Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Công chức cấp xã ở tỉnh thanh hóa trong giai đoạn hiện nay ...

Tài liệu Công chức cấp xã ở tỉnh thanh hóa trong giai đoạn hiện nay

.PDF
106
9
71

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ HỒNG NHUNG C¤NG CHøC CÊP X· ë TØNH THANH HãA TRONG GIAI §O¹N HIÖN NAY Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG HÀ NỘI - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Trần Thị Hồng Nhung MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: VỊ TRÍ, VAI TRÕ CỦA CÔNG CHỨC CẤP XÃ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ............................................................................. 7 1.1. Khái niệm về công chức cấp xã ......................................................... 7 1.1.1. Khái niệm về công chức ....................................................................... 7 1.1.2. Khái niệm về công chức cấp xã ........................................................... 9 1.2. Hệ thống chức danh công chức cấp xã ........................................... 11 1.3. Đặc điểm của công chức cấp xã ...................................................... 18 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC CẤP XÃ Ở TỈNH THANH HÓA VÀ PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG, KIỆN TOÀN ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC CẤP XÃ Ở TỈNH THANH HÓA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.........................................................................................................23 2.1. Thực trạng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã ở tỉnh Thanh Hoá ..... 23 2.1.1. Sự ảnh hưởng của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở tỉnh Thanh Hoá tới đội ngũ công chức cấp xã........................................... 23 2.1.2. Tình hình đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Thanh Hoá hiện nay ........... 28 2.1.3. Nguyên nhân của những ưu, hạn chế trong việc xây dựng đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Thanh Hoá ............................................ 58 2.2. Phƣơng hƣớng nâng cao chất lƣợng công chức cấp xã ở tỉnh Thanh Hoá ........................................................................................ 62 2.2.1. Yêu cầu của việc nâng cao chất lượng công chức cấp xã ở tỉnh Thanh Hoá .......................................................................................... 62 2.2.2. Phương hướng nâng cao chất lượng công chức cấp xã ở tỉnh Thanh Hoá .......................................................................................... 71 2.3. Những giải pháp chủ yếu xây dựng đội ngũ công chức ở tỉnh Thanh Hoá hiện nay ......................................................................... 75 2.3.1. Cụ thể hoá tiêu chuẩn các chức danh công chức cấp xã của tỉnh Thanh Hoá .......................................................................................... 75 2.3.2. Đánh giá đúng chất lượng đội ngũ công chức cấp xã ........................ 78 2.3.3. Quy hoạch đội ngũ công chức cấp xã của tỉnh Thanh Hoá................ 80 2.3.4. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Thanh Hoá ........................................................................... 83 2.3.5. Đổi mới việc đánh giá, lựa chọn, bố trí công chức cấp xã của tỉnh Thanh Hóa ................................................................................... 87 2.3.6. Tăng cường công tác quản lý đội ngũ công chức cấp xã của tỉnh Thanh Hoá .......................................................................................... 89 2.3.7. Đề cao việc tự học tập, tự rèn luyện của đội ngũ công chức cấp xã của tỉnh Thanh Hoá ....................................................................... 90 2.3.8. Tiếp tục đổi mới chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ công chức cấp xã của tỉnh Thanh Hoá ................................................................. 91 2.3.9. Có chính sách thu hút người có trình độ đại học trở lên và người trẻ tuổi về làm việc ở cấp xã, đồng thời hỗ trợ đối với công chức chưa đạt chuẩn, mạnh dạn giải quyết chế độ đối với công chức cấp xã có năng lực, trình độ, sức khoẻ không đảm bảo thực hiện nhiệm vụ của địa phương ................................................................... 94 KẾT LUẬN .................................................................................................... 96 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 98 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Về giới tính, dân tộc, tôn giáo, độ tuổi 32 Bảng 2.2: Về trình độ văn hoá 40 Bảng 2.3: Về trình độ chuyên môn 41 Bảng 2.4: Về trình độ lý luận chính trị và quản lý hành chính 43 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của nền hành chính nhà nước Việt Nam, chính quyền cấp cơ sở luôn giữ một vị trí, vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành công hay thất bại của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chính quyền cơ sở là nền tảng của toàn bộ hệ thống chính quyền, là cấp gần dân nhất, trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ cụ thể của hoạt động quản lý nhà nước trên tất cả các mặt ở địa phương, đảm bảo cho chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống. Tuy nhiên, chính quyền cơ sở không thể hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách hiệu lực và hiệu quả nếu thiếu một đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở có đủ trình độ để đảm nhận công việc được giao. Công chức cấp cơ sở là những người gần dân nhất, sát dân nhất. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, công chức cấp cơ sở chính là những người trực tiếp truyền tải pháp luật đến với nhân dân thông qua giải quyết các công việc liên quan tới quyền và lợi ích của nhân dân, đồng thời cũng là người thấu hiểu nhất những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, những vướng mắc bất cập của chính sách, pháp luật khi áp dụng chúng trong thực tế. Chủ trương, chính sách, pháp luật dù có đúng đắn nhưng sẽ khó có được hiệu lực, hiệu quả cao nếu như không được triển khai thực hiện bởi một đội ngũ công chức xã. Chính vì đội ngũ công chức cấp xã có vai trò quan trọng như vậy nên việc xây dựng đội ngũ công chức cấp xã vững vàng về chính trị, có đạo đức trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và trình độ năng lực để thực hiện các nhiệm vụ được giao luôn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Đây cũng là một trong những nội dung rất quan trọng của công tác cán bộ. 1 Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của hệ thống chính trị và đội ngũ công chức cấp xã đối với sự nghiệp CNH-HĐH phát triển đất nước. "Đầu tư xây dựng đội ngũ công chức cấp xã có phẩm chất, đạo đức và năng lực ngang tầng sự nghiệp đổi mới mang ý nghĩa như sự đầu tư cho hạ tầng cơ sở trong công tác cán bộ" [7]. Do vậy, nâng cao năng lực cho công chức cấp xã là một yêu cầu bức thiết nhằm góp phần xây dựng đội ngũ công chức cấp xã trong sạch, vững mạnh, đủ khả năng thực thi hành chức năng, nhiệm vụ theo đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, để thực hiện trọng trách là "công bộc" của nhân dân. Thanh Hóa là tỉnh lớn với hơn 3,4 triệu dân. Trước yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, Công chức ngang tầm với thời kỳ đẩy mạnh CNH HĐH, Thanh Hóa đang thực hiện nhiều giải pháp để tạo bước chuyển mới trong việc xây dựng đội ngũ công chức gắn với Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”[6]. Tháng 32012, Đảng bộ đã ban hành Nghị quyết 04 về “Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức và đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, đáp ứng yêu cầu Thanh Hóa thành tỉnh tiên tiến vào năm 2020” với mục tiêu xây dựng đội ngũ công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ số lượng, cơ cấu hợp lý, bảo đảm chất lượng, đạt yêu cầu về tiêu chuẩn, có sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ. Tuy nhiên, một thực tế khách quan đội ngũ công chức cấp xã của tỉnh hiện nay chất lượng còn thấp (đặc biệt đối với các vùng núi, vùng cao) không tương xứng với vai trò, vị trí của họ cũng như chức trách của các chức danh do Nhà nước quy định. Điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở nói riêng và của Đảng và nhà nước nói chung; tình trạng bất ổn cục bộ ở một số địa phương, làm suy giảm niềm tin của người dân đối với Đảng và Nhà nước. 2 Để có một đội ngũ công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh có chất lượng, đảm bảo "vừa hồng, vừa chuyên" hết lòng phụng sự nhân dân, giữ gìn đoàn kết ở cơ sở, tăng uy tín của Đảng và Nhà nước với nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân đã đặt ra nhiều vấn đề lí luận, pháp lí cần phải giải đáp thấu đáo, có căn cứ khoa học và thực tiễn. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: "Công chức cấp xã ở tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay" là yêu cầu tất yếu khách quan, cấp thiết cả về lí luận và thực tiễn. 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1. Mục tiêu tổng quát Luận văn hướng tới làm sáng tỏa cơ sở lí luận và thực trạng của đội ngũ công chức cấp xã của tỉnh Thanh hóa để đưa ra các quan điểm, phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện đội ngũ công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn hiện nay. 2.2. Mục tiêu cụ thể Nghiên cứu các mặt lý luận về công chức cấp xã, liên hệ tới thực tiễn về công chức tại tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay từ đó đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện đội ngũ công chức cấp xã tại tỉnh. 3. Tính mới và những đóng góp của đề tài Làm rõ khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của công chức cấp xã, hệ thống chức danh, chức trách, cơ cấu, trình độ năng lực của đội ngũ công chức cấp xã; Đánh giá thực trạng đội ngũ công chức cấp xã của tỉnh Thanh hóa với những kết quả bước đầu về nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp xã đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm kiện toàn đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Thanh hóa trong giai đoạn hiện nay, góp phần vào công cuộc cải cách hành chính của tỉnh. 3 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu đội ngũ công chức cấp xã bao gồm các chức danh thuộc công chức cấp xã; làm rõ hệ thống các chức danh, chức trách, trình độ năng lực, khả năng công tác trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp để hoàn thiện đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu hệ thống cơ cấu, chất lượng, chức trách chế độ làm việc, chế độ chính sách đối với công chức cấp xã của tỉnh Thanh Hóa từ năm 2010 đến năm 2013. 5. Tổng quan của đề tài Vấn đề công chức đã được nhiều chuyên gia, nhà khoa học, nhà nghiên cứu và nhiều công trình khoa học cũng đã nghiên cứu vấn đề này dưới nhiều gốc độ khác nhau. Có thể liệt kê một số công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực trên như sau: GS. Hồ Văn Thông: Tình hình các tổ chức chính trị ở nông thôn nước ta được in trong cuốn sách Kinh tế xã hội nông thôn Việt Nam ngày nay, tập 2, Nxb Tư tưởng văn hóa, Hà Nội 2008; Nguyễn Thị Hải: Về đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã ở Thái Bình trong điều kiện cải cách nền hành chính nhà nước, Hà Nội, 2009. Trong điều kiện cải cách hành chính nhà nước, vấn đề công chức chính quyền cấp xã được đặc biệt quan tâm. Một số đề tài khoa học, công trình nghiên cứu đề cập trực tiếp đến vấn đề này và hoàn chỉnh hơn. PGS, TS Bùi Tiến Quý: Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2009; TS Thang Văn Phúc và TS Chu Văn Thành đồng chủ biên: Chính quyền cấp xã và quản lý nhà nước cấp xã của Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước, Ban Tổ chức Cán bộ chính phủ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010; 4 TS Nguyễn Ngọc Hiến chủ biên: Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính ở Việt Nam của Học viện Hành chính Quốc gia, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2010; TS Nguyễn Văn Sáu và GS Hồ Văn Thông chủ biên: Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010; Th.S Dương Hương Sơn, Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở tỉnh Quảng Trị hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2009; Ngoài ra, một số bài viết, nghiên cứu được đăng trên các Tạp chí Thông tin Chính trị học, Tạp chí Quản lý nhà nước, Nhà nước pháp luật như: TS Lê Văn Hòe: Về hoàn thiện tổ chức bộ máy hệ thống chính trị ở các tỉnh miền núi, Đề tài độc lập cấp nhà nước: Các giải pháp đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị các tỉnh miền núi, Hà Nội, 2009; Dưới góc độ khoa học, các công trình nói trên là hết sức có giá trị đối với những người đã và đang nghiên cứu về công chức. Tuy nhiên, đến nay đề tài: "Công chức cấp xã ở tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay" là công trình nghiên cứu đầu tiên mang tính toàn diện đối với công chức chính quyền cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời sử dụng các phương pháp cụ thể như: Phương pháp lịch sử: Xem xét công chức cấp xã và pháp luật về công chức cấp xã qua từng giai đoạn, từng quá trình. Từ đó tìm ra quy luật của sự phát triển cũng như vai trò, vị trí của công chức cấp xã trong giai đoạn hiện nay. Phương pháp phân tích, tổng hợp: Luận văn kế thừa, tổng kết lại những kết quả của các công trình nghiên cứu về công chức cấp xã. Tuy nhiên đây 5 không phải là sự sao chép vì đã có sự sắp xếp theo kết cấu khác theo góc nhìn của tác giả. Phương pháp thống kê: Từ những kết quả thống kê, điều tra, khảo sát về thực trạng công chức cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa để đưa ra những giải pháp hợp lý. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1. Vị trí, vai trò của công chức cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay. Chương 2. Thực trạng đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa và phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, kiện toàn đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay. 6 Chương 1 VỊ TRÍ, VAI TRÕ CỦA CÔNG CHỨC CẤP XÃ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 1.1. Khái niệm về công chức cấp xã 1.1.1. Khái niệm về công chức Khái niệm công chức được hình thành, phát triển và hoàn thiện gắn với sự phát triển của nền hành chính nhà nước. Điểm khởi đầu của sự hình thành khái niệm công chức ở Việt Nam nằm trong giai đoạn 1946-1960, đó là việc ban hành Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về Quy chế công chức. Theo đó khái niệm Công chức được hiểu như sau: " Những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính phủ, ở trong hay ngoài nước đều là công chức theo quy chế này, trừ những trường hợp do Chính phủ quy định" [32]. Đây là lần đầu tiên ở Việt Nam, khái niệm Công chức đã được nêu ra trong văn bản chính thức của nhà nước. Theo Quy chế này, phạm vi công chức còn rất hẹp, chỉ là những người được tuyển dụng giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính phủ. Đây chính là đội ngũ công chức làm việc trong bộ máy hành chính nhà nước theo cách hiểu hiện nay. Sau đó một thời gian dài, (Giai đoạn từ năm 1960 đến cuối những năm 1980), do hoàn cảnh chiến tranh, Việt Nam không sử dụng khái niệm công chức mà thay vào đó là một khái niệm khác với cụm từ “cán bộ, công nhân, viên chức nhà nước”, không phân biệt công chức, viên chức với công nhân. Đến năm 1990, do yêu cầu khách quan của tiến trình cải cách nền hành chính nhà nước và đòi hỏi phải chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước cho phù hợp với quan niệm chung của quốc tế, thuật ngữ “công chức” lại được sử dụng trở lại và khái niệm công chức lại được quy định tại Nghị 7 định 169/HĐBT ngày 25/5/1991 của Hội đồng Bộ trưởng như sau: “Công dân Việt Nam được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một công sở của Nhà nước ở Trung ương hay địa phương, ở trong nước hay ngoài nước đã được xếp vào một ngạch, hưởng lương do Ngân sách nhà nước cấp, gọi là công chức”[9]. Khái niệm này đã nêu khá đầy đủ các dấu hiệu cơ bản về công chức trong nền hành chính hiện đại, phù hợp với quan niệm chung của các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên về mặt pháp lý, khái niệm này mới chỉ dừng lại ở mức độ thể hiện ở văn bản lập quy của Chính phủ. Năm 1998, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh cán bộ, công chức. Văn bản Luật này không chỉ điều chỉnh người làm việc trong phạm vi các cơ quan nhà nước mà còn điều chỉnh cả những người làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội. Trong đó những người thuộc phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh này đều gọi chung trong một cụm từ là “cán bộ, công chức”. Trong quá trình thực hiện cải cách nền hành chính nhà nước, để thực hiện và đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp, đổi mới cơ chế quản lý đối với cán bộ, công chức và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức hành chính nhà nước, ngày 13/11/2008 Quốc Hội đã ban hành Luật cán bộ, công chức. Theo đó Luật đã phân định rõ đối tượng cán bộ và công chức và tách biệt với đối tượng làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập sẽ do luật khác quy định, trừ một số vị trí quản lý trong các đơn vị sự nghiệp công lập vẫn là công chức. Đây là bước cải cách lớn nhất trong lịch sử nền công vụ ở Việt Nam, tách ra gần 1,5 triệu người làm việc trong khu vực sự nghiệp công lập, chiếm hơn 70% cán bộ công chức từ cấp Trung ương đến cấp huyện trong hệ thống chính trị. Cũng nhờ có việc phân định rõ các đối tượng này nên các chính sách đối với công chức được rõ ràng, phù hợp với đặc thù vị trí việc làm của công chức, không lẫn lộn với các đối tượng làm việc trong lĩnh vực sự nghiệp công lập. 8 Theo khoản 2 Điều 4 Luật cán bộ, công chức thì công chức năm 2008: Công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức Chính trị - Xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật [7]. Như vậy, Luật Cán bộ, Công chức là một sự kế thừa và phát triển những quy định trước đây về công chức. Khái niệm công chức được luật hoá. Luật Cán bộ, Công chức là cơ sở pháp lý cơ bản để phân định rõ giữa cán bộ với công chức. Việc phân định rõ cán bộ, công chức sẽ tạo điều kiện thuận lợi để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng các chính sách đối với công chức một cách phù hợp, phát huy được vai trò quan trọng của đội ngũ công chức trong hệ thống chính trị. 1.1.2. Khái niệm về công chức cấp xã Sự nhận thức đối với quan niệm về công chức cấp xã ở Việt Nam cũng nằm trong sự vận động chung của quan niệm về công chức Việt Nam qua từng thời điểm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Các quy định liên quan đến công chức xã được điều chỉnh bởi các văn bản như Quyết định số 112/HĐBT ngày 15/10/1981 quy định về chức năng, nhiệm vụ của chính 9 quyền cấp xã; Thông tư 477/TT ngày 10/12/1981 hướng dẫn thực hiện Quyết định số 112/HĐBT ngày 15/10/1981; Nghị định số 50/CP ngày 26/7/1995 quy định về số lượng và chế độ chính sách của cán bộ công tác Đảng, chính quyền, đoàn thể ở cấp xã; Thông tư 97/TTLB/TT-BTC ngày 16/8/1995 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 50/CP ngày 26/7/1995. Pháp lệnh Cán bộ, Công chức năm 1998 không quy định cụ thể về công chức cấp xã mà chỉ quy định chung về công chức. Trong các văn bản trên chỉ ra những chức danh công chức tại xã được hưởng sinh hoạt phí chứ không nêu khái niệm về công chức cấp xã. Trải qua một thời gian tương đối dài, lực lượng công chức cấp xã chưa được quan tâm đúng mức. Năm 2003, Uỷ ban thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Cán bộ, Công chức năm 1998 mới quy định chung về công chức cấp xã: Công chức quy định tại Pháp lệnh này là công dân Việt Nam, trong biên chế, bao gồm: - Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Bí thư, Phó bí thư Đảng uỷ; người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã); - Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã [19]. Mặc dù quy định trên cũng chưa phân định rõ quan niệm về công chức cấp xã nhưng trên cơ sở tiêu chí chung đã có quy định riêng dành cho công chức xã và Nghị định 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 về cán bộ, công chức cấp xã thì chúng ta vẫn có thể xác định được những đối tượng là công chức cấp xã. Ngày 13/11/2008, Quốc hội thông qua Luật Cán bộ, Công chức là bước tiến mới trong hoạt động lập pháp ở nước ta. Đây là các quy định kế thừa các quy định của Pháp lệnh Cán bộ, Công chức và các Nghị định của Chính phủ 10 nhằm nâng cao giá trị pháp lý và cụ thể việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý; nghĩa vụ, quyền của đội ngũ công chức cấp xã. Điểm mới trong việc quy định công chức cấp xã lần này là quy định chặt chẽ quyền, nghĩa vụ của công chức cấp xã, các chế độ tập sự, quyền hưởng lương, bảo hiểm; vấn đề bầu cử, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã; đánh giá, phân loại, xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức, miễn nhiệm, thôi việc, nghỉ hưu đối với công chức cấp xã. Việc luật hóa Công chức cấp xã có tác động rất lớn đến hệ thống chính quyền cơ sở, tạo sự ổn định về mặt chính trị đối với cấp xã; đồng thời, khắc phục tình trạng “phình biên chế” cơ sở cấp xã hiện nay. Có thể nói, chế định về công chức cấp xã là tâm điểm trong toàn bộ các quy định mới của Luật Cán bộ, Công chức. Công chức cấp xã là công dân Việt Nam trong biên chế, được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và Pháp luật. 1.2. Hệ thống chức danh công chức cấp xã Công chức xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là công chức cấp xã) làm công tác chuyên môn thuộc biên chế của Ủy ban nhân dân cấp xã, có trách nhiệm tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực công tác được phân công và thực hiện các nhiệm vụ khác do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã giao. Theo khoản 3, điều 61 Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 thì Công chức cấp xã có các chức danh sau: - Trưởng công an; - Chỉ huy trưởng quân sự; - Văn phòng thống kê; 11 - Địa chính - Xây dựng - Đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính - Nông nghiệp - Xây dựng và môi trường (đối với xã); - Tài chính - Kế toán; - Tư pháp - Hộ tịch; - Văn hoá - Xã hội [7, Điều 61, Khoản 3]. Trong bất kỳ một hệ thống công chức nào, tiêu chuẩn công chức theo ngạch hay theo vị trí việc làm đều có vai trò rất quan trọng. Đó là cơ sở để tuyển dụng, bố trí sử dụng, đào tạo bồi dưỡng. Tiêu chuẩn cũng là căn cứ để mỗi công chức yên tâm làm việc theo chức trách được giao, xác định hướng phấn đấu, nâng cao trình độ và khả năng làm việc, các cấp quản lý cũng căn cứ vào đó để tạo điều kiện cho cán bộ, công chức có cơ hội được học tập, bồi dưỡng. Thực hiện việc công chức hóa công chức cấp xã, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 112/2011/NĐ-CP ngày 05 tháng 12 năm 2011 về Công chức xã, phường, thị trấn và Thông tư số 06/2012/TT-BNV ngày 30 tháng 10 năm 2012 của Bộ Nội vụ hướng dẫn về chức trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm vụ và tuyển dụng công chức xã, phường, thị trấn; đã xác định rõ chức trách, nhiệm vụ của từng chức vụ, chức danh trong công chức cấp xã. Để thực hiện được chức trách, nhiệm vụ được giao đòi hỏi công chức cấp xã phải đáp những tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn cụ thể. * Tiêu chuẩn chung Đối với các Công chức Văn phòng - Thống kê, Địa chính - Xây dựng Đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc Địa chính - Nông nghiệp - Xây dựng và Môi trường (đối với xã), Tài chính - Kế toán, Tư pháp - Hộ tịch, Văn hóa - Xã hội: - Hiểu biết về lý luận chính trị, nắm vững quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước; 12 - Có năng lực tổ chức vận động nhân dân ở địa phương thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước; - Có trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp yêu cầu nhiệm vụ, vị trí việc làm, có đủ năng lực và sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ được giao; - Am hiểu và tôn trọng phong tục, tập quán của cộng đồng dân cư trên địa bàn công tác. Đối với công chức Chỉ huy trưởng Quân sự cấp xã và Trưởng Công an xã: ngoài những tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này còn phải có khả năng phối hợp với các đơn vị Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và lực lượng khác trên địa bàn tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thực hiện một số nhiệm vụ phòng thủ dân sự; giữ gìn an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Đảng, chính quyền, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước. * Tiêu chuẩn cụ thể Công chức cấp xã ngoài điều kiện về tiêu chuẩn chung thì còn có các tiêu chuẩn cụ thể sau: - Độ tuổi: Đủ 18 tuổi trở lên; - Trình độ văn hóa: Tốt nghiệp trung học phổ thông; - Trình độ chuyên môn: Tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp trở lên của ngành đào tạo phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của chức danh công chức được đảm nhiệm; - Trình độ tin học: Có chứng chỉ tin học văn phòng trình độ A trở lên; - Tiếng dân tộc thiểu số: Ở địa bàn công tác phải sử dụng tiếng dân tộc thiểu số trong hoạt động công vụ thì phải biết thành thạo tiếng dân tộc thiểu số phù hợp với địa bàn công tác đó; nếu khi tuyển dụng mà chưa biết tiếng dân tộc thiểu số thì sau khi tuyển dụng phải hoàn thành lớp học tiếng dân tộc thiểu số phù hợp với địa bàn công tác được phân công; 13 - Sau khi được tuyển dụng phải hoàn thành lớp đào tạo, bồi dưỡng quản lý hành chính nhà nước và lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo chương trình đối với chức danh công chức cấp xã hiện đảm nhiệm. Tiêu chuẩn cụ thể của công chức cấp xã là căn cứ để các địa phương thực hiện việc quy hoạch, kế hoạch, bầu cử, tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, xếp lương, nâng bậc lương và các chế độ, chính sách khác. Tiêu chuẩn cụ thể của công chức cấp xã được xác định theo từng chức vụ, chức danh như sau: - Đối với Công chức Tài chính - Kế toán: + Độ tuổi: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu. + Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng và đô thị, tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi. + Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải được bồi dưỡng lý luận chính trị với trình độ tương đương sơ cấp trở lên. + Chuyên môn nghiệp vụ: Ở khu vực đồng bằng có trình độ trung cấp Tài chính Kế toán trở lên. Với công chức đang công tác ở khu vực miền núi hiện nay, tối thiểu được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn Tài chính - Kế toán; nếu mới được tuyển dụng lần đầu phải có trình độ trung cấp Tài chính - Kế toán trở lên. Phải qua bồi dưỡng quản lý hành chính Nhà nước sau khi tuyển dụng. ở khu vực đồng bằng và đô thị phải sử dụng được kỹ thuật tin học trong công tác chuyên môn. - Đối với công chức Tư pháp - Hộ tịch + Tuổi đời: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu. + Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng và đô thị; tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi. + Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải được bồi dưỡng lý luận chính trị tương đương trình độ sơ cấp trở lên. + Chuyên môn nghiệp vụ: Ở khu vực đồng bằng có trình độ trung cấp 14 Luật trở lên và phải qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp cấp xã sau khi được tuyển dụng. Với công chức đang công tác ở khu vực miền núi hiện nay, tối thiểu được bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ tư pháp cấp xã; nếu mới được tuyển dụng lần đầu phải có trình độ trung cấp luật trở lên. Phải qua bồi dưỡng quản lý hành chính Nhà nước sau khi được tuyển dụng, ở khu vực đồng bằng và đô thị phải sử dụng được kỹ thuật tin học trong công tác chuyên môn. - Đối với Công chức Địa chính - Xây dựng + Tuổi đời: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu. + Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng và đô thị, tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi. + Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải được bồi dưỡng lý luận chính trị tương đương trình độ sơ cấp trở lên. + Chuyên môn nghiệp vụ: Ở khu vực đồng bằng có trình độ trung cấp Địa chính hoặc trung cấp Xây dựng trở lên. Với công chức đang công tác ở khu vực miền núi hiện nay, tối thiểu được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn Địa chính hoặc xây dựng; nếu mới được tuyển dụng lần đầu phải có trình độ trung cấp Địa chính hoặc xây dựng trở lên. Sau khi được tuyển dụng phải qua bồi dưỡng về quản lý đất đai, đo đạc bản đồ, quản lý hành chính Nhà nước. ở khu vực đồng bằng và đô thị phải sử dụng được kỹ thuật tin học trong công tác chuyên môn. - Đối với công chức Văn phòng - Thống kê. + Độ tuổi: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu. + Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng và đô thị, tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi. + Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải được bồi dưỡng lý luận chính trị tương đương trình độ sơ cấp trở lên. + Chuyên môn, nghiệp vụ: Ở khu vực đồng bằng có trình độ trung cấp 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan