Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Công ty hợp vốn đơn giản theo pháp luật việt nam...

Tài liệu Công ty hợp vốn đơn giản theo pháp luật việt nam

.PDF
91
11
99

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ PHƢƠNG THẢO CÔNG TY HỢP VỐN ĐƠN GIẢN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ PHƢƠNG THẢO CÔNG TY HỢP VỐN ĐƠN GIẢN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Huy Cƣơng HÀ NỘI - 2012 2 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU Chương 1: 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TY HỢP VỐN 6 ĐƠN GIẢN 1.1. Sự ra đời của công ty hợp vốn đơn giản 6 1.1.1. Công ty hợp vốn đơn giản ra đời là một tất yếu khách quan 6 1.1.2. Sự hình thành công ty hợp vốn đơn giản ở Việt Nam 10 1.2. Khái niệm và đặc điểm của công ty hợp vốn đơn giản 14 1.2.1. Khái niệm công ty hợp vốn đơn giản 14 1.2.2. Đặc điểm pháp lý của công ty hợp vốn đơn giản 20 1.3. Thành lập công ty hợp vốn đơn giản 25 1.3.1. Vốn trong công ty hợp vốn đơn giản 28 1.3.2. Tên gọi của công ty hợp vốn đơn giản 38 1.4. Quản trị và điều hành công ty hợp vốn đơn giản 42 1.4.1. Quản trị công ty 42 1.4.1.1. Thành viên công ty 42 1.4.1.2. Quản lý công ty 51 1.4.2. Phân chia lợi nhuận 60 1.5. Chuyển đổi và giải thể công ty hợp vốn đơn giản 62 3 1.5.1. Chuyển đổi công ty 62 1.5.2. Giải thể công ty hợp vốn đơn giản 63 1.5.2.1. Các trường hợp giải thể 64 1.5.2.2. Thủ tục giải thể 67 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CÔNG TY 71 HỢP VỐN ĐƠN GIẢN VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ LIÊN QUAN 2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về công ty hợp vốn đơn giản 71 2.1.1. Những ưu điểm cơ bản của công ty hợp vốn đơn giản trong nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay 71 2.1.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về công ty hợp vốn đơn giản 74 2.2. Một số kiến nghị 79 KẾT LUẬN 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 85 4 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sự phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đòi hỏi phải có một khung pháp luật kinh tế hoàn chỉnh, trong đó pháp luật về doanh nghiệp có vai trò quan trọng. Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã bổ sung và cơ cấu lại các quy định về doanh nghiệp ở mọi phương diện, từ cơ cấu tổ chức, trình tự thành lập, các quyền nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp cũng như của thành viên doanh nghiệp, đặt cơ sở cho một định hướng phát triển đồng bộ, thống nhất. Với mục đích từng bước đa dạng hóa các loại hình kinh doanh, khắc phục những hạn chế của Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005 có nhiều điểm mới là đã quy định một cách chặt chẽ và cụ thể về các loại hình doanh nghiệp để tạo lập một khung pháp lý ổn định cho sự hình thành và tổ chức hoạt động của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp năm 2005 vì nhiều lý do về kinh tế và kỹ thuật lập pháp nên đã ghép chung loại hình công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản. Là một hình thức công ty ra đời sớm nhất trong lịch sử loài người, công ty hợp vốn đơn giản bao giờ cũng được nhắc tới trước tiên trong các đạo luật hay các công trình nghiên cứu về công ty. Đối với Việt Nam, từ cuối thế kỷ XIX khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp, người Pháp đã đem áp dụng vào Việt Nam hệ thống pháp luật của Pháp. Cũng bắt đầu từ đây, cùng với khái niệm doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, khái niệm công ty hợp vốn đơn giản đã bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam dưới hình thức hội buôn. Theo pháp luật Việt Nam hiện nay, công ty hợp vốn đơn giản bị gắn với công ty hợp danh, để cùng được gọi là công ty hợp danh. Cách thức này dẫn đến sự nhận thức thiếu chính xác về hình thức công ty hợp vốn đơn giản và dẫn đến nhiều quy định không thích hợp đối với loại hình doanh nghiệp này. 5 Công ty hợp vốn đơn giản là mô hình tốt cho đường lối phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế nhiều thành phần còn non trẻ của Việt Nam. Việc hoàn thiện một khuôn khổ pháp lý tối ưu cho mô hình ấy không chỉ là vấn đề lý luận mà còn có ý nghĩa thực tế vô cùng quan trọng. Nghiên cứu mô hình công ty hợp vốn đơn giản trong một chỉnh thể thống nhất, độc lập, có liên hệ với các loại hình doanh nghiệp khác, từ đó có thể xây dựng, bổ sung, phát huy đầy đủ các thế mạnh của công ty hợp vốn đơn giản trong tương lai và góp phần vào việc hoàn thiện chế định pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam. Mặt khác, công ty hợp vốn đơn giản trên thực tế có thể đã tồn tại thực tế ở Việt Nam nhưng lại hoàn toàn mới mẻ đối với khoa học pháp lý. Cho đến nay, chưa có một nghiên cứu cơ bản nào về mặt pháp lý đối với loại hình doanh nghiệp này. Xuất phát từ thực tiễn như vậy, tác giả đã chọn đề tài "Công ty hợp vốn đơn giản theo pháp luật Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu cho luận án của mình, với mục đích lớn nhất là tiến hành nghiên cứu những vấn đề cơ bản về đặc điểm cũng như bản chất pháp lý của công ty hợp vốn đơn giản, từ đó đưa ra những kiến nghị cụ thể đối với việc hoàn thiện pháp luật tạo môi trường hoạt động ổn định cho loại hình doanh nghiệp còn rất mới mẻ này ở Việt Nam, góp một phần vào quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp nói chung và công ty hợp vốn đơn giản nói riêng. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Theo pháp luật Việt Nam hiện nay, công ty hợp vốn đơn giản bị gắn với hình thức công ty hợp danh. Loại hình công ty hợp danh mới chỉ được qui định trong Luật Doanh nghiệp nên trên thực tế loại hình này chưa phổ biến. Những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ luật học đã nghiên cứu về hình thức công ty hợp danh. Mặc dù các công trình này được các tác giả nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau nhưng có cùng một phương diện là hoàn thiện các qui định pháp luật về công ty hợp danh nhưng chưa có một công trình nghiên cứu công ty hợp vốn đơn giản- một loại hình doanh nghiệp bị gắn với công ty 6 hợp danh. Vì vậy kết quả nghiên cứu đề tài "Công ty hợp vốn đơn giản theo pháp luật Việt Nam" sẽ góp phần trang bị lý luận và thực tiễn về các loại hình doanh nghiệp. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Căn cứ vào những quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cũng như thực tiễn pháp luật về doanh nghiệp hiện hành, mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về công ty hợp vốn đơn giản dưới góc độ pháp lý. Trên cơ sở đó tìm ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về công ty hợp vốn đơn giản ở Việt Nam. Để thực hiện mục đích đó, nhiệm vụ của luận văn là: - Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của công ty hợp vốn đơn giản và pháp luật về công ty hợp vốn đơn giản trên thế giới và ở Việt Nam. - Nghiên cứu làm sáng tỏ, xác định đúng đắn bản chất pháp lý của công ty hợp vốn đơn giản. - Phân tích, đánh giá vai trò của công ty hợp vốn đơn giản trong nền kinh tế thị trường Việt Nam. - Phân tích, đánh giá thực trạng công ty hợp vốn đơn giản ở nước ta hiện nay. - Đề ra những giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về công ty hợp vốn đơn giản nói riêng và Luật Doanh nghiệp nói chung. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công ty hợp vốn đơn giản - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn xác định những nội dung cơ bản mang tính lý luận về pháp luật điều chỉnh loại hình công ty hợp vốn đơn giản 7 để từ đó nghiên cứu nội dung pháp luật hiện hành ở Việt Nam. Tuy nhiên, mô hình công ty hợp vốn đơn giản là một mô hình kinh doanh rất mới ở nước ta, lại liên quan đến một số lĩnh vực pháp luật khác nhau. Trong điều kiện đó, luận văn tập trung nghiên cứu sâu những quy định pháp luật cụ thể có liên quan trực tiếp tới các vấn đề cơ bản nhất của công ty hợp vốn đơn giản như các vấn đề thành lập, giải thể, quy chế thành viên, vốn trong công ty hợp vốn đơn giản trong mối liên hệ với pháp luật của một số nước trên thế giới cũng như trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu - Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, những lý luận cơ bản của phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. - Luận văn có kết hợp sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa để giải quyết nội dung khoa học của đề tài. Đặc biệt, luận văn chú trọng phương pháp so sánh luật, kết hợp lý luận và thực tiễn. 6. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài - Luận văn nghiên cứu dựa trên các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và các văn bản pháp luật của nhà nước trong đăng ký kinh doanh. Luận văn còn dựa trên các kết quả nghiên cứu của một số ngành khoa học liên quan. - Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bất cập trong việc thực hiện các qui định của Luật Doanh nghiệp về công ty hợp vốn đơn giản. 7. Ý nghĩa của đề tài - Luận văn là công trình chuyên khảo trong khoa học pháp lý về công ty hợp vốn đơn giản. Các giải pháp luận văn kiến nghị khi áp dụng thực tế sẽ đem lại hiệu quả cao. 8 - Nội dung của luận văn có thể được sử dụng làm nguồn tài liệu tham khảo trong quá trình giảng dạy và học tập. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương: Chương 1: Những lý luận về công ty hợp vốn đơn giản Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về công ty hợp vốn đơn giản và những kiến nghị liên quan. 9 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TY HỢP VỐN ĐƠN GIẢN 1.1. SỰ RA ĐỜI CỦA CÔNG TY HỢP VỐN ĐƠN GIẢN 1.1.1. Công ty hợp vốn đơn giản ra đời là một tất yếu khách quan Công ty ra đời là một hiện tượng kinh tế quan trọng, nó là sự khởi đầu cho việc các liên kết hình thành và phát triển mạnh mẽ trong thương mại. Cũng giống như các hiện tượng kinh tế khác, không nảy sinh trong bất kỳ hoàn cảnh nào, công ty chỉ ra đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện lịch sử, xã hội nhất định. Khởi nguồn từ sự buôn bán, kinh doanh truyền thống là việc các nhà kinh doanh tự mình đứng ra bỏ vốn và điều hành các hoạt động kinh doanh một cách tự thân. Nói khác đi, đó là kiểu kinh doanh đầu tiên trong lịch sử: kinh doanh đơn lẻ. Nhưng khi nền sản xuất hàng hóa đã phát triển đến một mức độ nhất định, giới hạn chật hẹp của việc kinh doanh đơn lẻ đã làm cho các nhà kinh doanh luôn luôn vận động để tìm ra những hướng kinh doanh mới nhằm mở rộng quy mô kinh doanh đến mức tối đa có thể. Bản chất của việc kinh doanh, suy cho cùng, đó chính là mục tiêu lợi nhuận, mà việc mở rộng quy mô kinh doanh lại đồng nghĩa với việc hứa hẹn tăng thêm lợi nhuận cho các nhà kinh doanh. Tuy nhiên việc kinh doanh đơn lẻ, quy mô nhỏ có thể tồn tại được và nuôi sống được các nhà kinh doanh cũng là bởi một lẽ: với mô hình kinh doanh này, các nhà kinh doanh sẽ thu về ít rủi ro hơn. Như vậy sự phát triển của nền sản xuất đã đặt các nhà kinh doanh vào thế phải lựa chọn giữa một bên là quy mô nhỏ, lợi nhuận ít nhưng ít rủi ro và một bên là mở rộng quy mô, lợi nhuận tăng lên đáng kể nhưng rủi ro là rất lớn. Một điều đáng nói nữa ở đây là việc lựa chọn tăng quy mô kinh doanh là tất yếu bởi 10 nếu không, các nhà kinh doanh sẽ hoàn toàn bị sự phát triển của nền sản xuất phủ nhận do quy mô quá nhỏ, không đáp ứng được sự đòi hỏi của nền sản xuất ngày càng lớn mạnh và thị trường ngày càng sôi động. Nói khác đi, các nhà kinh doanh không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc quyết định tăng quy mô kinh doanh. Vì thế, các nhà kinh doanh buộc phải tìm ra một hướng đi mà trong đó, vừa có thể mở rộng quy mô kinh doanh cho phù hợp để nhận được khoản lợi nhuận lớn hơn, lại vừa có thể chia sẻ rủi ro cho nhiều người trong quá trình kinh doanh. Công ty ra đời chính là mô hình phù hợp nhất cho đòi hỏi khắt khe đó. Ban đầu công ty chỉ là sự liên kết giản đơn, rồi dần dần đã phát triển thành những tổ chức có cơ cấu chặt chẽ và thực sự phù hợp. Các công ty với tư cách là những pháp nhân độc lập cùng với những thành viên có trách nhiệm hữu hạn xuất hiện với số lượng lớn ở thế kỷ XIX ở Châu Âu. Nhưng những mầm mống của một công ty có thể nhận thấy từ việc thừa nhận trách nhiệm hữu hạn trong Luật La Mã, hoặc việc thừa nhận các hội buôn trong Luật Thương mại của các nước Châu Âu. Từ việc thừa nhận này, những công ty thương mại đối nhân đầu tiên đã xuất hiện ở một số nước có điều kiện địa lý thuận lợi cho giao thương buôn bán, ngay sau đó là sự xuất hiện của các công ty ngân hàng ở Anh thế kỷ XIV đến thế kỷ XVII. Sang thế kỷ XVIII, XIX, cùng quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng ở Châu Âu và Châu Mỹ, một loạt các công ty cổ phần lớn đã ra đời đáp ứng nhu cầu tập trung nguồn vốn của các nhà đầu tư thời kỳ đó. Hiện nay, công ty đã xuất hiện với các loại hình rất đa dạng: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, công ty hợp vốn đơn giản...rồi trong mỗi loại hình công ty đó lại bao gồm những phân loại nhỏ hơn, tạo nên một bức tranh vô cùng phong phú về công ty. Tuy các cách phân loại đó là rất khác biệt trong phạm vi pháp luật của từng quốc gia khác nhau, nhưng nhìn chung, sự ra đời của công ty trên thế giới cũng có trật tự riêng của nó, khó có thể phủ nhận. 11 Nhìn vào lịch sử ra đời của công ty trên thế giới, khó có thể khẳng định rõ ràng là loại hình công ty nào ra đời trước. Tuy nhiên, theo logic thông thường, dựa vào những điều kiện ra đời của công ty thì có thể nhận thấy rằng, thoạt tiên mầm mống của công ty chỉ là sự liên kết giữa những người có quen biết và tin cẩn lẫn nhau. Tâm lý của những người quen kinh doanh đơn lẻ là luôn luôn tạo ra những lá chắn an toàn khi bắt đầu tìm đến đối tác liên kết. Mà sự quen biết, tin cẩn lẫn nhau giữa những người có nhu cầu liên kết chính là lá chắn an toàn dễ tìm nhất. Sự liên kết dựa chủ yếu trên yếu tố nhân thân này tạo ra loại hình công ty đầu tiên: công ty đối nhân. Từ khi ra đời cho đến nay, công ty đối nhân đã có nhiều biến tướng, có nghĩa là khi liên kết theo loại hình công ty đối nhân, không phải lúc nào các thành viên cũng chỉ quan tâm đến nhân thân của nhau, mà giờ đây họ có thể quan tâm đến nhiều yếu tố khác, đặc biệt là vốn, khi quyết định có liên kết hay không. Công ty đối nhân chỉ còn là một cách gọi tương đối. Sau công ty đối nhân, công ty đối vốn ra đời để thỏa mãn nhu cầu liên kết vốn của các nhà kinh doanh khi mà sự liên kết về nhân thân không thể tạo ra những mô hình công ty có quy mô kinh doanh lớn hơn. Đối vốn có nghĩa là các thành viên công ty khi quyết định liên kết với nhau chỉ quan tâm đến việc các thành viên khác có số vốn là bao nhiêu, số vốn đó liệu có thỏa mãn quy mô kinh doanh mà tất cả các thành viên đều mong muốn hay không. Tuy nhiên, giống công ty đối nhân, công ty đối vốn cho đến nay cũng được thể hiện dưới nhiều loại hình có tên gọi khác nhau và không phải loại hình đối vốn nào cũng đặt lên hàng đầu. Vì thế, ranh giới phân chia giữa công ty đối nhân và công ty đối vốn ngày càng trở lên mờ nhạt và cách phân chia cũng chỉ là tương đối. Công ty hợp vốn đơn giản là một dạng của công ty đối nhân, mang bản chất đối nhân, bản chất đối nhân được thể hiện tuyệt đối hay tương đối là phụ thuộc vào quan điểm của từng quốc gia. Tuy nhiên, ở bất cứ quốc gia nào, một khi nền kinh tế phát triển đến một trình độ nhất định thì công ty hợp vốn đơn giản là loại hình công ty ra đời sớm, đáp ứng nhu cầu liên kết của 12 nhiều nhà kinh doanh. Sự ra đời của công ty hợp vốn đơn giản rất tự nhiên, tự nhiên hơn nhiều so với công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty cổ phần sau này, khi mà tầng lớp kinh doanh đã có kinh nghiệm về kiểu kinh doanh liên kết. Có thể chứng minh được điều này qua việc công ty hợp vốn đơn giản ra đời và phát triển mạnh mẽ ở các nước thuộc các khu vực trên thế giới. Ngay cả ở Châu Âu, Châu Mỹ những khu vực mà người kinh doanh có truyền thống thực dụng, công ty hợp vốn đơn giản vẫn ra đời và phát triển như một tất yếu khách quan. Ở Châu Á, đặc biệt một số nước nằm trong vùng văn minh lúa nước, nếu xét về khía cạnh truyền thống và tâm lý kinh doanh thì liên kết kiểu công ty đối nhân (trong đó có công ty hợp vốn đơn giản) ra đời là một tất yếu. Đây là những quốc gia có nền kinh tế khởi đầu bằng phát triển nông nghiệp. Ban đầu người dân làm nông nghiệp với mục đích duy nhất là tự cấp, tự túc cho chính bản thân và gia đình để tồn tại, sau đó giao thương buôn bán cũng xuất hiện nhưng chỉ trong diện nhỏ hẹp, chủ yếu là trao đổi những thứ mà mỗi người dân, mỗi gia đình tự tạo ra được. Chính vì sự khởi đầu quá đơn giản này nên tâm lý của thế hệ người kinh doanh sau này bị ảnh hưởng. Họ luôn luôn theo đuổi truyền thống kinh doanh cá nhân hoặc kinh doanh gia đình. Trong lịch sử có thể thấy rất nhiều các hãng buôn nổi tiếng mang tên một dòng họ, của một dòng họ và hạn chế tuyệt đối sự can thiệp của người ngoài vào công việc kinh doanh. Một lý do nữa là ở các quốc gia mà giao lưu thương mại với bên ngoài chưa phát triển thì bao giờ người kinh doanh cũng tự tìm riêng cho mình một nghề, thường là nghề thủ công và có những bí quyết riêng để tạo lên sản phẩm của mình. Chính vì thế mà kiểu kinh doanh cá nhân hay gia đình tồn tại rất lâu dài ở các nước này, một phần do lịch sử, một phần do không muốn lộ bí quyết kinh doanh. Đây chính là cơ sở để công ty hợp vốn đơn giản ra đời. Một cách tự nhiên, công ty hợp vốn đơn giản trở thành loại hình liên kết đầu tiên và phù hợp nhất trong hoàn cảnh những người kinh doanh ở những quốc gia này muốn mở rộng quy mô kinh doanh mà trong phạm vi cá nhân họ hoặc gia đình họ không thể đáp ứng được. Từ 13 kiểu kinh doanh cá nhân hoặc gia đình truyền thống, người kinh doanh chỉ có thể lựa chọn một hình thức liên kết đáng tin cẩn nhất, đó là hình thức liên kết mà người kinh doanh hiểu rõ về nhân thân của nhau. Rõ ràng, với một truyền thống kinh doanh như vậy, loại hình công ty phức tạp hơn như công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có vẻ không thích hợp. Lựa chọn công ty hợp vốn đơn giản cũng chính là lựa chọn sự an toàn và sự dễ dàng trong kinh doanh. Với những quốc gia này, công ty hợp vốn đơn giản càng tỏ ra phù hợp. Tuy nhiên do ảnh hưởng của nhiều yếu tố như quan niệm chính trị, điều kiện xã hội, trình độ lập pháp,... mà ở những nước đáng ra loại hình công ty hợp vốn đơn giản là phù hợp nhất thì nó lại không phải là loại hình công ty được pháp luật ghi nhận đầu tiên, thậm chí phải rất lâu sau so với thời điểm nó ra đời, công ty hợp vốn đơn giản mới được ghi nhận chính thức bằng một văn bản pháp luật của Nhà nước. Nói như vậy không có nghĩa là, nếu pháp luật không công nhận công ty hợp vốn đơn giản như một hình thức kinh doanh thì sự ra đời, phát triển và tồn tại của loại hình công ty này không phải là một tất yếu khách quan. Cho dù ở mỗi nước, sự ghi nhận của pháp luật về loại hình công ty này có thể nhanh chậm khác nhau nhưng có thể khẳng định mầm mống, điều kiện để công ty hợp vốn đơn giản ra đời trong lịch sử chính là những yếu tố để chứng minh cho sự tồn tại khách quan của loại hình công ty này trong lịch sử phát triển công ty trên thế giới. 1.1.2. Sự hình thành công ty hợp vốn đơn giản ở Việt Nam Khác với các nước trên thế giới, công ty hợp vốn đơn giản là một trong những loại hình công ty ra đời sớm nhất, ở Việt Nam ngược lại loại hình công ty này ra đời muộn. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện lịch sử, kinh tế xã hội của nước ta. Vốn là một nước trọng về nông nghiệp nên hoạt động thương mại ở nước ta trước kia không được coi trọng. Thêm vào đó, trải qua một thời gian dài thực hiện kinh tế tập thể do vậy kinh tế tư nhân cũng không được chú ý phát triển. 14 Từ cuối thế kỷ XIX khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp, người Pháp đã đem áp dụng vào Việt Nam hệ thống pháp luật của Pháp, đặc biệt là dân luật qua ba bộ luật: Dân luật Bắc Kỳ, Dân luật Trung Kỳ, Dân luật Nam Kỳ. Cũng bắt đầu từ đây, cùng với khái niệm doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, khái niệm công ty hợp vốn đơn giản đã bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam dưới hình thức hội buôn. Dân luật Bắc Kỳ năm 1931 đã có những quy định cụ thể về hội buôn và chia thành hai loại Hội người và Hội vốn. Theo đó, "Hội người là do ở lòng tin cậy của các hội viên đối với nhau mà lập ra" [2]. Ngoài ra, Bộ luật này cũng quy định cụ thể về cách thức thành lập, tổ chức quản lý Hội buôn. Nhìn chung các quy định này rất chặt chẽ, tuy nhiên xét hoàn cảnh thực tế lúc bấy giờ, nước ta còn là nước nông nghiệp lạc hậu, không chú trọng thương mại nên thực tế áp dụng còn rất hạn chế. Năm 1944, chính quyền Bảo Đại ban hành Bộ luật Thương mại Trung phần áp dụng tại Trung phần, tuy có những sửa đổi, bổ sung nhưng về cơ bản vẫn lấy những quy định giống như Luật Thương mại đã được ban hành trước đó. Điều này có nghĩa là, công ty hợp vốn đơn giản là một loại hình của công ty hợp danh, dưới tên gọi "hội cấp vốn". Điều 42 Bộ luật Thương mại Trung phần định nghĩa hội cấp vốn một cách xác thực: Hội cấp vốn có hai thứ hội viên, hội viên xuất vốn và hội viên nhận vốn. Hội viên nhận vốn gồm có những hội viên đứng liên đới giữ trách nhiệm vô hạn đối với người ngoài cũng như hội viên trong hội hợp danh. Hội viên xuất vốn gồm có những người tuy nhập hội hợp người nhưng chỉ mất một phần góp là cùng [2]. Từ năm 1954 đến trước Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng, ở miền Bắc tiến hành công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, thực hiện nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, lấy kinh tế quốc doanh làm chủ đạo. Do đó các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không được thừa nhận. Pháp luật về các loại hình công ty nói chung và công ty hợp vốn đơn giản nói riêng thời kỳ này 15 không tồn tại và nhà nước cũng không có định hướng về lĩnh vực này. Ở miền Nam, trước năm 1975, loại hình công ty hợp vốn đơn giản được ghi nhận trong Bộ luật Thương mại, dưới tên gọi "hội hợp tư đơn thường". Các quy định về hội hợp tư đơn thường về cơ bản giống các quy định của pháp luật Pháp. Tuy nhiên, số lượng công ty này rất ít so với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Cho đến khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã công nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế cá thể và tư doanh trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân bên cạnh nền kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác xã. Các hoạt động kinh tế của thành phần kinh tế này được thực hiện dưới ba hình thức: hộ các thể, hộ tiểu công nghiệp và xí nghiệp tư doanh. Tuy nhiên, các quy định về các hình thức kinh doanh này rất chung chung, không rõ ràng và không có quy định về công ty hợp vốn đơn giản. Năm 1990, lần đầu tiên Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân được ban hành, quy định ba hình thức tổ chức kinh doanh cho khu vực kinh tế tư nhân là công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân. Qua quá trình phát triển, không thể phủ nhận được những đóng góp mà các loại hình này mang lại cho nền kinh tế, tuy nhiên, trong điều kiện một nền kinh tế thị trường vừa mới định hình và hứa hẹn rất nhiều bất ổn định thì loại hình công ty có quy mô vừa và nhỏ, đồng thời có khả năng linh hoạt đáp ứng với những biến động của thị trường như công ty hợp vốn đơn giản, công ty hợp danh sẽ có hiệu quả hơn so với công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn thường có quy mô lớn, bộ máy quản lý phức tạp. Đối với loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn, mặc dù không thể phủ nhận được một thực tế là loại hình này đang rất phổ biến và phát triển mạng trên thế giới, nhưng đối với Việt Nam, các kẽ hở về chính sách và pháp luật kinh tế liên quan đã làm cho nhiều trong số các công ty này, dựa vào lá chắn trách nhiệm hữu hạn để kinh 16 doanh thu lợi bất chính hoặc tiến hành hoạt động theo hướng tiêu cực, có hại cho xã hội cũng như nền kinh tế. Đối với loại hình công ty cổ phần, ra đời vào thời kỳ đầu của tiến trình đổi mới, loại hình công ty này tỏ ra không phù hợp với một nền kinh tế thị trường chưa hoàn thiện, cụ thể là chưa có một môi trường đích thực cho công ty cổ phần phát triển. Việt Nam mới có thị trường chứng khoán và thị trường chứng khoản Việt Nam đang tìm đường đi đúng cho mình và để khẳng định được vị trí trong nền kinh tế. Vậy mà, việc công ty cổ phần ra đời luôn luôn được gắn kết với sự phát triển của một thị trường chứng khoán hoàn thiện. Công ty cổ phần ra đời trong hoàn cảnh không có thị trường chứng khoán hoặc thị trường chứng khoán quá yếu kém thì cũng không thể phát triển được thế mạnh huy động vốn của mình. Các công ty cổ phần chỉ còn một cách là thu hẹp việc mua bán cổ phần vào trong một phạm vi chật hẹp, thậm chí chỉ diễn ra trong nội bộ một công ty cổ phần nhất định đó mà thôi. Như vậy, trong suốt một thời gian dài, Việt Nam không có thêm một loại hình công ty nào, trong khi hai loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần dường như vượt quá xa so với trình độ quản lý và điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam lúc bấy giờ. Trước bất cập của Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty ngày 12 tháng 6 năm 1999 Quốc hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp thay thế cho hai văn bản pháp luật trên. Bằng việc ghi nhận các quy định về loại hình công ty hợp danh và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, Luật Doanh nghiệp năm 1999 trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài, đã mở rộng hình thức tổ chức kinh doanh, đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp nhằm tăng khả năng bảo vệ quyền tự do kinh doanh của các nhà đầu tư, phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế. Điều này thể hiện rõ mục tiêu chiến lược của Đảng và Nhà nước trong việc phát huy nội lực, giải phóng và phát huy mọi lực lượng, mọi tiềm năng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển có hiệu quả của các doanh nghiệp, mở rộng khả năng thực hiện 17 quyền tự do kinh doanh của các nhà đầu tư, nhằm huy động tối đa nguồn vốn ở khu vực kinh tế này. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp năm 1999 cũng như Luật Doanh nghiệp sửa đổi và bổ sung năm 2005 chưa có quy định riêng về công ty hợp vốn đơn giản, mà công ty hợp vốn đơn giản bị gắn với một loại hình công ty khác là công ty hợp danh. Cách thức này đã dẫn đến sự nhận thức thiếu chính xác về cả hai hình thức công ty này và còn dẫn đến nhiều quy định không thích hợp đối với chúng. 1.2. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CÔNG TY HỢP VỐN ĐƠN GIẢN 1.2.1. Khái niệm công ty hợp vốn đơn giản Từ trước đến nay, việc đưa ra một định nghĩa chung cho tất cả các loại hình công ty vẫn là điều nan giải đối với lý luận pháp lý bởi sự đa dạng của các loại hình liên kết cũng như những thay đổi nhanh chóng của chúng nhằm thích ứng với nhu cầu của thị trường. Mặt khác, thực tiễn đòi hỏi các khái niệm pháp lý rõ ràng và chắc chắn, không chỉ dừng lại ở mức độ tương đối. Có thể lấy Việt Nam là một ví dụ cụ thể. Khi giới hạn trong phạm vi hai loại hình đặc trưng nhất là công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, Luật công ty Việt Nam 1990 đã có thể đưa ra một khái niệm đầy đủ và chính xác về công ty: "Là loại doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn góp của mình" [19]. Việc công nhận các loại hình mới: công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và công ty hợp danh trong Luật Doanh nghiệp năm 1999 đòi hỏi các dấu hiệu đặc trưng của công ty là tính liên kết và tính chịu trách nhiệm hữu hạn về tài sản đều cần phải xem xét lại, do đó khái niệm trên tỏ ra không còn phù hợp nữa. Luật Doanh nghiệp 2005 có đưa ra định nghĩa chung về doanh nghiệp rằng: "Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật nhằm mục 18 đích thực hiện các hoạt động kinh doanh" [22, khoản 1, Điều 4]. Định nghĩa này được đánh giá sơ bộ như một sự mô tả về pháp nhân thương sự. Không chỉ riêng đối với Việt Nam, mà đối với các nước khác trên thế giới, kể cả những nước có một nền lập pháp tiên tiến, cũng khó có thể đưa ra một định nghĩa chung nhất về công ty. Nhà Luật học Kubler Cộng hòa liên bang Đức quan niệm rằng: "Khái niệm công ty được hiểu là sự liên kết của hai hay nhiều cá nhân hoặc pháp nhân bằng một sự kiện pháp lý nhằm tiến hành các hoạt động để đạt một mục tiêu chung nào đó" [13]. Trước đây, quan niệm "công ty" là sự liên kết của từ hai chủ đầu tư trở lên được chấp nhận và tồn tại trong một thời gian dài cho đến khi công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên ra đời. Chủ thể của loại hình công ty này ở Việt Nam bị giới hạn, chỉ có tổ chức có tư cách pháp nhân mới có quyền đầu tư thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Với hạn chế này thì còn có thể suy luận được một chút về cái gọi là "liên kết" vẫn tồn tại trong công ty này, đó chính là sự liên kết ban đầu trong chính bản thân chủ đầu tư (một pháp nhân). Tuy nhiên, không phải nước nào cũng quy định như vậy, có những nước cho phép một cá nhân có thể thành lập một công ty với trách nhiệm hữu hạn. Bởi vậy việc chứng minh sự liên kết có vẻ đi vào bế tắc. Đối với công ty hợp vốn đơn giản, quan niệm về công ty luôn luôn phải đi kèm với cái gọi là tư cách pháp nhân- đó là một tư cách đặc biệt do pháp luật quy định cho một số tổ chức. Với một số nước, pháp luật vẫn công nhận công ty hợp vốn đơn giản có tư cách pháp nhân nhưng một số nước khác lại công nhận công ty hợp vốn đơn giản là một chủ thể kinh doanh không kèm theo tư cách pháp nhân. Điều này cũng làm cho việc đưa ra một khái niệm chung nhất về công ty là không thể có được một cách hoàn hảo. Vì thế, khi nghiên cứu về công ty hợp vốn đơn giản, cũng khó có thể bắt đầu từ những đặc điểm truyền thống của công ty nói chung mà phải bắt đầu từ những đặc điểm tự thân của công ty hợp vốn đơn giản. 19 Quan niệm của các quốc gia khác nhau về công ty nói chung và về công ty hợp vốn đơn giản nói riêng rất đa dạng. Công ty hợp vốn đơn giản được gọi theo nhiều cách: công ty hợp danh hữu hạn, công ty hợp tư đơn thường... Các quốc gia khác nhau trên thế giới, do ảnh hưởng của lịch sử thương mại, do cách nhìn nhận chủ quan của các nhà lập pháp và do một số yếu tố nhất định khác đã tạo ra những khái niệm pháp lý rất đa dạng về công ty hợp vốn đơn giản. Là một nước điển hình theo hệ thống luật Châu Âu lục địa, Luật Thương mại của Pháp nhìn nhận khái niệm chung về công ty theo một hướng cụ thể, đó là: Công ty là một hợp đồng theo đó hai hay nhiều người thỏa thuận với nhau sử dụng tài sản hay khả năng của những người đó vào một hoạt động chung nhằm chia lợi nhuận thu được qua hoạt động đó. Các thành viên trong công ty cùng nhau chịu lỗ. Theo Luật Thương mại Pháp, có thể có rất nhiều cách phân loại công ty như: dựa vào trách nhiệm của các thành viên, dựa vào tính chất dân sự hoặc kinh doanh, dựa vào quốc tịch. Nhưng căn cứ phân biệt chủ yếu là dựa vào trách nhiệm của các thành viên thì có các loại hình công ty: công ty hợp danh, công ty cổ phần, công ty hợp vốn đơn giản, công ty trách nhiệm hữu hạn. Khác với pháp luật của các nước khác, Luật Thương mại Pháp không xếp công ty hợp vốn đơn giản vào cùng nhóm với công ty hợp danh. Công ty hợp vốn đơn giản có thời thịnh hành dưới chế độ cũ của Pháp, nó cho phép một thương nhân có ý tưởng kinh doanh nhưng không có vốn được tận dụng phần vốn góp của các thành viên góp vốn- người nắm giữ vốn nhưng không thể tự điều hành các hoạt động thương mại do quy chế của mình như quý tộc, tăng lữ, thẩm phán... Thông thường, công ty hợp vốn đơn giản được ra đời trên cơ sở chuyển đổi từ công ty hợp danh để có thể kết nạp người thừa kế của thành viên hợp danh đã chết làm thành viên hợp vốn. Công ty hợp vốn đơn giản giống công ty hợp vốn cổ phần, cho phép hợp tác giữa nhà kinh doanh (thành viên nhận vốn) và nhà đầu tư (thành viên góp vốn). Nhưng có điểm khác biệt 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan