Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyề...

Tài liệu Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền luận án ts. luật 62 38 01 01

.PDF
119
11
52

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT CÙ THỊ PHƯƠNG CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT CÙ THỊ PHƯƠNG CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Phạm Hồng Thái HÀ NỘI - 2012 2 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU Chương 1: 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA 9 ĐẢNG TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN 1.1. Khái quát về nhà nước pháp quyền 9 1.1.1. Khái quát chung về nhà nước pháp quyền 9 1.1.2. Mối quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền và pháp chế xã hội chủ nghĩa 15 1.2. Kiểm tra, giám sát của đảng - phương thức bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong nhà nước pháp quyền 19 1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng 21 1.2.2. Đặc điểm công tác kiểm tra, giám sát của Đảng 32 1.2.3. Yêu cầu của công tác kiểm tra, giám sát của Đảng 37 1.2.4. Phạm vi trách nhiệm công tác kiểm tra, giám sát của các tổ chức đảng 40 1.3. Vai trò công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong nhà nước pháp quyền Việt Nam 40 1.3.1. Kiểm tra, giám sát của Đảng là phương thức bảo đảm pháp chế, ngăn ngừa, phát triển và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền 40 4 1.3.2. Ảnh hưởng của sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác kiểm tra, giám sát của Đảng nói riêng 49 Chương 2: 52 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN 2.1. Thực trạng hoạt động kiểm tra, giám sát của đảng (số liệu nhiệm kỳ Đại hội Đảng lần thứ X (2005 - 2010) 52 2.1.1. Về tư tưởng chỉ đạo 52 2.1.2. Công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy và tổ chức đảng 54 2.1.3. Kết quả công tác kiểm tra, giám sát của Ủy ban kiểm tra các cấp theo quy định tại Điều 32 Điều lệ Đảng 60 2.1.4. Tình hình chấp hành kỷ luật và việc thi hành kỷ luật trong Đảng 64 2.1.5. Thực trạng bộ máy của cơ quan Ủy ban kiểm tra các cấp 68 2.2. Các giải pháp tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong xây dựng nhà nước pháp quyền 76 2.2.1. Mục tiêu, quan điểm, định hướng và nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát của Đảng 76 2.2.2. Một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng 81 KẾT LUẬN 110 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 114 5 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Pháp quyền là một khái niệm được hình thành và phát triển dọc theo chiều dài lịch sử của văn minh nhân loại. Các nội dung, nguyên tắc cơ bản của pháp quyền đã không ngừng được giải thích, bổ sung và hoàn thiện theo từng giai đoạn và từng thời kỳ lịch sử. Từ thời Hy Lạp cổ đại, tư tưởng pháp quyền xuất hiện nơi mà nền dân chủ sơ khai đã được hình thành.Đáng chú ý trong thời kỳ này là tư tưởng pháp quyền sơ khai của hai triết gia nổi tiếng Plato và Aristotle. Plato khẳng định pháp luật phải là ông chủ của chính quyền để ngăn ngừa sự xuất hiện của những kẻ chuyên quyền. Tương tự, Aristotle cho rằng pháp luật cần phải được xem như là sự kiềm chế đối với các pháp quan để hạn chế sự tùy tiện trong quá trình đưa ra các phán quyết. Tư tưởng và học thuyết pháp quyền được tiếp tục bổ sung và phát triển khi giai cấp tư sản ở các quốc gia phương Tây không ngừng lớn mạnh, đấu tranh chống lại giai cấp phong kiến và giáo hội, từ đó từng bước giành ảnh hưởng trên chính trường. Trong thời kỳ này, tư tưởng pháp quyền được phát triển và hòa quện vào các học thuyết về phân quyền, chủ nghĩa lập hiến và dân chủ. Nhiều nhà nghiên cứu lớn đã xuất hiện với vai trò hết sức quan trọng trong việc bồi đắp và phát triển các học thuyết pháp quyền. Các tên tuổi và tác phẩm trứ danh trong thời kỳ này cần phải kể đến là Locke J. với tác phẩm "Khảo luận thứ hai về chính quyền", J.J. Rousseau với tác phẩm "Khế ước xã hội" và Ch.L. Montesquieu với tác phẩm "Tinh thần pháp luật". Đặc điểm nổi bật nhất của tư tưởng pháp quyền trong giai đoạn này là đề cao các giá trị dân chủ, tự do và quyền con người. J.J. Rousseau đã bắt đầu tác phẩm của mình với câu nói bất hủ: "Con người được sinh ra một cách tự do, nhưng khắp nơi lại bị xiềng xích". Từ đó, các nhà tư tưởng trong giai đoạn này tập trung tìm kiếm một cơ chế chế ước quyền lực nhà nước, chống lại sự lạm 6 quyền và xây dựng một mô hình chính phủ hợp lý nhằm hạn chế việc vi phạm các quyền con người. Ch.L. Montesquieu với học thuyết tam quyền phân lập đã được các học giả tư sản phương Tây coi là hòn đá tảng trong việc xây dựng lý luận tổ chức quyền lực nhà nước tư sản. Một nhà nghiên cứu đã nhận xét khái quát tư tưởng pháp quyền chủ đạo trong giai đoạn này bằng một khẩu hiệu: Con người chỉ được tự do khi chính phủ không được tự do. Tư tưởng và học thuyết pháp quyền hiện đại của phương Tây được thể hiện đậm nét trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa dùng khái niệm "Nhà nước pháp quyền", nhưng tư tưởng của Người về nhà nước pháp quyền đã rất rõ; trong Yêu sách của nhân dân An Nam viết năm 1919, Người yêu cầu phải để cho nhân dân Việt Nam có các quyền tự do như tự do ngôn luận, tự do lập hội và hội họp, tự do giáo dục và đặc biệt là "thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật" [28 tr. 36]. Trong "Việt Nam yêu cầu ca", Người đã thể hiện nội dung những yêu sách trên để phổ biến rộng rãi: "Bảy xin hiến pháp ban hành, Trăm đều phải có thần linh pháp quyền" [28 tr. 438]. Từ năm 1986, thực hiện chính sách đổi mới của Đảng, nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp từng bước được xóa bỏ. Yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đã yêu cầu nhà nước phải được tiếp tục hoàn thiện thể chế, tổ chức để thích ứng tốt hơn với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Sau 5 năm thực hiện chính sách đổi mới, tại Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII ngày 29 tháng 11 năm 1991, khái niệm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa lần đầu tiên được đề cập tới như một mục tiêu cần hướng tới của một xã hội văn minh. Sau một thời gian dài của quá trình nhận thức, tìm tòi, thể nghiệm, đến năm 2001 sửa đổi Hiến pháp năm 1992, yêu cầu xây dựng "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" mới chính thức trở thành một nguyên tắc hiến định, định hướng cho quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước Việt Nam. 7 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, trên cơ sở tổng kết sâu sắc thực tiễn và lý luận 25 năm đổi mới, Đảng đã nghiên cứu và đề ra các giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong lĩnh vực hoàn thiện thể chế bộ máy, Đảng ta nhận định: "Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo, thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội..." [14, tr. 246]. Thực tiễn cũng chứng minh, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện tiên quyết để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền Việt Nam giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng là nhiệm vụ then chốt không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân Đảng mà còn là điều kiện quan trọng đối với sự tồn tại hoạt động của Nhà nước pháp quyền. Vấn đề là phải luôn luôn đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước để sao cho vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước để tập trung mọi quyền lực vào tay nhân dân. Đảng không được buông lỏng sự lãnh đạo đối với hệ thống chính trị, trong đó đặc biệt là đối với Nhà nước. Để xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân phải tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay: Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, 8 điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước [14, tr. 173]. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những yếu kém, khuyết điểm đó là: Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng, chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao; chưa coi trọng việc kiểm tra, giám sát thực hiện đường lối, chủ trương, chỉ thị, nghị quyết, thi hành Điều lệ Đảng, kiểm tra, giám sát phòng ngừa tiêu cực và phát huy nhân tố tích cực. Nhiều khuyết điểm sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng chậm được phát hiện. Tình trạng thiếu trách nhiệm, cơ hội, suy thoái đạo đức, lối sống vẫn diễn ra khá phổ biến trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Kỷ luật, kỷ cương ở nhiều tổ chức đảng không nghiêm. Sự đoàn kết, nhất trí ở không ít cấp ủy chưa tốt [14, tr. 175]. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, Nghị quyết chỉ rõ: Đảng ta phải: Quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng [17]. Để thực hiện được điều đó, bên cạnh việc phải giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng viên; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung, dân chủ; Đảng ta phải tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Bởi vì, kiểm tra, giám sát là hoạt động không thể thiếu diễn ra trong tất cả các khâu của quy trình 9 lãnh đạo và quản lý; vì chức năng lãnh đạo của Ðảng không chỉ ở việc định ra đường lối, nghị quyết, tổ chức thực hiện mà còn phải tiến hành kiểm tra, giám sát. Ðây là biện pháp không thể thiếu được để phát huy ưu điểm, phòng ngừa, khắc phục khuyết, nhược điểm, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng. V.I.Lênin đã khẳng định: Khi đường lối, chính sách đã được xác định, phương hướng đã được thông qua thì nhiệm vụ tổ chức thực hiện phải đặt lên hàng đầu và sự lãnh đạo phải "chuyển trọng tâm từ việc soạn thảo các sắc lệnh và mệnh lệnh sang việc chọn người và kiểm tra sự thực hiện". Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Người đời ai cũng có khuyết điểm, có làm việc thì có sai lầm; tuy nhiên Người khẳng định: "Có thể nói rằng: chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra". Ðây là một trong những cảnh báo quan trọng nhất về nguyên nhân của những sai lầm khuyết điểm trước đây cũng như hiện nay không được thắng thắn chỉ ra. Có thể nói, không có kiểm tra, giám sát thì không lãnh đạo và không thể có một Nhà nước pháp quyền theo đúng nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Từ cơ sở lý luận và thực tiễn cho thấy công tác kiểm tra, giám sát của Đảng có mối quan hệ biện chứng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa; là phương thức đảm bảo pháp chế trong Nhà nước pháp quyền. Với mong muốn góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác kiểm tra, giám sát trong quá trình xây dựng Nhà nước Pháp quyền ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, tôi chọn đề tài "Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu liên quan đến vấn đề nhà nước pháp quyền, như: 10 - Công trình khoa học của Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội với tên gọi: Chính phủ trong nhà nước pháp quyền, do PGS.TS Nguyễn Đăng Dung thực hiện năm 2008; - Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Nguyễn Văn Thảo, Nhà xuất bản Tư pháp; - Tính minh bạch của pháp luật - một thuộc tính của Nhà nước pháp quyền, của Phạm Duy Nghĩa, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, 2002; - Tư tưởng Đông - Tây về nhà nước và pháp luật, những nhân tố nhà nước pháp quyền, của Hoàng Thị Kim Quế, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 2002; - Học thuyết Nhà nước pháp quyền, một số vấn đề trong lịch sử hình thành và phát triển, của Lê Cảm, năm 2002; - Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, của GS.TSKH Đào Trí Úc, Nxb Chính trị quốc gia, 2005; - Quốc hội Việt Nam trong nhà nước pháp quyền, của GS.TS Nguyễn Đăng Dung, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2007; - Công trình khoa học của Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội với tên gọi: Chính phủ trong nhà nước pháp quyền, do PGS.TS Nguyễn Đăng Dung thực hiện năm 2008. Nội dung về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đã có nhiều bài viết, nghiên cứu trong những năm gần đây, như: - Cao Văn Thống: Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát phục vụ nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, 2009; - Đề tài khoa học cấp bộ: Công tác giám sát trong Đảng giai đoạn hiện nay, do TS. Đặng Đình Phú, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm, nghiệm thu 2007. - Tô Quang Thu: Làm tốt nhiệm vụ giám sát, góp phần phát hiện và khắc phục khuyết điểm khi mới manh nha, Tạp chí Kiểm tra, tháng 11/2006; 11 - Lê Hồng Liêm: Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011; - Cao Văn Thống: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình trong công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng, Tạp chí Kiểm tra, 02/2012... Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu nội dung mối quan hệ giữa công tác kiểm tra, giám sát trong xây dựng Nhà nước pháp quyền. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn Làm rõ mối quan hệ bản chất, tất yếu giữa công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác kiểm tra, giám sát nói riêng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Giải quyết tốt mối quan hệ này phải xem xét tác động hai chiều, có nghĩa là nghiên cứu tác động, ảnh hưởng của công tác kiểm tra, giám sát trong xây dựng Đảng đối với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và tác động, ảnh hưởng của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đối với công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền; Cơ sở lý luận về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Phân tích, đánh giá thực trạng công tác kiểm tra, giám sát và xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân trong giai đoạn hiện nay; mối quan hệ bản chất, tất yếu giữa công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác kiểm tra, giám sát nói riêng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đề xuất quan điểm và giải pháp về về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền. 12 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng gồm: Phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, trên cơ sở kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, nhằm đánh giá, kết luận và đưa ra những giải pháp, phương hướng cụ thể nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra của luận văn 5. Những đóng góp mới của luận văn Làm rõ mối quan hệ bản chất, tất yếu giữa công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác kiểm tra, giám sát nói riêng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về kiểm tra, giám sát của Đảng trong Nhà nước pháp quyền. Chương 2: Thực trạng hoạt động công tác kiểm tra, giám sát của Đảng và các giải pháp nhằm tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền. 13 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN 1.1. KHÁI QUÁT VỀ NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN 1.1.1. Khái quát chung về nhà nƣớc pháp quyền "Xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân" là thuật ngữ được sử dụng chính thức trong Văn kiện hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII năm 1994, từ đó đến nay Đảng ta tiếp tục khẳng định: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân là quy luật tất yếu khách quan. Nó không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản, mà là tinh hoa, sản phẩm trí tuệ loài người, của nền văn minh nhân loại. Kế thừa những tư tưởng, giá trị tiến bộ về nhà nước pháp quyền trên thế giới và manh nha ở nước ta qua sự phát triển của các triều đại phong kiến ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành và điều kiện cụ thể của nước ta trong giai đoạn hiện nay có thể nêu ra một số đặc điểm của Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa như sau: Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân. Đặc điểm này thể hiện được bản chất của Nhà nước ta, đã được khẳng định tại Điều 2 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001): Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức [31]. 14 Đối với Nhà nước ta, tính giai cấp gắn bó chặt chẽ với tính dân tộc và tính nhân dân. Tư tưởng xây dựng một Nhà nước của dân, do dân và vì dân là bắt nguồn từ truyền thống đại đoàn kết dân tộc của các thế hệ người Việt Nam trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước. Hơn 700 năm trước, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn trước khi mất đã để lại những lời tâm huyết khuyên vua Trần Anh Tông: "Nên khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước". Lời khuyên đó thể hiện tầm nhìn sâu rộng của một nhà chính trị lỗi lạc, vẫn còn nguyên giá trị cho đến tận hôm nay, bởi "chở thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân" (Nguyễn Trãi) và "gốc có vững, cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân" (Hồ Chí Minh). Bài học lấy dân làm gốc với tư tưởng bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hành đều của dân nhất quán trong lịch sử xây dựng và phát triển của Nhà nước ta tuy không mới, nhưng ngày nay vẫn luôn nóng bỏng tính thời sự trong học và thực hành đối với mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, quản lý - phải lấy dân làm gốc.Vì khi dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, công bằng, không bức xúc vì tham nhũng, dân sẽ bảo vệ Đảng, Chính phủ. Khi đó, không một thế lực bên ngoài nào dù mạnh và mưu mô quỷ quyệt đến đâu có thể can thiệp, gây rối, lật đổ. Nhà nước ta do dân lập nên, do dân bầu ra, dân kiểm tra, giám sát. Đó phải là Nhà nước hoạt động vì dân, lấy việc phục vụ nhân dân làm mục tiêu cao nhất của mình. Sức mạnh của Nhà nước bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân; phải xây dựng Nhà nước trong sạch vững mạnh, gần dân, sát dân, thể hiện đúng ý chí, nguyện vọng của dân; bảo đảm trên thực tế quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thứ hai, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, ra sức tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp. Trong Nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính trị được xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng hiến 15 pháp. Chính vì lẽ đó mà Hiến pháp được coi là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất, quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều quan trọng bậc nhất bảo đảm sự ổn định xã hội và sự an toàn của người dân. Vì vậy chủ nghĩa lập hiến là điều kiện để bảo đảm sự chính đáng về mặt pháp lý (tính pháp quyền) của các thiết chế quyền lực nhà nước cũng như của các hành vi có tính quốc gia. Hiến pháp có một vai trò quan trọng trong việc duy trì quyền lực của nhân dân, cho nên việc xây dựng và thực hiện một cơ chế hữu hiệu cho việc phát hiện, đánh giá và phán quyết về những quy định và hoạt động trái với Hiến pháp là rất cần thiết trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước ta hiện nay. Tôn trọng Hiến pháp là tôn trọng ý chí phổ biến nhất và đầy đủ nhất của nhân dân. Chính vì vậy chủ nghĩa lập hiến đồng nghĩa với sự thừa nhận tính tối cao của chủ quyền nhân dân. Bảo vệ Hiến pháp là bảo vệ chủ quyền Nhà nước, bảo vệ ý chí của nhân dân ta. Thứ ba, Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội. Pháp luật xã hội chủ nghĩa của chúng ta là kết quả của sự thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, đối nội, nội ngoại, pháp luật thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Vì vậy nói đến pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là nói đến tính pháp luật khách quan của các quy định pháp luật, chứ không phải chỉ nói đến nhu cầu đặt ra pháp luật, áp dụng pháp luật, tuân thủ pháp luật một cách chung chung với mục đích tự thân của nó, pháp luật của Nhà nước ta phản ánh chủ trương, chính sách của Đảng và lợi ích của nhân dân. Vì vậy pháp luật phải trở thành phương thức quan trọng đối với tính chất và hoạt động của Nhà nước và là thước đo giá trị phổ biến của xã hội 16 ta: Công bằng, dân chủ, bình đẳng - những tố chất cần thiết cho sự phát triển tiến bộ và bền vững của Nhà nước và xã hội ta. Đề cao pháp luật, tăng cường pháp chế phải đi liền với các mối quan tâm làm sao để đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo thói quen và nếp sống tôn trọng pháp luật trong cán bộ và mọi tầng lớp nhân dân. Cho nên xây dựng pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống phải thực sự là hai mặt của một nhiệm vụ. Đổi mới và hoàn thiện pháp luật phải đi liền với đổi mới và hoàn thiện thực tiễn áp dụng pháp luật. Tăng cường hoạt động xây dựng pháp luật phải đi liền với việc hoàn thiện các thủ tục pháp lý, đổi mới và cải cách hành chính và hệ thống tư pháp. Đồng thời, đề cao pháp luật và pháp chế còn đặt ra nhiệm vụ phải bằng mọi cách nâng cao hiểu biết pháp luật, giáo dục ý thức pháp luật, đấu tranh có hiệu quả với các vi phạm và tội phạm, kiên quyết chống quan liêu và tham nhũng trong bộ máy Đảng và Nhà nước. Thứ tư, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền con người, các quyền và tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ dân chủ Nhà nước và công dân, giữa Nhà nước và xã hội. Điều 2 Hiến pháp 1992 (sửa đổi), khẳng định: "Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân" [31]. Do đó Nhà nước có trách nhiệm pháp lý bảo vệ và phát triển quyền con người, quyền công dân, tức là tôn trọng và bảo vệ quyền chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Trong bản tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố với toán thế giới rằng: "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Vì vậy bảo đảm quyền con người, quyền công dân, mở rộng quyền dân chủ, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, giữ công dân với Nhà nước… luôn được Đảng ta giành sự quan tâm đặc biệt. 17 Thứ năm, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền: Lập pháp, hành pháp, tư pháp, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước. Đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quyền lực được tập trung, thống nhất, có sự phân công và phối hợp trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp giữa các cơ quan, trong đó: Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp…thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Chính phủ là cơ quan chấp hành của quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của nhà nước. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Mặc dù quyền lực nhà nước có sự phân công phân nhiệm rành mạch giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, nhưng vẫn bảo đảm nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước - tất cả quyền lực nhà nước là của dân, do dân, và vì dân. Thứ sáu, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là Nhà nước do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Đảng 18 lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Bảo đảm nguyên tắc Đảng lãnh đạo Nhà nước, giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, đưa sự nghiệp đổi mới đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự lãnh đạo của Đảng ta đối với Nhà nước pháp quyền thể hiện như sau: Một là, Đảng lãnh đạo các cơ quan nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Nhà nước và tổ chức thực hiện thông qua bộ máy nhà nước, bảo đảm cho đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đi vào đời sống xã hội. Trong giai đoạn hiện nay Đảng ta phải tập trung lãnh đạo vào một số vấn đề then chốt như thực hiện cho được quyền làm chủ của nhân dân đổi mới thể chế kinh tế nhằm phát huy mọi tiềm năng của lực lượng sản xuất, đồng thời trên cơ sở ấy, từng bước xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, tăng cường quốc phóng và an ninh vững mạnh. Hai là, Đảng phải lãnh đạo chăm lo xây dựng đội ngũ và tăng cường quản lý cán bộ, công chức, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Đảng lãnh đạo công tác quy hoạch và chiến lược cán bộ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công thức nhà nước cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Ba là, Đảng phải lãnh đạo công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, các tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên hoạt động trong cơ quan nhà nước. Bốn là, Đảng phải phát huy vai trò, trách nhiệm của mặt trận tổ quốc và các thành viên của mặt trận trong việc xây dựng và bảo vệ chính quyền, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, thu hút sự tham gia rộng rãi cho nhân dân vào việc quản lý và giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước. 19 Vì vậy Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là trực tiếp, toàn diện và bao quát toàn bộ những vấn đề then chốt trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. 1.1.2. Mối quan hệ giữa Nhà nƣớc pháp quyền và pháp chế xã hội chủ nghĩa - Pháp chế xã hội chủ nghĩa Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa có từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga. V.I.Lênin là người đưa ra định nghĩa pháp chế và các nguyên tắc của nó đã làm giàu thêm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật. Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị - xã hội, trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, nhân viên nhà nước và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến pháp, pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích của tập thể, của công dân đều bị xử lý theo pháp luật [19, tr. 54]. Do ý nghĩa, mục đích và tầm quan trọng của pháp chế xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần đề cập trong các nghị quyết, chỉ rõ phương hướng và biện pháp cần thiết để tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh: Phải dùng sức mạnh của pháp chế xã hội chủ nghĩa kết hợp với sức mạnh của dư luận quần chúng để đấu tranh chống những hành vi phạm pháp. Các cấp ủy Đảng, từ trên xuống dưới phải thường xuyên lãnh đạo công tác pháp chế... kiểm tra chặt chẽ hoạt động của các cơ quan pháp chế [5, tr. 121]. Nghị quyết Đại hội VII của Đảng khẳng định: "Điều kiện quan trọng để phát huy dân chủ là xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tăng 20 cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao dân trí, trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức pháp luật của nhân dân [6, tr. 121]. Tại Đại hội VIII của Đảng, quan điểm này được xác định: "Tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức..." [7, tr. 45]. - Nguyên tắc của pháp chế xã hội chủ nghĩa: Một là, tính thống nhất. Nội dung cơ bản: nhận thức, hiểu và áp dụng pháp luật phải thống nhất trong phạm vi cả nước. V.I.Lê-nin viết: "Pháp chế không thể là pháp chế của tỉnh Caluga hoặc tỉnh Ca-dan được mà phải là pháp chế duy nhất cho toàn nước Nga và cho cả toàn thể Liên bang các nước cộng hòa Xô-viết nữa" [24, tr. 232-233]. Nguyên tắc pháp chế nhằm xóa bỏ tư tưởng cục bộ, địa phương, làm cho các địa phương liên hệ, phát triển, hồi sinh, hợp tác. Tính thống nhất đòi hỏi sự sáng tạo, song trong khuôn khổ pháp luật. Hai là, pháp chế và tính hợp lý. Trong môi trường pháp luật, tính hợp lý được biểu hiện là sự phù hợp với luật, đối với các mục đích đặt ra, các chủ thể lựa chọn phương án tối ưu về việc thực hiện pháp luật. Cơ sở của tính hợp lý của pháp luật là sự phản ánh đúng đắn trong pháp luật các đòi hỏi của sự phát triển xã hội. Nếu pháp luật quy định đúng đắn ý chí của đông đảo quần chúng nhân dân lao động, các giá trị xã hội, thì chắc chắn pháp luật là hợp lý. Ba là, không có ngoại lệ. Nội dung của nguyên tắc này là khi pháp luật đã ban hành, ai cũng phải thực hiện, nếu vi phạm pháp luật đều phải bị xử lý theo pháp luật. Theo V.I.Lênin: "Tính nghiêm minh của pháp luật hoàn toàn không phải ở chỗ hình phạt đó phải nặng, mà ở chỗ phạm tội thì không thoát khỏi bị trừng phạt" [23, tr. 97]. 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan