩnh, năng động, bản lĩnh
và quyết đoán hơn, dám làm dám chịu, được đặt vào nhiều trạng huống phức tạp
của đời sống bản năng cũng như đời sống tâm linh. Dạ Ngân (Con chó và vụ li
hôn, Kẻ yêu chồng, Đừng nói điều ân nghĩa, vòng tròn im lặng, Bệnh nhân định
kì.. ); Thùy Linh (Gió mưa gửi lại, giao thừa, Cổ tích cho đàn ông, Đừng rung
cây mùa lá rụng, Niệm khúc thiên nga..);… Quá khứ, hiện tại, thực, mộng trộn
lẫn, những triết lý nhân sinh xâu chuỗi chiết toả trong các thân phận, kiếp
người... Trừ một số ít lạc lõng, đa phần những trang viết về nhục cảm, về cái
“bản năng gốc” dục tính của con người khá đầy đặn, mềm mại khơi gợi sự đồng
cảm thẩm mỹ, không thô thiển thuần tuý bản năng. Đa phần các tác giả thể hiện
lối viết mới trong sự thể hiện tính cách nhân vật bằng sự phát triển các thủ pháp
nghệ thuật truyền thống như pha tạp yếu tố ngôn ngữ đời thường dân dã; đi sâu
10
vào các tầng ký ức; thể hiện yếu tố nhục cảm lành mạnh; mở rộng tính kỳ ảo
sang địa hạt tâm linh vô thức…
Trong truyện ngắn Việt Nam đương đại, có thể thấy, con người đời thường,
phàm tục, không hoàn hảo, được khám phá ở nhiều tầng bậc, nhiều chiều trong
mối quan hệ vốn có của nó, vừa như một sự đối thoại với quá khứ vừa là sự đề
xuất hệ, giá trị nhân bản mới để đánh giá con người. Có thể thấy rất rõ điều này
qua các nhân vật phụ nữ. trong các truyện ngắn của Dương Hướng (Người đàn
bà trên bãi tắm), Y Ban ( Người đàn bà đứng trước gương, Người đàn bà sinh ra
trong bóng đêm, Người đàn bà và những giấc mơ), Nguyễn Thị Thu Huệ (Thiếu
phụ chưa chồng, Người đàn bà ám khói, Xin hãy tin em, Chị tôi, Của để
dành,…); Đỗ Bích Thúy (Người đàn bà đẹp, Cuối mùa bạch yến, Sương khói mịt
mờ…); … Một số truyện xuất hiện các nhân vật phản diện trong quá khứ, những
kẻ ở thế giới đối lập, được thể hiện trong một cảm quan đầy tính nhân văn: là kẻ
địch, kẻ xấu nhưng xấu trong cái bản thể “người” chứ không hoàn toàn thuộc thế
giới “vô nhân tính”, với cộng đồng không đứt hẳn Nguyễn Trí Huân (Chim én
bay).
Sau 1986, văn chương nghệ thuật dần được coi là một “sân chơi” tự do của
cá nhân, là trò chơi ngôn ngữ nghệ thuật, ở đó, các nhà văn có thể khám phá
chiều sâu số phận con người, cả vô thức, tiềm thức và ý thức, cả niềm vui và nỗi
đau, cả hy vọng và tuyệt vọng, cả anh hùng và bi kịch.
Sự thay đổi quan niệm về văn chương nghệ thuật của các nhà văn được thể
hiện qua hệ thống đề tài, cách miêu tả cuộc sống, cách xây dựng tình huống, cốt
truyện, hình tượng nhân vật. Sự đa dạng của quan niệm nghệ thuật trong văn
xuôi đương đại nói chung, truyện ngắn đương đại nói riêng đã không thuần nhất
như trước mà trở nên, tạo nên những “sắc màu” khác nhau, trong tư duy mới,
cách viết, góp phần tạo nên những thành tựu đa thanh, đa sắc cho truyện ngắn
Việt Nam đương đại. Các truỵện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh,
Nguyễn Bình Phương, Võ Thị Hảo, Y Ban, Nguyễn Ngọc Tư, Phan Thị Vàng
Anh, Nguyễn Đình Tú, Đỗ Bích Thúy, Bùi Anh Tấn, Trần Thùy Mai,…. không
chỉ làm nên một hệ hình quan niệm nghệ thuật mới cho truyện ngắn mà còn góp
phần đưa Văn xuôi Việt Nam thoát khỏi những lối mòn quen thuộc, có được
những thành tựu mới trong quá trình vận động và phát triển.
1.1.2. Đa dạng trong phản ánh cuộc sống
Từ sau 1986 đời sống văn học ở Việt Nam trở nên rất đa dạng, phong phú.
Các nhà văn đã rất nhạy bén và linh hoạt trong cách tiếp cận, lý giải nhiều vấn đề
của đời sống. Với sự năng động của thể loại và tầm nhìn mở rộng của người viết
11
về phạm vi, phương diện phản ánh, truyện ngắn đã tích cực đào xới và nghiền
ngẫm cuộc sống bằng cái nhìn phản ánh chân thực và đa diện, gây ấn tượng với
người đọc.
Cuộc sống được phản ánh khai sáng ở nhiều góc cạnh bằng con mắt khách
quan, đi sâu tìm hiểu, lý giải ở nhiều tầng bậc cùng sự hướng đến những số phận
con người cụ thể. Nhiều tác phẩm truyện ngắn đương đại đã gây ấn tượng với
người đọc bằng cách phản ánh chân thực cuộc sống bằng bản chất vốn có của nó,
từ đó những giá trị nhận thức, đạo đức, thẩm mĩ của đời sống được bộ lộ, lột trần
các dối trá, phơi bày mọi ung nhọt, xé toạc mọi mặt nạ Phong Điệp (Kẻ dự phần,
Phòng trọ, Vườn hoang); Phan Hồn Nhiên (Giờ xanh, Ván cờ, Té giếng, Những
mưa ngày lạ, Khi tôi 64 ); Hồ Anh Thái (Trời vẫn nắng suốt đêm); Thùy Dương
(Đường Trần)...; Nguyễn Ngọc Tư (Nước chảy mây trôi, Đau gì như thế, Biển
người mênh mông, Ngổn ngang); Dương Hướng (Người đàn bà trên bãi tắm,
Khoảng trời riêng).
Cuộc sống trong truyện ngắn Việt Nam đương đại không chỉ hiện lên bằng
những khuôn hình chân thực, nhiều màu sắc mà còn bằng những góc khuất, sự bí
ẩn của đời sống và tâm hồn con người, mang chuyển các thông điệp về sự biến
đổi lối sống đạo đức thực trạng bi hài của đời sống trong thời kinh tế thị trường
sự xung đột giữa nhu cầu cá nhân với hoàn cảnh... ở cả thành thị lẫn nông thôn.
Sự đa dạng trong phản ánh cuộc sống ở truyện ngắn Việt Nam đương đại thể
hiện rõ ở việc các nhà văn đặc biệt quan tâm đến con người cá nhân. Bằng việc
tái hiện những trạng thái đời sống, trạng thái nhân thế, các nhà văn đã phân tích
lý giải và chiêm nghiệm hiện thực. Cảm hứng thế sự đời tư khiến các trăn trở về
giới và tính dục, về không gian sống, vấn đề cá tính, tình yêu, hạnh phúc cùng sự
đổ vỡ, chén cơm manh áo đời thường, sự ti tiện ích kỷ cá nhân, con người giành
giựt nhau trong đời sống kinh tế, khát vọng chinh phục và khẳng định... của con
người được bộ lộ rõ nét.
Truyện ngắn đương đại phản ánh muôn mặt của đời sống xã hội, từ những
vấn đề truyền thống, lịch sử của Nguyễn Ngọc Tư (Ngọn đèn không tắt), Nguyễn
Thế Hùng (Người giữ cồn); Nguyễn Bình Phương (Thế giới của Kim); Hồ Anh
Thái (Chín Triệu, Ba Triệu, Hai Triệu và Bóng rổ) đến sự suy đồi đạo đức, sự
tha hoá của con người trong cuộc sống nghiêng ngả của thời kinh tế thị trường
Hồ Anh Thái (Cây hoàng lan hoá thành cây si); Nguyễn Quang Thân (Vũ điệu
của cái bô…). Một số truyện ngắn đi vào đề tài triết lý, suy ngẫm Phan Thị Vàng
Anh (Khi người ta trẻ, Hoa muộn, Hội chợ, Sau những hẹn hò, Si tình); Nguyễn
Ngọc Tư (Sầu trên đỉnh Puvan…). Trong đề tài tình yêu, thường là sự đổ vỡ, kết
12
thúc trong bi kịch Tạ Duy Anh (Đêm hoá thạch); Phạm Hải Anh (Lạc…). Đồng
thời truyện ngắn đương đại còn quan tâm đến những khao khát của con người về
vật chất lẫn tinh thần.Y Ban (Đất ải…); Nguyễn Việt Hà (Vẫn chỉ là mây
trắng…); Nguyễn Thế Hùng (Ngược sáng…).
Các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp (Phẩm Tiết, Sống dễ lắm, Chảy đi
sông ơi, Huyền thoại Mẹ, Kiếm sắc ), Nguyễn Ngọc Tư (Hành lý hư vô, Gáy
người thì lạnh, Không ai qua sông, Xóm cũ, Cuối mùa nhan sắc), Đỗ Bích Thúy
(Sau những mùa trăng, Ngải đắng ở trên núi, Đêm cá nổi), Phong Điệp (Ban
mai lạnh, Ma mèo, Người phía bên kia đường, Giấc mơ bay qua cửa sổ, lạc
chốn thị thành), Uông Triều (Đôi mắt Đông Hoàng, Bò Hoang Phố Cổ, Hà
Nội Dấu Xưa, Phố Cũ, Hà Nội Quán Xá Phố Phường)… diễn tả thái độ,
hành động, suy nghĩ của con người, của sự đen tối, của giá trị đồng tiền, với
sự bao quát các vấn đề cuộc sống góp phần tạo nên sự cân bằng, sự hài hòa
cho nhịp sống văn học đương đại và những đổi mới, cách tân nghệ thuật đã
tạo nên bức tranh sinh động của truyện ngắn Việt Nam đương đại, thực sự
lôi cuốn người đọc.
Con người luôn ý thức sự hữu hạn của chính mình trong hành trình sống, từ
tuổi thọ, khả năng chinh phục thế giới và bản thân, nỗi cô đơn, đến tình yêu, sự
sáng tạo. Sự ý thức này khiến con người có thể nhận thức, cảm nhận để được vui
sướng, tự hào, hoặc bất lực, bi đát, khôi hài, nhục nhã, cay đắng… qua đó họ thể
hiện sự tồn tại những cá tính, những tư chất riêng, năng lực phẩm chất riêng,
nhân cách riêng để khẳng định sự hiện hữu của chính cá nhân đó.
Từ những góc nhìn mới, các nhà văn đã phản ánh hiện thực cuộc sống một
cách đa dạng, nhiều chiều nhằm tìm kiếm các giá trị nhận thức, đạo đức, thẩm mĩ
của đời sống, đảm bảo sự tiến bộ của xã hội. Với sự đa dạng trong phản ánh cuộc
sống, truyện ngắn Việt Nam đương đại đã có được những cái nhìn mới về thế
giới bên trong con người, tạo nên sự bứt phá trong cách phản ánh và thực hành
những thủ pháp nghệ thuật mới, tiếp cận và hội nhập được với văn học thế giới.
1.1.3. Dung hợp các kiểu diễn ngôn
Diễn ngôn văn học là một hình thái nghệ thuật ngôn từ với sự thống nhất
hữu cơ giữa tư tưởng, nội dung và hình thức văn học, nơi phát sinh các tư tưởng,
không gian con người, không gian xã hội, tâm lí và những sáng tạo mới trong đời
sống.
Sự thức tỉnh của cái tôi nhà văn, khát vọng vượt thoát cái cũ, tìm kiếm cái
mới trong sáng tạo nghệ thuật về cuộc sống mới. Khi mà những chuẩn mực, chân
lí chỉ là tương đối; lúc mọi giá trị đời sống biến thiên một cách mạnh mẽ, bản
13
thân người cầm bút cũng phải không ngừng đổi mới chính mình trong tư duy và
lối viết. Sự đổi mới quan niệm nghệ thuật, đổi mới tư duy sáng tạo của các nhà
văn Việt Nam đương đại còn được biểu hiện bằng ý thức sử dụng các kiểu diễn
ngôn nhằm lột tả những vấn đề cấp thiết của cuộc sống. Diễn ngôn tính dục, diễn
ngôn chính trị, diễn ngôn tôn giáo, diễn ngôn nữ quyền…đã trở thành những
khái niệm quen thuộc, được các nhà văn sử dụng thường xuyên trong truyện
ngắn. Sự dung hợp các kiểu diễn ngôn trong truyện ngắn đã làm thay đổi khuôn
diện của truyện ngắn truyền thống tạo những giá trị mới cho truyện ngắn đương
đại. Trong các tác phẩm I am đàn bà của Y Ban, Thiếu phụ chưa chồng của
Nguyễn Thị Thu Huệ, Con chó và vụ li hôn của Dạ Ngân, Bóng đè của Đỗ
Hoàng Diệu... sự dung hợp của diễn ngôn tính dục và diễn ngôn nữ giới, đã bộc
lộ tư tưởng, quan niệm, tình cảm của các nhà văn về bản năng của con người
cũng như các giá trị đời sống đồng thời khẳng định dấu ấn riêng của họ trong
truyện ngắn đương đại. Hay trong những sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp (
Tướng về hưu, Sang sông, Kiếm sắc, Muối của rừng, Sống dễ lắm), Nguyễn
Ngọc Tư ( Cánh đồng bất tận, Cố định một đám mây, Mùa linh ái nở, Như nước
mắt, Chỉ có gió trả lời câu hỏi, Mưa mây), Nguyễn Đình Tú (Những chàng trai
sống cùng hoa săng đắng, Đoản khúc Mùa Thu, Những bước nhảy trong đêm),
Bùi Anh Tấn ( Cô đơn, Tình trai, Bướm đêm, Bụi đường, Biển cạn, Trái tim tội
lỗi)… sự xuất hiện và kết hợp hài hòa giữa diễn ngôn tôn giáo với diễn ngôn
chính trị, diễn ngôn tính dục, khiến tác phẩm mang tính thời đại và lôi cuốn độc
giả. Chính sự dung hợp các kiểu diễn ngôn trong truyện ngắn Việt Nam đương
đại đã giúp các nhà văn chạm được vào những khắc khoải ẩn ức, cô đơn, những
hoài nghi, mơ hồ, trăn trở của con người để thể hiện cái nhìn nhân bản về con
người cũng như làm giàu có hơn cho truyện ngắn đương đại.
Sự dung hợp các kiểu diễn ngôn biểu hiện bao gồm cả việc phát biểu tư
tưởng, quan niệm, chính kiến của nhà văn về các vấn đề hôm qua và hôm nay.
Từ đó, nhà văn có quyền bày tỏ công khai sự thức nhận của cá nhân trước những
chân lí tưởng như bất di bất dịch, nghi ngờ những tín điều, giải thiêng các thần
tượng, làm rõ những góc khuất, đề xuất những chuẩn mực mới…, lối tư duy,
diễn đạt, không làm chữ, không làm màu, đi thẳng vào đối tượng của các nhà
văn đương đại càng cho thấy rõ giá trị của diễn ngôn văn học đương đại. Sự
dung hợp các kiểu diễn ngôn không chỉ cho thấy nhận thức của con người trong
thời đại mới mà diễn ngôn còn cho thấy hiện thực mong manh của nhân tính, con
đường cô đơn tột cùng, sự thăng hoa trong đau đớn của con người, họ luôn phải
- Xem thêm -