Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm tro...

Tài liệu Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong tố tụng dân sự (luận văn thạc sỹ luật)

.DOC
70
1
59

Mô tả:

MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1. ĐIỀU KIỆN CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA CÁC ĐƢƠNG SỰ Ở GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ 1.1. Sự tự nguyện thỏa thuận của các đƣơng sự............................................... 7 1.1.1. Xác định nội hàm của “sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự”.......7 1.1.2. Thực tiễn xác định “sự tự nguỵện của các đương sự” và kiến nghị hoàn thiện................................................................................................................... 9 1.2. Nội dung thỏa thuận của các đƣơng sự không vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội.................................................................................... 12 1.2.1. Nội dung thỏa thuận của các đương sự không vi phạm điều cấm của luật 12 1.2.2. Nội dung thỏa thuận của các đương sự không trái đạo đức xã hội.......16 1.3. Công nhận sự thỏa thuận của các đƣơng sự làm ảnh hƣởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác................................................................... 20 1.3.1. Xác định nội hàm “sự thỏa thuận của các đương sự làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác”................................................ 20 1.3.2. Thực tiễn xác định “sự thỏa thuận của các đương sự làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác” và kiến nghị hoàn thiện..........20 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1..................................................................................... 23 CHƢƠNG 2. THỦ TỤC CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA CÁC ĐƢƠNG SỰ Ở GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ 2.1. Lập biên bản hòa giải thành khi các đƣơng sự thỏa thuận về nội dung giải quyết tranh chấp........................................................................................ 25 2.1.1. Trình tự lập biên bản hòa giải thành..................................................... 24 2.1.2. Bất cập khi áp dụng quy định lập biên bản hòa giải thành trong trường hợp có đương sự vắng mặt và kiến nghị hoàn thiện........................................25 2.2. Thủ tục ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đƣơng sự........................................................................................................................ 30 2.2.1. Điều kiện ban hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự..................................................................................................................... 30 2.2.2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về thời hạn ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và kiến nghị hoàn thiện................31 2.3. Hiệu lực của Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đƣơng sự...33 2.3.1. Quy định pháp luật về hiệu lực của Quyết định công nhận sự thủa thuận của các đương sự............................................................................................. 33 2.3.2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về quyền kháng nghị tái thẩm đối với Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và kiến nghị hoàn thiện................................................................................................................. 35 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2..................................................................................... 40 KẾT LUẬN CHUNG............................................................................................ 39 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việc đương sự thỏa thuận, thương lượng giải quyết tranh chấp trong mọi giai đoạn tố tụng luôn được Nhà nước khuyến khích. Bởi, khi các đương sự đã thỏa thuận được với nhau, việc công nhận sẽ có ý nghĩa tiết kiệm thời gian, tài chính của đương sự và của Nhà nước, giúp đương sự hàn gắn rạn nứt qua đó góp phần củng cố khối đoàn kết toàn dân, tạo thuận lợi cho việc giải quyết vụ án dân sự và thi hành án dân sự hiệu quả hơn. Trên tinh thần đó, những quy định pháp luật tố tụng dân sự về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự đã được quy định trong trong Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004 và sửa đổi, bổ sung năm 2011. Gần đây nhất, Quốc hội đã thông qua Bộ luật tố tụng dân sự 2015 có nhiều thay đổi theo hướng công khai, minh bạch, dân chủ, bảo đảm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng kịp thời. Trong đó, chế định hòa giải và công nhận sự thỏa thuận của các đương sự là cơ sở để Tòa án tiến hành hòa giải đồng thời góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức trên cơ sở tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự. Trong bối cảnh hiện nay Bộ luật tố tụng dân sự nói chung và những quy định về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong tố tụng dân sự đặc biệt là trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đã bộc lộ những hạn chế bất cập trong quy định pháp luật như: Thứ nhất, sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hiện nay còn nhiều bất cập hạn chế và có nhiều quan điểm khác nhau trong quá trình giải quyết vụ án cụ thể trường hợp biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải thành và biên bản hòa giải hiện nay một số ý kiến cho rằng cần phải gửi cho đương sự vắng mặt một số ý kiến khác lại không. Do đó, không thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật Thứ hai, bất cập của luật về nội dung thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội và thực trạng hiện nay có những vụ án Tòa án vẫn tiến hành hòa giải và công nhận sự thỏa thuận của các đương sự khi nội dung thỏa thuận vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội. 2 Thứ ba, hoạt động lập biên bản hòa giải thành khi các đương sự thỏa thuận về nội dung giải quyết tranh chấp nhưng có đương sự vắng mặt tham gia hòa giải vẫn còn nhiều bất cập vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dẫn đến quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự bị kháng nghị và bị hủy. Thứ tư, hoạt động ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và hiệu lực của quyết định hiện nay còn nhiều quan điểm khác nhau, không thống nhất dẫn đến khó khăn trong quá trình áp dụng thực tiễn xét xử. Ngoài ra, hiện nay số lượng quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự bị kháng nghị, bị hủy do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng liên quan đến những quy định về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử dẫn đến vụ án kéo dài phải giải quyết lại nhiều lần gây khó khăn, tốn kém chi phí của nhân dân. Do vậy, việc nghiên cứu thực tế áp dụng các quy định của pháp luật trong việc xác định và thực hiện đúng các thủ tục để công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử là vấn đề cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng, giúp chúng ta nhìn nhận bao quát, cụ thể hơn về vai trò được định đoạt, tự quyết của người tham gia tố tụng dân sự, tạo cơ sở trong việc xác định đúng thủ tục và nội dung thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Chính vì vậy, việc chọn vấn đề “Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong tố tụng dân sự” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học là cần thiết, nhất là trong bối cảnh hiện nay ngành Tòa án đang áp lực khi số tranh chấp dân sự được thụ lý và giải quyết ngày càng tăng về số lượng và phức tạp về nội dung. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Qua khảo sát, thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến đề tài, tuy nhiên, khá ít công trình nghiên cứu chuyên sâu về những bất cập từ thực tiễn trong việc áp dụng quy định pháp luật về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án dân sự. Tuy vậy, các kết quả của các công trình nghiên cứu dưới đây cũng giúp cho học viên có cách nhìn tổng quan và làm nền tảng cho việc nghiên cứu đề tài của mình như sau: - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh. 3 Trong công trình này, các học viên nghiên cứu về toàn bộ các quy định của luật TTDS trong đó những quy định pháp luật tố tụng dân sự về hòa giải. Tuy nhiên, mức độ nghiên cứu về hòa giải vụ án dân sự ở góc độ chung, chưa nghiên cứu một cách cụ thể toàn diện về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. - Nguyễn Văn Cường, Trần Anh Tuấn, Đặng Thanh Hoa (đồng chủ biên) (2012), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội. Trong công trình này, các tác giả có đi sâu phân tích bình luận những quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi về hòa giải và công nhận thỏa thuận của các đương sự. Tuy nhiên ở mức độ chỉ khái quát chưa đi sâu phân tích chuyên biệt cũng như chưa nêu lên được thực tiễn áp dụng những quy định về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. - Lưu Tiến Dũng, Đặng Thanh Hoa (đồng chủ biên) (2020), Lý giải một số vấn đề của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 từ thực tiễn xét xử, NXB Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Công trình này các tác giả có đề cập phân tích, bình luận những quy định pháp lý xung quanh hòa giải và công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đồng thời có nêu lên thực tiễn xét để hoàn thiện pháp luật. Tuy nhiên, công trình này các tác giả tập trung phân tích những quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 chưa phân tích toàn diện những vấn đề về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử tại Tòa án. - Đặng Thanh Hoa (2020), Sách pháp luật tố tụng dân sự (phần thủ tục giải quyết vụ án dân sự) tình huống và phân tích, NXB Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Công trình có phân tích về trường hợp đương sự vắng mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng và hòa giải, phân tích những quy định pháp luật đồng thời đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện vấn đề này. Tuy nhiên, công trình này chưa phân tích cụ thể vấn đề về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử tại Tòa án. - Trần Anh Tuấn và các tác giả khác (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, NXB Tư pháp, Hà Nội. Trong công trình nghiên cứu này, các tác giả đã phân tích, giải thích một cách khoa học về các quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Trong đó, có 4 đề cập đến hòa giải và chuẩn bị xét xử. Các tác giả có nghiên cứu về quy định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử nhưng không có thực tiễn. - Bài viết Lý Văn Toán (2018), Những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được- Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật tác giả đã nêu lên được vấn đề những vụ án dân sự theo nghĩa rộng bao gồm cả những vụ án dân sự, hôn nhân gia đình và kinh doanh thương mại không tiến hành hòa giải được, nêu lên những khó khăn vướng mắc, đồng thời đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện vấn đề này. Tuy nhiên, đây cũng chỉ mới dừng lại ở một bài báo khoa học chưa phân tích toàn diện những quy định về quy định về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử tại Tòa án. - Bài viết Cao Thị Thanh Loan, Thời hạn 7 ngày sau hòa giải thành, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, đăng ngày 17/3/2018. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đã nêu lên những quy định pháp luật về biên bản hòa giải thành đồng thời đưa ra những quan điểm khác nhau về thời hạn 07 ngày sau hòa giải thành. Tuy nhiên, đây chỉ mới là một bài báo khoa học chưa nghiên cứu toàn diện về vấn đề thời hạn để ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử tại Tòa án. - Bài viết Dương Tấn Thanh, Biên bản hòa giải thành có gửi cho đương sự vắng mặt không, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, đăng ngày 27/3/2018. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã nêu và phân tích những quy định về vấn đề biên bản hòa giải thành có gửi cho đương sự vắng mặt không, đồng thời đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện vấn đề này. Tuy nhiên, công trình này chỉ đề cập một vấn đề về biên bản hòa giải có nên gửi cho đương sự vắng mặt không mà không nghiên cứu toàn diện về vấn đề công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử tại Tòa án. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Đề tài được nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng những quy định pháp luật về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử trên cơ sở đó kiến nghị các giải pháp đồng bộ nhằm hoàn thiện các quy định về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử trong pháp luật tố tụng dân sự. 5 Để đạt được mục đích nêu trên học viên xác định các nhiệm vụ nghiên cứu sau: (i) Nêu lên những bất cập hạn chế của pháp luật về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử; (ii) Phân tích, đánh giá về thực trạng áp dụng các quy định pháp luật hiện hành về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và (iii) Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài Phạm vi nghiên cứu: Học viên chỉ tập trung nghiên cứu quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng còn bất cập về một số điều kiện và thủ tục công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Về thủ tục công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa sơ thẩm và giai đoạn phúc thẩm không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài. Đối tượng nghiên cứu: Là các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và việc áp dụng các quy định này vào thực tiễn, phương hướng hoàn thiện những quy định về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Học viên đã chọn và sử dụng các phương pháp nghiên cứu như sau: - Phương pháp phân tích được học viên sử dụng ở cả chương 1 và chương 2 để phân tích các nội dung của các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, đồng thời học viên còn sử dụng phương pháp này trong việc phân tích những khó khăn, vướng mắc của việc áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật. - Phương pháp so sánh được sử dụng ở cả chương 1và chương 2 dùng để so sánh đối chiếu với các quy định liên quan nhằm làm rõ thêm về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. 6 - Phương pháp tổng hợp được học viên sử dụng để hoàn thành luận văn trên cơ sở tập hợp các tài liệu và các số liệu đã thu tập được. 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài Ý nghĩa khoa học của luận văn: Luận văn đã giải quyết một số vấn đề cơ bản của quy định pháp luật về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn. Đánh giá khách quan toàn diện về các quy định của pháp luật và tác động tới những chủ thể áp dụng pháp luật. Góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành còn vướng mắc. Giá trị ứng dụng của đề tài: Luận văn này có thể sử dụng để làm tài liệu tham khảo cho các Thẩm phán, Thư ký, Luật sư. Ngoài ra, luận văn còn có thể sử dụng để học tập, nghiên cứu. 7. Bố cục và nội dung cơ bản của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn bao gồm 02 chương, cụ thể như sau: Chƣơng 1. Điều kiện công nhận sự thỏa thuận của các đương sự ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự Chƣơng 2. Thủ tục công nhận sự thỏa thuận của các đương sự ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự 7 CHƢƠNG 1 ĐIỀU KIỆN CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA CÁC ĐƢƠNG SỰ Ở GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ Trong xã hội, khi mà các mối quan hệ kinh tế - xã hội chuyển động không ngừng, không thể tránh khỏi những va chạm, mâu thuẫn, xung đột về các giá trị, lợi ích giữa các chủ thể. Sự va chạm, mâu thuẫn này có thể dẫn đến những tranh chấp. Để tránh những hậu quả tiêu cực có thể gây ra cho đời sống xã hội, việc hình thành những cơ chế giải quyết tranh chấp là nhu cầu khách quan. Lịch sử cho thấy các phương thức được sử dụng để giải quyết tranh chấp trong các lĩnh vực đời sống xã hội rất phong phú và đa dạng như: trung gian, hòa giải, thương lượng, trọng tài hoặc thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân. Các đương sự được lựa chọn và quyết định sử dụng phương thức giải quyết tranh chấp không thông qua thủ tục xét xử đó là sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc trong phiên tòa xét xử. Trong chương này Học viên sẽ tập trung phân tích một số điều kiện để Tòa án công nhận sự thỏa thuận của các đương sự thông qua việc phân tích những quy định pháp luật có liên quan, nêu và phân tích những bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật và từ đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện. 1.1. Sự tự nguyện thỏa thuận của các đƣơng sự 1.1.1. Xác định nội hàm của “sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự” Điều 5 BLTTDS năm 2015 quy định: “Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội”. Tiếp đến tại điểm a khoản 2 Điều 205 BLTTDS năm 2015 quy định về nguyên tắc hòa giải, theo đó, các đương sự phải “tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình”. 8 Theo đó, khi có tranh chấp xảy ra, việc giải quyết xuất phát từ ý chí định đoạt của đương sự. Các đương sự tự thỏa thuận với nhau hay yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết là phụ thuộc vào quyết định của họ. Đây là cơ chế nhằm tăng cường hơn nữa quyền lựa chọn các phương thức giải quyết tranh chấp cho các đương sự. Và việc quy định công nhận sự thoả thuận của các đương sự sẽ là một phương thức giải quyết tranh chấp tối ưu nhất để bảo đảm quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Như vậy, xuất phát từ bản chất của quan hệ dân sự, các bên bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ. Đương sự được tự do đưa ra những quyết định về những vấn đề, sự việc theo ý chí, nhận thức của mình mà không bị ai ngăn cản, hạn chế hoặc ràng buộc nào từ bên ngoài và ý chí thoả thuận đó hoàn toàn tự nguyện. Tuy nhiên, đương sự chỉ có thể định đoạt đối với những gì thuộc quyền hạn tuyệt đối của mình, chứ không được quyền định đoạt thay người khác. Không ai có quyền lừa dối, đe dọa, uy hiếp sự tự nguyện thoả thuận của người khác, bởi lẽ đấy cũng là một hình thức xâm hại đến quyền tự do của con người. Ngoài ra, pháp luật quy định việc Tòa án tiến hành hòa giải và công nhận sự thỏa thuận của các đương sự phải xuất phát từ sự tự nguyện thực sự của đương sự. Sự tự nguyện này được thể hiện ở các nội dung sau: (i) Tự nguyện tham gia hòa giải; (ii) Tự nguyện thỏa thuận nội dung giải quyết vụ án; và (iii) Tòa án phải tôn trọng và ghi nhận những thỏa thuận hoàn toàn tự nguyện của các đương sự về việc giải quyết các tranh chấp dân sự. Cụ thể: Một là, tự nguyện tham gia hòa giải: Cơ sở pháp lý của hòa giải xuất phát từ nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự. Theo đó đương sự được quyền tự do thể hiện ý chí của mình trong việc lựa chọn thực hiện các hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, quyết định quyền, lợi ích của mình trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và trách nhiệm của Tòa án là bảo đảm cho đương sự thực hiện được quyền tự định đoạt của họ trong tố tụng dân sự. Do đó, hòa giải không chỉ là trách nhiệm của Tòa án mà còn là quyền của đương sự. Đương sự có quyền lựa chọn có tham gia hòa giải hay không. Nếu bị đơn vắng mặt được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng thì xem như bị đơn đã từ chối hòa giải. Trong trường hợp này Tòa án không được ép buộc bị đơn phải tham gia hòa giải, Tòa án sẽ lập biên bản về việc 9 không tiến hành hòa giải được do bị đơn vắng mặt và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung (khoản 1 Điều 207 BLTTDS năm 2015). Hai là, tự nguyện thỏa thuận nội dung hòa giải: Trong quá trình hòa giải, các bên tranh chấp được bàn bạc, thảo luận và đi đến thống nhất phương án giải quyết tranh chấp. Nếu đương sự chấp nhận thỏa thuận mà việc thỏa thuận này là do hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực tác động đến ý chí chủ quan của đương sự làm cho họ phải lựa chọn cách thức thỏa thuận để bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của mình thì cũng không được coi là tự nguyện thỏa thuận. Ba là, Tòa án phải tôn trọng và ghi nhận những thỏa thuận hoàn toàn tự nguyện của các đương sự về việc giải quyết các tranh chấp dân sự: Tòa án là cơ quan xét xử, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân. Trong tố tụng dân sự, Tòa án có trách nhiệm trong việc bảo đảm quyền tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Cụ thể hơn, đó là việc cho đương sự thực hiện được quyền tự do thỏa thuận về tranh chấp. Tuy nhiên, để bảo đảm nguyên tắc này thì khi tiến hành hòa giải, Thẩm phán không được tiết lộ đường lối xét xử mà chỉ có thể phân tích các quy định của pháp luật liên quan đến tranh chấp cho các bên liên hệ đến quyền và nghĩa vụ của mình, để tự nguyện khi hòa giải. Trong xét xử thì đường lối giải quyết vụ án do Hội đồng xét xử căn cứ vào pháp luật và các chứng cứ để quyết định, còn đối với việc hòa giải phải do chính các đương sự quyết định, Tòa án chỉ đảm bảo về mặt thủ tục cho phiên hòa giải còn về nội dung của việc hòa giải thì Tòa án chỉ hướng dẫn các đương sự tự thỏa thuận. 1 Nói cách khác, Tòa án không được can thiệp vào nội dung thỏa thuận của các đương sự, Tòa án chỉ ghi nhận sự thỏa thuận đó bằng một văn bản có giá trị pháp lý và Tòa án chỉ được ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận trên cơ sở những nội dung, các vấn đề mà đương sự đã tự nguyện đồng ý sau khi thảo luận, thương lượng, cân nhắc và quyết định. 1.1.2. Thực tiễn xác định “sự tự nguỵện của các đương sự” và kiến nghị hoàn thiện Mặc dù hiện nay pháp luật tố tụng đã quy định rõ trường hợp khi các bên tham gia hòa giải phải dựa trên sự tự nguyện của các bên đương sự nhưng trong 1Đặng Quang Huy (2018), Nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.46. 10 thực tiễn xét xử vẫn còn có trường hợp Tòa án công nhận sự thỏa thuận của các đương sự không dựa trên sự tự nguyện thỏa thuận, điều này dẫn đến vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Vụ án thứ nhất 2 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (“Nguyên đơn”) đã ký hợp đồng tín dụng với ông Nguyễn Mạnh Thường và bà Nguyễn Thị Tuyết (“Bị đơn”). Theo đó, bị đơn vay nguyên đơn với số tiền là 150.000.000 đồng, thời hạn vay là 24 tháng, khi vay vốn bị đơn có thế chấp quyền sử dụng đất cấp của hộ gia đình bị đơn cho Ngân hàng. Do bị đơn không trả được nợ nên nguyên đơn đã khởi kiện bị đơn ra Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu để giải quyết. Do các đương sự đã thỏa thuận việc giải quyết toàn bộ vụ án nên Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 36/2011/QĐST-KDTM ngày 27/4/2011 (“Quyết định”) ghi nhận việc thỏa thuận trả nợ giữa các đương sự. Tuy nhiên sau đó Quyết định trên đã bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm (“HĐXXGĐT”) đã hủy Quyết định công nhận sự thỏa thuận nêu trên. Qua nghiên cứu, học viên cho rằng HĐXXGĐT đã căn cứ vào việc đương sự không thật sự tự nguyện khi thỏa thuận về việc giải quyết vụ án, có sự ép buộc của các bên (căn cứ quy định tại điểm a khoản 2 Điều 205 BLTTDS năm 2015, theo đó Tòa án phải tôn trọng sự tự nguyện của đương sự trong việc hòa giải và công nhận sự thỏa thuận của các bên, không được ép buộc họ thỏa thuận trái với ý chí của họ) để hủy Quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm nêu trên. Từ đây có một số vấn đề đặt ra như sau: Thứ nhất, tiêu chí để xác định như thế nào là ép buộc khi mà chính đương sự có mặt và tham gia hòa giải, đã tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án khi pháp luật hiện nay không có quy định tiêu chí về vấn đề này. Thứ hai, chứng cứ để xác định đương sự có sự ép buộc khi tham gia hòa giải và tự thỏa thuận việc giải quyết toàn bộ vụ án tại Tòa án là rất khó chứng minh trong khi biên bản hòa giải thành đều có chữ ký xác nhận của đương sự. Mặc khác, 2Quyết định giám đốc thẩm số 65/2014/KDTM-GĐT ngày 25/12/2014 của Tòa án nhân dân tối cao về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”. 11 tại phiên hòa giải các đương sự không được phép tự ghi âm, ghi hình lại khi chưa có được sự đồng ý của Tòa án nên rất khó chứng minh. Đối với các vụ án nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết theo hướng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của hộ gia đình khi chỉ có người đứng tên đại diện trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tham gia ký kết, thực hiện hợp đồng thì vẫn được công nhận. Nhưng cấp giám đốc thẩm lại theo hướng hợp đồng phải được sự thống nhất thỏa thuận của các thành viên có quyền sử dụng đất chung của hộ. Mặc khác, điều đáng nói trong quyết định này là sau khi Tòa án ban hành quyết định thì bà Tuyết khiếu nại cho rằng mình bị ép buộc ký vào biên bản hòa giải tại Tòa án, không có sự tự nguyện khi tham gia thỏa thuận. Quan điểm của Tòa án cấp giám đốc thẩm: Khi giải quyết vụ án, TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã không lấy lời khai của các đương sự để làm rõ những ai có quyền sử dụng đất hợp pháp; nguồn gốc tạo lập là của những ai; tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hộ ông Thường có những ai được hưởng quyền lợi đối với thửa đất này và họ có đồng ý với việc ông Thường, bà Tuyết ký hợp đồng thế chấp để vay tiền hay không; đồng thời bà Tuyết khiếu nại cho rằng bà không tham gia ký kết vào hồ sơ vay vốn, thế chấp và bị ép ký vào biên bản hòa giải. Từ đó tuyên hủy quyết định công nhận thỏa thuận của các đương sự nêu trên. Quan điểm học viên: Theo quy định hiện hành, việc thế chấp quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình được thực hiện thông qua người đại diện và có sự thỏa thuận thống nhất của tất cả thành viên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Việc tham gia xác lập, giao kết hợp đồng phải do chủ hộ thực hiện, đồng thời là người đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ gia đình, mà không thể là thành viên nào khác. Như vậy sẽ đảm bảo bên thứ ba dễ dàng xác định được tư cách chủ thể tham gia hợp đồng, qua đó bảo vệ tốt hơn quyền lợi của mình. Việc cấp giám đốc hủy án cấp sơ thẩm do vi phạm nội dung là hoàn toàn đúng và phù hợp với quy định của pháp luật. Xét về sự tự nguyện khi tham gia hòa giải, thỏa thuận tại Tòa án các bên phải thật sự tự nguyện, nếu không tự nguyện mà bị ép buộc thì được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và có chứng cứ chứng minh thì cấp giám đốc thẩm hủy Quyết định công nhận sự thỏa thuận này là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là tiêu chí nào xác định đương sự không tự nguyện tham gia thỏa thuận khi quyết 12 định công nhận sự thỏa thuận này được ban hành đúng pháp luật và đúng tình tiết sự kiện tại thời điểm Tòa án ban hành quyết định. Thời điểm hòa giải đương sự tham gia đã tự nguyện thỏa thuận và được Tòa án ghi nhận bằng biên bản hòa giải thành nhưng sau khi Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự thì đương sự lại cho rằng mình bị ép buộc, không tự nguyện nhằm mục đích gây bất lợi cho đương sự khác trong vụ án. Do đó, vấn đề này rất cần sự hướng dẫn của TANDTC, có thể hướng dẫn theo hướng trong trường hợp các đương sự trong phiên hòa giải, các bên đã thật sự tự nguyện thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án và không có khiếu nại về nội dung hòa giải thì sau khi hết thời hạn hòa giải và Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự thì coi như đương sự đã thật sự tự nguyện thỏa thuận với nhau. Để tránh trường hợp các bên đương sự lợi dụng sự tự nguyện để gây khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án và quá trình áp dụng pháp luật được thống nhất trong thực tiễn xét xử. Từ những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật học viên kiến nghị TANDTC nên có văn bản hướng dẫn thi hành điểm a khoản 2 Điều 205 BLTTDS năm 2015 theo hướng như sau: “Tại phiên hòa giải, trước khi hòa giải, Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải phổ biến cho các bên về nguyên tắc hòa giải. Nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, trước khi ký vào biên bản hòa giải, Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải yêu cầu các bên đương sự thể hiện ý chí tự nguyện thỏa thuận. Nếu không có đương sự nào thay đổi trước khi ký tên vào biên bản phải tự ghi về sự tự nguyện của họ. Sau khi hết thời hạn hòa giải mà các bên đương sự không có khiếu nại về nội dung hòa giải và Tòa án ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự thì coi như đương sự đã thật sự tự nguyện thỏa thuận với nhau”. 1.2. Nội dung thỏa thuận của các đƣơng sự không vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội 1.2.1. Nội dung thỏa thuận của các đương sự không vi phạm điều cấm của luật 1.2.1.1. Quy định pháp luật Điều 123 BLDS năm 2015 quy định: “Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định”. 13 Và tại khoản 2 Điều 205 BLTTDS năm 2015 quy định khi tiến hành hòa giải Tòa án phải tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự và nội dung thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Đây chính là hai trong số ba điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự được quy định tại Điều 117 BLDS năm 2015, bởi lẽ suy cho cùng hòa giải là do chính các đương sự thỏa thuận và thực hiện. Vì thế, việc các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án cũng tương đồng với việc các chủ thể đang thỏa thuận trong giao dịch dân sự theo quy định của pháp luật dân sự. Nội dung thỏa thuận của các đương sự không vi phạm điều cấm của luật có thể được hiểu là: Khi tiến hành thỏa thuận giải quyết nội dung vụ án đương sự không được quyền thỏa thuận những nội dung mà luật không cho phép đương sự thỏa thuận hay nói cách khác là những nội dung mà điều luật cấm. Do đó, mọi thỏa thuận vi phạm điều với cấm của pháp luật đều không được thừa nhận, không có giá trị pháp lý. Mặc dù pháp luật tôn trọng và bảo vệ quyền tự do thỏa thuận của mỗi cá nhân, tổ chức nhưng nếu thỏa thuận này vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội, cũng đồng nghĩa với việc thỏa thuận của các bên đang xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của người thứ ba và của cộng đồng xã hội thì nội dung thỏa thuận đó sẽ không được pháp luật bảo vệ và thừa nhận. Nếu giao dịch vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội đã vô hiệu ngay từ khi giao kết. Các bên tham gia giao dịch không thể thỏa thuận để giải quyết hành vi trái pháp luật của mình. Ví dụ, trường hợp kiện đòi tài sản vay là Đôla Mỹ, kiện đòi tiền nợ do sinh con thuê… Tuy nhiên, thực tiễn nhiều giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật do những nguyên nhân khách quan nên khi giải quyết vụ án, Tòa án phải xem xét thận trọng để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của đương sự. Khi giải quyết loại vụ án này, Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu và giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật. 1.2.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật và kiến nghị hoàn thiện Theo quy định tại Điều 123 BLDS năm 2015 “Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu” và có định nghĩa về điều cấm của luật theo đó “Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định”. Để hiểu được nội dung của luật đối chiếu với thực tế có những quy định chưa thật sự rõ nét. 14 Cụ thể tại khoản 1 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 và Điều 117 Luật Nhà ở năm 2014 quy định theo hướng liệt kê các quyền của người sử dụng đất và các quyền giao dịch về nhà ở mà không thể hiện rõ là nếu ngoài các quyền đó thì có cấm hay không chẳng hạn như cầm cố thì cấm hoặc được phép giao dịch vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể. Hiện nay một số Tòa án cho rằng cầm cố nhà và cầm cố quyền sử dụng đất là luật cấm nên tuyên hủy giao dịch và hoàn trả cho nhau những gì đã nhận còn một số Tòa án cho rằng luật không quy định, không có điều luật nào cấm cũng không nêu rõ chỉ có các quyền được liệt kê trong điều luật đó, do đó không cấm nên có thể áp dụng tương tự pháp luật để giải quyết. Vụ án thứ hai 3 4 Ngày 04-4-2012, giữa ông P, bà Đ (“Nguyên đơn”) và ông N, bà T (“Bị đơn”) có xác lập hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất với diện tích 4,5 công đất ruộng, thời hạn cố đất là 03 năm với số tiền là 100.000.000 đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng nguyên đơn đã giao đủ tiền nhưng bị đơn không giao đất nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang hủy hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất trên đồng thời yêu cầu bị đơn trả lại tiền cố đất cùng tiền lãi. Quan điểm của Hội đồng xét xử sơ thẩm: Đối chiếu với quy định của pháp luật tại các Điều 117, 119, 122, 123, 309, 310; Điểm b khoản 1 Điều 688 của BLDS năm 2015; Điều 106 của Luật Đất đai năm 2003 và Điều 166 của Luật Đất đai năm 2013 xác định đây là hợp đồng cầm cố tài sản (quyền sử dụng đất) đã vi phạm điều cấm của luật nên tuyên xử vô hiệu đồng thời căn cứ Điều 131 của BLDS năm 2015 để giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu này. Từ nội dung vụ án trên vấn đề đặt ra về tiêu chí để xác định điều cấm của luật hiện nay chưa quy định cụ thể. Điều luật quy định theo hướng liệt kê thì những trường hợp không được luật liệt kê có được xem là vi phạm điều cấm của luật không. Vụ án trên cũng có nhiều quan điểm khác nhau, cụ thể: Quan điểm thứ nhất: Tòa án tuyên hủy giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất là đúng vì người sử dụng đất chỉ được phép thực hiện giao dịch trong phạm vi những 3 Lý Văn Toán (2017), Những vụ án dân sự không được hòa giải và không tiến hành hòa giải được, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 18. 4 Bản án số 122/2020/DS-ST ngày: 19-8-2020 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang, về việc: “Tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất”. 15 quyền mà pháp luật quy định cụ thể “Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp 5 vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này” không đề cập đến quyền cầm cố quyền sử dụng đất, nếu người sử dụng đất thực hiện giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất sẽ vi phạm điều cấm, trái luật nên giao dịch này bị vô hiệu. Quan điểm thứ hai: Trong vụ án trên các bên đã tự nguyện thực hiện giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất từ khi xác lập đến khi thực hiện xuất phát từ tập quán cố đất ở nông thôn hiện nay. Giao dịch cố đất chưa được luật điều chỉnh chứ không phải là cấm nên việc Tòa án cho rằng giao dịch trên vi phạm điều cấm là không đúng. Theo khoản 1 Điều 167 của Luật Đất đai năm 2013 quy định “Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này.” Ở đây luật không đề cập đến từ “chỉ” mà rõ ràng là luật chưa quy định việc giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất nên cần áp dụng pháp luật tương tự trong phần cầm cố tài sản và các văn bản hướng dẫn để giải quyết. Quan điểm của học viên: Đồng ý với quan điểm thứ hai và hiểu như quan điểm này mới thật sự hợp lý đồng thời đảm bảo quyền lợi chính đáng của các bên. Cụ thể xét giao dịch trên về nội dung thỏa thuận đã thỏa mãn đối với hợp đồng cầm cố tài sản, một bên đã hoàn thành xong nghĩa vụ nhưng về hình thức thì chưa đạt. Tuy nhiên, theo khoản 1 Điều 129 BLDS năm 2015 quy định: “Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó” thì giao dịch này Tòa án nên công nhận chứ không nhất thiết phải tuyên hủy giao dịch. Căn cứ vào quy định tại Điều 131 của BLDS năm 2015 rõ ràng trong trường hợp này luật không cấm, hay không cho phép chủ thể thực hiện hành vi cố đất. Do đó, chủ thể hoàn toàn có quyền làm những gì mà pháp luật không cấm. Có thể thấy hiện nay quy định về điều cấm của luật vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến việc áp dụng pháp luật vào trong thực tiễn gặp nhiều khó khăn, chưa có tính thống nhất từ đó gây ảnh hưởng trực tiếp đến các bên tham gia giao dịch. Vấn đề đặt ra là cần phải có những quy định, hướng dẫn cụ thể trong việc áp 5Khoản 1 Điều 167 của Luật Đất đai 2013. 16 dụng pháp luật để các bên yên tâm tham gia vào giao dịch dân sự đồng thời tạo được sự thống nhất trong thực tiễn xét xử của Tòa án. Từ những bất cập trên, theo học viên, TANDTC cần có văn bản hướng dẫn thi hành điểm b khoản 2 Điều 205 BLTTDS năm 2015 theo hướng: Nội dung thỏa thuận vi phạm điều cấm của luật là những nội dung mà các đương sự thỏa thuận vi phạm các điều cấm trong các băn bản quy phạm pháp luật. Các điều cấm quy định trong các văn bản không phải là văn bản quy phạm pháp luật không áp dụng để giải quyết vụ án dân sự. Chẳng hạn như tại Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối của Ủy ban thường vụ Quốc hội số 28/2005/PL-UBNVQH11 ngày 13/12/2005 quy định: “Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các giao dịch với tổ chức tín dụng, các trường hợp thanh toán thông qua trung gian gồm thu hộ, uỷ thác, đại lý và các trường hợp cần thiết khác được Thủ tướng Chính phủ cho phép”. Trường hợp luật quy định theo hướng liệt kê thì cần phải thể hiện rõ nếu chỉ quy định trong phạm vi các quy định của luật thì ngoài phạm vi đó sẽ vi phạm điều cấm của luật. Ví dụ như khoản 1 Điều 167 của Luật Đất đai năm 2013 quy định “Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này.” Nếu ngoài những quyền này thì vi phạm điều cấm của luật. 1.2.2. Nội dung thỏa thuận của các đương sự không trái đạo đức xã hội 1.2.2.1. Quy định pháp luật Nội dung thỏa thuận của các đương sự không trái đạo đức xã hội có thể được hiểu là: Khi các đương sự thỏa thuận nội dung về việc giải quyết vụ án thì những nội dung này không trái những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Pháp luật cho phép các chủ thể được tự do xác lập về thực hiện giao dịch dân sự và chỉ được thừa nhận khi giao dịch đó không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Thông thường các quy định của pháp luật trong đó đã hàm chứa những nội dung phù hợp với đạo đức xã hội. Tuy nhiên, có một số giao dịch mà luật không quy định nghiêm cấm, nhưng vẫn bị vô hiệu vì xâm phạm đạo đức xã hội. Về bản chất khi giao dịch vô hiệu sẽ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ ngay từ thời điểm xác lập nên khi giải quyết 17 Tòa án không thừa nhận giao dịch vô hiệu này. Bởi nếu Tòa án công nhận sự tự nguyện thỏa thuận là đồng nghĩa với việc khuyến khích các bên tiếp tục vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, nếu các bên thỏa thuận không phải để thực hiện tiếp giao dịch mà chỉ để giải quyết hậu quả của giao dịch thì Tòa án vẫn tiến hành hòa giải và công nhận sự thỏa thuận. Do sự thỏa thuận của các đương sự trong trường hợp này là thống nhất phương thức khôi phục lại tình trạng ban đầu của giao dịch dân sự hoặc 6 phương án hoàn trả tài sản . Ngoài ra, hiện nay trong quá trình áp dụng những quy định về trường hợp trái đạo đức xã hội cũng phát sinh những vướng mắc cần được tháo gỡ. Theo đó Điều 123 BLDS năm 2015 quy định: “Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng”. So với điều cấm của luật, đạo đức xã hội có điểm khác biệt cơ bản nó không phải là quy định của luật mà là chuẩn mực trong đời sống, đạo đức xã hội khác điều cấm ở nơi nó hình thành, điều cấm hình thành trong những quy định của luật, còn đạo đức hình thành trong đời sống xã hội. Nội dung của đạo đức xã hội không nằm trong văn bản mà trong đời sống. Do đó tìm đạo đức xã hội là tìm kiếm trong đời sống xã hội rất khó về mặt nội hàm. Ví dụ: đời sống thay đổi thì mức ứng xử cũng khác nhau. Để xác định vụ án phát sinh từ giao dịch trái đạo đức xã hội thì thứ nhất phải xác định được nội dung của đạo đức xã hội và thứ hai phải có cơ sở xác định giao dịch dân sự trái với nội dung của đạo đức xã hội. Chính vì các đòi hỏi này mà trong thực tiễn rất hiếm trường hợp Tòa án khẳng định giao dịch trái đạo đức xã hội nên thủ tục hòa giải cũng gặp khó khăn. Điều quan trọng là phải xác định đúng như thế nào là vụ án phát sinh từ giao dịch trái đạo đức xã hội để không được hòa giải, nếu xác định sai mà Tòa án hòa giải và ra quyết định công nhận sự thỏa thuận là trái với quy định tại khoản 2 Điều 206 BLTTDS năm 2015. 1.2.2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật và kiến nghị hoàn thiện Nhìn chung đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về giao dịch như thế nào là trái đạo đức xã hội nên trong thực tiễn đời sống cũng như trong tư pháp, 6 Khoản 2 Điều 15 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: “Toà án không được hoà giải vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật (giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật) hoặc trái đạo đức xã hội, nếu việc hoà giải nhằm mục đích để các bên tiếp tục thực hiện các giao dịch đó. Trường hợp các bên chỉ có tranh chấp về việc giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu do trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội, thì Toà án vẫn phải tiến hành hoà giải để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu đó ”. 18 quan niệm về trái đạo đức xã hội có nhiều cách hiểu khác nhau, chưa có sự thống nhất. Chẵng hạn, có quan niệm cho rằng trái với nguyên lý là phải theo trong quan hệ người với người, giữa cá nhân với xã hội, tùy theo yêu cầu của chế độ chính trị và kinh tế nhất định, có thể hiểu trái với quan niệm phổ biến của xã hội về tiêu chuẩn, giá trị của các hành vi ứng xử. Vụ án thứ ba 7 Vào ngày 09/7/2010, bà Bùi Thị Hiền (“Nguyên đơn”) có thuê ông Trần Văn Thương (“Bị đơn”) xây nhà, trong quá trình xây cất giữa hai bên có trao đổi qua lại. Tuy nhiên, bà Nguyễn Thị Nhị (“Bị đơn” “vợ ông Thương”) đã ghen và cho rằng bà Hiền có quan hệ tình cảm với chồng mình nên bà Nhị yêu cầu nguyên đơn phải đưa một miếng đất thổ cư đổi lại bà Nhị không đến nhà quậy phá nhưng nguyên đơn không đồng ý. Sau đó bà Nhị tiếp tục yêu cầu nguyên đơn cho mượn số tiền 50.000.000 đồng và hai bên có làm biên nhận nợ. Tại tờ thỏa thuận ngày 24/5/2010 âm lịch nguyên đơn và bị đơn cùng làm và ký tên vào tờ thỏa thuận với nội dung: “Ngày 24/5/2010 âm lịch, tôi Bùi Thị Nhị đồng ý cho chồng tôi là Trần Văn Thương sống cùng chung với chị Bùi Thị Hiền ngụ tại… Nay chúng tôi làm tờ thỏa thuận này để làm bằng chứng. Kể từ nay không ai xúc phạm tới ai”. Nay nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lại tiền gốc và lãi nhưng bị đơn không đồng ý vì cho rằng số tiền này nguyên đơn tự nguyện đưa đổi lại ông Thương sẽ tiếp tục chung sống với nguyên đơn. Vấn đề đặt ra là hiểu như thế nào là trái đạo đức xã hội vì thực tiễn xét xử hiện nay các Tòa án vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau: Quan điểm của Hội đồng xét xử sơ thẩm (“HĐXX”): Cho rằng theo các tờ thỏa thuận cũng như lời khai của bị đơn đã thừa nhận có vay của nguyên đơn số tiền là 50.000.000 đồng. Tại kết luận giám định số 317 ngày 18/10/2014 cũng xác định chữ ký và viết là của bà Nhị. Mặc khác, tại tờ thỏa thuận lại ngày 28/6/2013 ông Thương thống nhất lãnh trách nhiệm trả tiền cho nguyên đơn mặc dù chỉ có mình ông Thương ký nhưng tại các tờ thỏa thuận ngày 24/5/2011 và ngày 28/6/2013 bị đơn vẫn còn trong thời kỳ hôn nhân nên HĐXX đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Như vậy, quan điểm của HĐXX cho rằng giao dịch ba bên trong vụ án này không trái đạo đức xã hội mà nhận định theo hướng là hợp đồng vay tài sản và căn cứ các quy định của BLDS để giải quyết. 7Vụ án dân sự thụ lý số:145/2014/TLST-DS ngày 03/7/2014 của Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan