Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền và một số vấn đề đặt ra trong v...

Tài liệu đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền và một số vấn đề đặt ra trong việc đổi mới quy trình lập pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền việt nam xã hội chủ nghĩa

.PDF
105
10
95

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRƢƠNG THỊ DIỆU THUÝ ĐẶC ĐIỂM CỦA PHÁP LUẬT TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC ĐỔI MỚI QUY TRÌNH LẬP PHÁP ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - NĂM 2005 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRƢƠNG THỊ DIỆU THUÝ ĐẶC ĐIỂM CỦA PHÁP LUẬT TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC ĐỔI MỚI QUY TRÌNH LẬP PHÁP ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA  Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật  Mã số: 60101 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: Phó Giáo sư-Tiến sĩ Hoàng Thị Kim Quế HÀ NỘI - NĂM 2005 2 MỤC LỤC Mở đầu ................................................................................................... 7 Chƣơng 1: Nhà nƣớc pháp quyền và đặc điểm của pháp luật trong nhà nƣớc pháp quyền............................................................................................................ 13 1.1. Tổng quan về nhà nước pháp quyền .....................................................13 1.1.1. Nguồn gốc tư tưởng của Nhà nước pháp quyền ........................... 13 1.1.1.1. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền thời cổ đại ......................... 13 1.1.1.2. Học thuyết về Nhà nước pháp quyền ........................................ 16 1.1.1.3. Khái niệm và đặc điểm của Nhà nước pháp quyền ................... 18 1.1.2. Một số nét đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa .................................................................................... 20 1.1.2.1. Mục đích của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là bảo đảm và bảo vệ quyền công dân, quyền con người ......................................... 20 1.1.2.2. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. ....................................................................................... 21 1.1.2.3. Bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước ............................................................................... 23 1.1.2.4. Phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ......... 23 1.1.2.5. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ................... 24 1.2. Mối quan hệ giữa Nhà nước và pháp luật trong Nhà nước pháp quyền ...................................................................................................25 1.3. Đặc điểm của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền ...........................27 1.3.1. Pháp luật vì con người ................................................................ 27 1.3.2. Pháp luật phải bảo đảm tính dân chủ ........................................... 29 1.3.3. Pháp luật phải bảo đảm tính khách quan ..................................... 31 1.3.4. Tính nhân đạo, công bằng của pháp luật...................................... 33 1.3.5. Tính tối cao của đạo luật trong hệ thống văn bản pháp luật và nguyên tắc pháp chế trong Nhà nước pháp quyền ................................. 35 3 1.3.5.1. Bảo đảm tính tối cao của các đạo luật trong hệ thống văn bản pháp luật ............................................................................................... 35 1.3.5.2. Bảo đảm nguyên tắc pháp chế .................................................. 37 1.3.6. Tính minh bạch, công khai của pháp luật .................................... 38 Chƣơng 2: Thực trạng khung pháp luật của Việt Nam hiện nay và sự cần thiết đổi mới quy trình lập pháp nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa ........................................................................ 41 2.1. Thực trạng khung pháp luật tại Việt Nam hiện nay ..............................41 2.1.1. Thành tựu .................................................................................... 41 2.1.2. Hạn chế và tồn tại ....................................................................... 45 2.1.2.1. Về tính toàn diện, thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ............................................................................................... 45 2.1.2.2. Về tính khả thi.......................................................................... 47 2.1.2.3. Về tính khách quan .................................................................. 49 2.1.2.4. Về tính minh bạch .................................................................... 50 2.1.2.5. Về việc phát huy hiệu lực các văn bản pháp luật ...................... 51 2.1.3. Nguyên nhân ............................................................................... 52 2.2. Sự cần thiết phải đổi mới quy trình lập pháp ........................................53 2.2.1. Quy trình lập pháp ...................................................................... 53 2.2.1.1. Mối quan hệ giữa quy trình lập pháp và chất lượng công tác xây dựng pháp luật của Quốc hội ................................................................ 53 2.2.1.2. Khái niệm quy trình lập pháp ................................................... 55 2.2.1.3. Phân biệt quy trình lập pháp và quy trình lập quy .................... 56 2.2.1.2. Một số nét về thực trạng hoạt động lập pháp của Quốc hội nước ta hiện nay ............................................................................................ 63 2.2.4. Sự cần thiết đổi mới quy trình lập pháp ở Việt Nam hiện nay ..... 75 2.2.4.1. Hoàn thiện quy trình lập pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác lập pháp của Quốc hội ..................................................................... 75 2.2.4.2. Hoàn thiện quy trình lập pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa........................................ 76 4 Chƣơng 3: Một số Kiến nghị và giải pháp nhằm đổi mới quy trình lập pháp ... 79 3.1. Đổi mới quy trình xây dựng chương trình xây dựng luật, pháp lệnh ...79 3.2. Đổi mới công tác xây dựng dự án luật, pháp lệnh ................................81 3.2.1. Đổi mới công tác soạn thảo dự án luật, pháp lệnh ....................... 81 3.2.1.1. Nâng cao vai trò và trách nhiệm của các chủ thể tham gia vào quá trình soạn thảo ................................................................................ 81 3.2.1.2. Đổi mới quy định về Ban soạn thảo ......................................... 82 3.2.1.3. Thu hút chuyên gia tham gia góp ý kiến vào dự thảo luật, pháp lệnh ....................................................................................................... 83 3.2.1.4. Chính sách đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức ......................... 84 3.2.2. Nâng cao chất lượng thẩm tra của cơ quan thẩm tra .................... 84 3.2.3. Phát huy trí tuệ và quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia đóng góp ý kiến vào dự thảo luật, pháp lệnh ................................... 85 3.2.3.1. Xây dựng tiêu chí cần thiết để lấy ý kiến nhân dân về dự án luật, pháp lệnh .............................................................................................. 85 3.2.3.2. Tài liệu gửi xin ý kiến .............................................................. 87 3.2.3.3. Về việc tập hợp, tổng hợp, nghiên cứu tiếp thu ....................... 87 3.2.3.4. Việc phản hồi ........................................................................... 87 3.2.3.5. Vấn đề kết hợp việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân, đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội .............................................................. 88 3.2.4. Nâng cao vai trò của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong việc chỉ đạo việc tiếp thu chỉnh lý dự thảo luật, pháp lệnh ................................. 89 3.2.5. Hoàn thiện quy trình thông qua luật tại kỳ họp Quốc hội ............ 91 3.2.5.1. Tăng cường quyền hạn và trách nhiệm của Chủ toạ phiên họp Quốc hội. .............................................................................................. 92 3.2.5.2. Quy định về hình thức phiếu xin ý kiến đại biểu Quốc hội ....... 92 3.2.5.3. Hoàn thiện quy định về thủ tục biểu quyết những nội dung cơ bản của dự án luật trong lần trình thứ nhất ............................................ 94 3.2.5.4. Hoàn thiện công tác giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo ......... 94 3.2.6. Đổi mới hoạt động công bố luật, pháp lệnh ................................. 95 5 3.2.7. Tăng cường công tác nghiên cứu, thông tin phục vụ đại biểu Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội ........................................................... 96 3.2.8. Quy định về trình tự xây dựng dự án luật, pháp lệnh theo trình tự rút gọn .................................................................................................. 97 Kết luận .............................................................................................. 100 Tài liệu tham khảo .............................................................................. 102 6 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một quan điểm cơ bản, nhiều lần được Đảng ta khẳng định. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng một lần nữa khẳng định chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật”1. Theo đó, trong Nhà nước pháp quyền, pháp luật có vị trí, vai trò hàng đầu trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản. Để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng được một hệ thống pháp luật hoàn thiện và đồng bộ, pháp luật vì con người, bảo đảm tính dân chủ, nhân đạo, công bằng, minh bạch, công khai, Quốc hội phải ban hành nhiều đạo luật để điều chỉnh tất các các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nếu áp dụng một quy trình lập pháp cồng kềnh, quá nhiều thủ tục, một dự án luật để trình Quốc hội thông qua phải kéo dài trong rất nhiều năm. Vì vậy, nếu chúng ta có một quy trình lập pháp tốt sẽ góp phần vào việc Quốc hội thông qua đạo luật đạt chất lượng, bảo đảm thời gian nhanh nhất, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đời sống xã hội. Trong những năm qua, hoạt động lập pháp của Quốc hội đã được thường xuyên coi trọng và đạt được kết quả rất đáng khích lệ. Hệ thống pháp luật phục 1 Xem, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2000, tr.231-232. 7 vụ quản lý xã hội trong thời kỳ đổi mới không ngừng được tăng cường. Quy trình xây dựng pháp luật đã được chính quy hoá bằng việc Quốc hội ban hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 và được tiếp tục nghiên cứu đổi mới một bước bằng việc Quốc hội quyết định sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002. Do vậy, chất lượng hoạt động lập pháp đã được nâng lên một bước. Tuy nhiên, công tác xây dựng pháp luật ở nước ta còn nhiều tồn tại và bất cập; hệ thống pháp luật hiện hành còn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội của đất nước kể cả về số lượng và chất lượng; còn thiếu toàn diện, chưa đồng bộ, thậm chí có nội dung còn chồng chéo, chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu của thực tiễn, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội vẫn còn thiếu luật để điều chỉnh. Để từng bước nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả hoạt động lập pháp của Quốc hội, phấn đấu đến năm 2020, cùng với việc hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì Nhà nước ta sẽ có một hệ thống luật tương đối đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, có tính khả thi (Uỷ ban thường vụ Quốc hội không còn phải ban hành pháp lệnh), đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân thì việc tiếp tục đổi mới hoạt động xây dựng pháp luật đang được đặt ra nhu một nhu cầu bức thiết. Vì vậy, việc nghiên cứu về đặc điểm của pháp luật của Nhà nước pháp quyền và một số vấn đề đặt ra trong việc đổi mới quy trình lập pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa là vấn đề có tính thời sự và có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp của Quốc hội nói riêng. 8 2. Mục đích của Luận văn và phạm vi nghiên cứu Mục đích của Luận văn là nghiên cứu về đặc điểm của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền; soi chiếu với khung pháp luật của Việt Nam để từ đó thấy được sự cần thiết phải đổi mới quy trình lập pháp nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, trên cơ sở đánh giá thực trạng công tác lập pháp của Quốc hội Việt Nam hiện nay, tìm ra những nguyên nhân của hạn chế và bất cập để đề xuất một số kiến nghị và giải pháp nhằm đổi mới quy trình lập pháp. Với mục đích đó, phạm vi nghiên cứu của luận văn bao gồm những nội dung sau đây: - Nghiên cứu bản chất của Nhà nước pháp quyền và đặc điểm của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền; - Phân tích, đánh giá và rút ra nhận xét về thực trạng hệ thống pháp luật và công tác xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay; những ưu điểm và hạn chế; - Đề xuất một số giải pháp đổi mới quy trình lập pháp để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 3. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng phương pháp luận của triết học Mác - Lênin, các nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, các nguyên tắc của lý luận về Nhà nước và pháp luật và các quan điểm của Đảng về Nhà nước và pháp luật trong thời kỳ đổi mới. Các phương pháp được sử dụng trong Luận văn chủ yếu gồm phân tích, tổng hợp, so sánh để tìm hiểu thực trạng, đánh giá tình hình, xác định các tồn tại, bất 9 hợp lý trong quy trình lập pháp, từ đó đưa ra những nhận xét, kiến nghị giải pháp cụ thể góp phần hoàn thiện quy trình này. 4. Tình hình nghiên cứu đề tài Đặc điểm của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền và yêu cầu đổi mới quy trình lập pháp để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa là vấn đề đang được rất nhiều học giả quan tâm và nghiên cứu. Hiện nay, đã có nhiều cuộc hội thảo về đề tài này như Hội thảo về xây dựng Nhà nước pháp quyền do Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp tổ chức tại Hà Nội, tháng 6 năm 1992; Hội thảo đổi mới quy trình xây dựng luật, pháp lệnh tại thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2004 do Ban công tác lập pháp phối hợp với dự án cải cách pháp luật do Chính phủ Đan Mạch tài trợ tổ chức; cuốn sách về quy trình lập pháp của một số quốc gia trên thế giới do Ban công tác lập pháp phối hợp với dự án cải cách pháp luật do Chính phủ Đan Mạch tài trợ biên soạn; cuốn sách về đổi mới và hoàn thiện quy trình lập pháp của Quốc hội do Văn phòng Quốc hội chủ biên. Ngoài ra còn có một số bài viết về đề tài này như Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa theo Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng, Nguyễn Văn Yểu, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 1/2002; Tính minh bạch của pháp luật - một thuộc tính của Nhà nước pháp quyền, PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 1/2002, Đặc điểm của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền, PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 4/2002, Xây dựng nhà nước pháp quyền từ lý luận đến thực tiễn, PGS.TS. Hoàng Thế Liên, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 1/2004; Nhận diện Nhà nước pháp quyền, PGS.TS. Hoàng Thị Kim Quế, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5/2004... 10 Tuy nhiên, đó chủ yếu là những bài viết, công trình nghiên cứu độc lập, hoặc là về Nhà nước pháp quyền, đặc điểm của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền, hoặc là về việc đổi mới quy trình lập pháp. Trong khuôn khổ Luận văn này, tác giả Luận văn muốn kết hợp giữa yêu cầu của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền và sự cần thiết phải đổi mới quy trình lập pháp để đáp ứng được những tiêu chí của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền, từ đó đưa ra những kiến giải phù hợp với thực trạng của hoạt động lập pháp ở Quốc hội nước ta hiện nay. Bởi vì, mối quan hệ giữa thẩm quyền của Quốc hội trong lĩnh vực lập pháp và quy trình lập pháp là mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề được Quốc hội quyết định và cách thức đi đến quyết định đó. Để Quốc hội có thể ban hành nhiều đạo luật tốt, có chất lượng, có tính khả thi cao, phù hợp với thực tiễn và nhu cầu của cuộc sống, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa thì quy trình lập pháp phải thực sự khoa học, hợp lý, được các chủ thể tham gia quy trình tuân thủ một cách nghiêm túc. 5. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của Luận văn gồm có 3 chương được bố cục như sau: Chƣơng 1: Nhà nước pháp quyền và đặc điểm của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền 1.1. Tổng quan về Nhà nước pháp quyền 1.2. Mối quan hệ giữa Nhà nước và pháp luật trong Nhà nước pháp quyền 1.3. Đặc điểm của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền 11 Chƣơng 2. Thực trạng khung pháp luật của Việt Nam hiện nay và sự cần thiết đổi mới quy trình lập pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa 2.1. Thực trạng khung pháp luật của Việt Nam hiện nay 2.2. Sự cần thiết đổi mới quy trình lập pháp Chƣơng 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm đổi mới quy trình lập pháp 3.1. Đổi mới quy trình lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh 3.2. Đổi mới công tác xây dựng dự án luật, pháp lệnh 3.2.1. Đổi mới công tác soạn thảo dự án luật, pháp lệnh 3.2.2. Nâng cao chất lượng thẩm tra của cơ quan thẩm tra 3.2.3. Phát huy trí tuệ và quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia đóng góp ý kiến vào dự thảo luật, pháp lệnh 3.2.4. Nâng cao vai trò của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong việc chỉ đạo việc tiếp thu chỉnh lý dự thảo luật, pháp lệnh 3.2.5. Hoàn thiện quy trình thông qua luật tại kỳ họp Quốc hội 3.2.6. Đổi mới hoạt động công bố luật, pháp lệnh 3.2.7. Tăng cường công tác nghiên cứu, thông tin phục vụ đại biểu Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội 3.2.8. Quy định về trình tự xây dựng dự án luật, pháp lệnh theo trình tự rút gọn 12 Chương 1 NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA PHÁP LUẬT TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN 1.1. TỔNG QUAN VỀ NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN 1.1.1. Nguồn gốc tƣ tƣởng của Nhà nƣớc pháp quyền 1.1.1.1. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền thời cổ đại Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền có nguồn gốc từ xa xưa. Xã hội loài người đã chuyển từ trạng thái không có Nhà nước, không cần đến Nhà nước sang chế độ có giai cấp, có sự đối kháng và thống trị giai cấp bằng quyền lực nhà nước thông qua công cụ pháp luật. Theo đó, nhờ vào sự thừa nhận và ủng hộ của quyền lực nhà nước, pháp luật trở thành sức mạnh có tính bắt buộc chung, còn quyền lực nhà nước được tổ chức công khai, có trật tự, có giới hạn và trở thành quyền lực công bằng. Dù được diễn đạt với những hình thức và khía cạnh khác nhau nhưng tư tưởng về Nhà nước pháp quyền thời cổ đại đã được phản ánh trong tư tưởng học thuyết chính trị - pháp lý của cả phương Đông và phương Tây.  Ở phương Đông Trong xã hội chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc cổ đại diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt xung quanh vấn đề trị nước, an dân bằng cách thức nào, dùng pháp luật hay đạo đức, lễ nhạc... Nho giáo do Khổng Tử sáng lập lúc đầu chủ trương “nhân trị”, “lễ trị” hoàn toàn nhưng về sau đã phải tìm kiếm đến những yếu tố thích hợp của tư 13 tưởng pháp trị. “Lễ trị” của Khổng Tử có tác dụng rất sâu sắc và bao quát, vừa là sự cụ thể hoá, vừa là công cụ, biện pháp để thực hiện đức trị và “chính danh” nhằm tạo ra một trật tự trong các quan hệ gia đình và xã hội. Theo Mạnh Tử, vua vâng mệnh trời để trị dân, nhưng mệnh trời phải hợp với lòng dân, vai trò chủ chốt là của dân và sự phụ thuộc của nhà cầm quyền vào nhân dân. Tuân Tử đã kết hợp “lễ trị với luật” để trị nước. Có thể coi đây là chiếc cầu nối giữa tư tưởng nhân - lễ trị của Khổng - Mạnh và tư tưởng pháp trị sau này. Hàn Phi Tử đã phát triển tư tưởng pháp trị lên đến đỉnh cao, coi pháp luật là cơ sở duy nhất để quản lý xã hội, pháp luật phải thay đổi theo thời cuộc, “thời biến, pháp biến”. Nho giáo mà tiêu biểu là Khổng Tử cũng không phủ nhận hoàn toàn vai trò của pháp luật nhưng quan niệm và cách thức vận dụng pháp luật khác nhiều so với Hàn Phi Tử. Cùng là dùng hình luật để cai trị nhưng Pháp gia khác với Nho gia. Pháp gia thì xem việc dùng hình phạt dù nặng hay nhẹ đều là việc hiển nhiên, còn Nho gia khi dùng đến hình phạt cho rằng đó là phương tiện mà không phải là mục đích. Như vậy, các nhà tư tưởng phương Đông ít bàn luận về Nhà nước, pháp luật hơn mà chủ yếu quan tâm đến đường lối, phương thức cai trị con người và xã hội. Tuy nhiên, cũng như các nhà triết học phương Tây, các nhà tư tưởng phương Đông đều coi trọng nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật. Hàn Phi Tử cho rằng, ý muốn cá nhân của các bậc quân vương là cội nguồn của tình trạng vô pháp luật; luật pháp đối với người quý tộc và kẻ hèn mọn phải như nhau. Đồng thời Nhà nước pháp quyền cũng không loại trừ đạo đức, 14 thiếu đạo đức xã hội sẽ hỗn loạn. Tư tưởng này đã được kế thừa, phát triển qua nhiều thời đại và đến nay vẫn còn nguyên giá trị.  Ở phương Tây Tư tưởng Nhà nước pháp quyền ở phương Tây cổ đại chủ yếu gắn liền với sự phát triển của nền dân chủ Hy Lạp và La Mã, có phần sâu sắc hơn vì được dựa trên cơ sở tư duy triết học. Các nhà tư tưởng chú ý tới tính tối cao của đạo luật và sự tổ chức hợp lý của bộ máy nhà nước. Họ cho rằng pháp luật là pháp luật tự nhiên, pháp luật xuất phát từ bản chất lý trí của con người và của thế giới xung quanh con người, pháp luật của Nhà nước phải đáp ứng yêu cầu của luật tự nhiên2. Xôcrat (469-399 TCN) là người ủng hộ nguyên tắc pháp chế; cho rằng công lý ở trong sự tuân thủ pháp luật hiện hành, sự công minh và sự hợp pháp đều là một; nếu không tuân thủ pháp luật thì cũng không có Nhà nước và trật tự pháp luật; nếu các công dân của Nhà nước tuân thủ pháp luật thì Nhà nước đó sẽ vững mạnh và phồn vinh. Platon (427-374 TCN) nhìn thấy sự diệt vong của Nhà nước mà trong đó pháp luật không có sức mạnh và nằm ở dưới quyền lực của ai đó. Theo Platon, ở những nơi nào pháp luật đứng trên các nhà cầm quyền và các nhà cầm quyền chỉ là những nô lệ của pháp luật thì ở đó có sự cứu thoát của Nhà nước. Platon đã đưa ra một định đề nổi tiếng như sau: cầm quyền bởi một con người - đó là chính quyền chuyên chế; bởi một bộ phận người tốt - đó là chính quyền quý tộc; bởi những công dân tự do thành thị - đó là dân chủ. Arixtot (384 - 322 TCN) - nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ đại cho rằng pháp luật cần thống trị trên tất cả. Theo ông thì yếu tố cấu thành cơ bản Hoàng Thị Kim Quế, Tư tưởng Đông, Tây về Nhà nước và pháp luật, những nhân tố nhà nước pháp quyền, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 3 (3/2002) 2 15 của phẩm chất chính trị trong luật pháp là sự phù hợp của tính đúng đắn về chính trị của nó với tính pháp quyền; không thể có pháp luật nếu như việc cầm quyền không tuân theo pháp luật, chà đạp lên pháp luật, mưu toan thống trị bằng bạo lực. Xixeron (106 - 44 TCN) nêu nguyên tắc tối cao của pháp luật trong đời sống nhà nước bằng quan niệm cho rằng Nhà nước là gì nếu không phải là trật tự chung. Theo ông, pháp luật là cội nguồn tạo ra chế độ Nhà nước và Nhà nước là Nhà nước pháp quyền không phải vì Nhà nước tuân thủ pháp luật của mình mà là vì về cội nguồn, về bản chất, Nhà nước chính là pháp luật - pháp luật tự nhiên của nhân dân. Như vậy, tư tưởng Nhà nước pháp quyền thời cổ đại nhằm chống lại sự chuyên quyền, độc đoán, vô chính phủ, đấu tranh xác lập và phát triển nền dân chủ. Theo các nhà triết học phương Tây, pháp luật không chỉ là công cụ cai trị của Nhà nước mà còn là phương thức điều chỉnh quan trọng nhất đối với các quan hệ xã hội, bản thân Nhà nước cũng phải phục tùng pháp luật. 1.1.1.2. Học thuyết về Nhà nước pháp quyền Tư tưởng của các nhà triết học, chính trị học và luật học cổ đại về Nhà nước pháp quyền có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành, phát triển của học thuyết về Nhà nước pháp quyền sau này. Tuy nhiên, điều kiện khách quan quyết định sự hình thành học thuyết Nhà nước pháp quyền là do những đòi hỏi của cuộc cách mạng dân chủ tư sản - cuộc cách mạng giải phóng con người ra khỏi chế độ độc tài, tình trạng vô pháp luật, chuyên quyền của xã hội phong kiến, thiết lập nền dân chủ tư sản. Học thuyết Nhà nước pháp quyền được hình thành và phát triển qua các giai đoạn lịch sử gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của các học giả nổi tiếng thế giới như J.Locke, S.L.Montesquier, I.Canto… 16 Nhìn chung, các nhà tư tưởng thời cách mạng tư sản quan niệm nội dung Nhà nước pháp quyền có những đặc điểm cơ bản sau: - Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Trong Nhà nước pháp quyền, con người là mục tiêu và giá trị cao nhất. Nhà nước bảo đảm cho các quyền tự do cơ bản của con người, bảo hộ cho con người trong trường hợp các quyền của họ bị vi phạm kể cả từ phía các cơ quan và nhân viên nhà nước. Trong Nhà nước pháp quyền, cá nhân và Nhà nước có mối quan hệ qua lại về quyền và nghĩa vụ pháp lý; - Đề cao vai trò của pháp luật, pháp luật được coi như đại lượng làm thước đo chung để hướng dẫn và đánh giá hành vi con người; mọi quan hệ xã hội cơ bản được điều chỉnh bằng pháp luật; - Pháp luật giữ vị trí thống trị trong đời sống xã hội, trong đó đề cao vai trò của Hiến pháp và các đạo luật; - Quyền lực nhà nước được phân định rõ ràng theo ba chức năng cơ bản của Nhà nước là lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ba chức năng đó giao cho ba cơ quan khác nhau, có vị trí độc lập và ngang nhau trong thế kìm chế và đối trọng để kiểm soát và hạn chế sự lạm dụng quyền lực; - Bảo đảm tính độc lập của cơ quan tư pháp trên cơ sở chỉ tuân theo pháp luật, không bị can thiệp từ phía các cơ quan và cá nhân khác. Các nhà triết học tư sản cũng cho rằng, trong mối tương quan giữa Nhà nước và pháp luật, Nhà nước phải đứng dưới pháp luật, tuân theo pháp luật mặc dù Nhà nước ban hành ra pháp luật bởi vì có một thứ pháp luật khách quan mà tinh thần của nó thì Nhà nước và pháp luật thực định do Nhà nước ban hành cần phải tuân thủ, đó là pháp luật tự nhiên. Pháp luật tự nhiên có trước Nhà nước, đứng trên mọi Nhà nước, được lý trí công nhận, giữ vai trò lãnh đạo cuộc sống và điều chỉnh hành vi của con người. Do vậy, có thể nói 17 học thuyết Nhà nước pháp quyền đã đứng trên thế giới quan triết học pháp quyền để xác định bản chất và chân lý của pháp luật. 1.1.1.3. Khái niệm và đặc điểm của Nhà nước pháp quyền Trong quá trình nghiên cứu về Nhà nước pháp quyền, có ý kiến cho rằng, điều quan trọng nhất trong Nhà nước pháp quyền là nguyên tắc phân công rành mạch giữa các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ý kiến khác cho rằng bản chất của Nhà nước pháp quyền nằm ở việc ghi nhận, đề cao và bảo vệ quyền con người. Cũng có ý kiến lại nhấn mạnh Nhà nước pháp quyền là Nhà nước mà trong đó, mọi chủ thể, kể cả Nhà nước đều tuân thủ nghiêm chỉnh, chịu phục tùng pháp luật - một pháp luật có tính pháp lý cao, phù hợp với lý trí, thể hiện đầy đủ những giá trị cao nhất của xã hội, của con người. Có thể nói, những nội dung trên đây đều là những tiêu chí quan trọng để xác định bản chất của Nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, nếu chỉ có một trong những tiêu chí đó, không thể có được khái niệm về Nhà nước pháp quyền hoàn chỉnh. Nhà nước pháp quyền rất cần được tổ chức một cách khoa học, hợp lý, nhưng nếu nhà nước đó không có một hệ thống pháp luật hoàn thiện, đồng bộ để quản lý xã hội hiệu quả thì không bao giờ duy trì được trật tự, kỷ cương cũng như bảo đảm được tiến bộ xã hội. Mặt khác, nếu chỉ đề cao vai trò tối thượng của các đạo luật không thôi thì Nhà nước pháp quyền sẽ không khác gì nhà nước cai trị bằng pháp luật hay nhà nước pháp trị... Như vậy, việc xác định Nhà nước pháp quyền phải dựa vào những tiêu chí nhất định. Các tiêu chí này xuất phát từ những yêu cầu cơ bản nhất của Nhà nước pháp quyền, phụ thuộc vào những điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia nhưng tựu chung, Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động dựa trên những nguyên tắc sau: 18 - Hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước được thiết kế một cách khoa học, hợp lý. Theo đó, ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được phân định rõ ràng, rành mạch cho ba hệ thống cơ quan tương ứng trong mối quan hệ cân bằng, đối trọng, chế ước lẫn nhau, tạo thành cơ chế đồng bộ bảo đảm sự thống nhất của quyền lực nhà nước, thực hiện quyền lực nhân dân. Nguyên tắc này cũng đặt ra yêu cầu mọi thiết chế quyền lực nhà nước phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, không ai có thể lạm dụng quyền lực, và vì lẽ đó, cần phải sắp xếp quyền lực sao cho không có sự lạm quyền. - Bảo đảm tính tối cao của các đạo luật trong đời sống xã hội. Để thực hiện tiêu chí này, cần phải nhìn nhận trên cả hai phương diện: Thứ nhất là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, các đạo luật có vai trò tối thượng trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, người có chức vụ và công dân đều có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật, bình đẳng trước pháp luật. Không một ai đứng trên hoặc đứng ngoài pháp luật, đi ngược lại ý chí và lợi ích của nhân dân. Thứ hai là, khác với nhà nước cực quyền hay nhà nước pháp trị, việc quản lý xã hội bằng pháp luật của nhà nước pháp quyền là dựa trên cơ sở một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, có giá trị pháp lý cao, phản ánh nguyện vọng và ý chí của nhân dân, là chuẩn mực của dân chủ, tự do, công bằng và nhân đạo. - Quyền dân chủ, tự do và lợi ích chính đáng của con người được pháp luật ghi nhận và bảo đảm bằng quyền lực nhà nước. Mục tiêu cao nhất của Nhà nước pháp quyền là bảo đảm quyền tự do, dân chủ của con người. Vì vậy, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là phương tiện ghi nhận quyền dân chủ, tự do và lợi ích chính đáng của con 19 người, đồng thời cũng quy định cả những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn và trừng trị những hành vi xâm hại đến các quyền và lợi ích đó. Để hiện thực hoá các quy định này của pháp luật, Nhà nước pháp quyền phải nêu cao vị trí độc lập và hiệu quả hoạt động của các Toà án. Tính độc lập của các Toà án phải được tuân thủ một cách nghiêm ngặt thì cơ quan này mới thực sự xứng đáng là nơi phán xét và giải quyết mọi tranh chấp, mâu thuẫn trong xã hội, mới bảo đảm được sự công minh của pháp luật và sự bình đẳng của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình tố tụng. Như vậy, xây dựng Nhà nước pháp quyền là xây dựng Nhà nước với lý tưởng dân chủ, nhân đạo và công bằng, là Nhà nước mà nhân dân nói chung cũng như mọi công dân nói riêng không chỉ là khách thể của quyền lực mà còn là chủ thể, hơn nữa, là chủ thể tối cao3. 1.1.2. Một số nét đặc trƣng cơ bản của Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa 1.1.2.1. Mục đích của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là bảo đảm và bảo vệ quyền công dân, quyền con người Xét về bản chất, Nhà nước ta thực sự là một Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. "Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân" không chỉ là một nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong các bản Hiến pháp nước ta từ Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và Hiến pháp năm 1992 mà còn được thể hiện cụ thể trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta từ trung ương tới địa phương. Điều này thể hiện trên các phương diện sau đây: Xem Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2001, tr.133,134. 3 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan