Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Con ngƣời nhân văn trên thi đàn việt nam sơ kỳ trung đại...

Tài liệu Con ngƣời nhân văn trên thi đàn việt nam sơ kỳ trung đại

.PDF
110
49
95

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM TP.HCM CON NGƢỜI NHÂN VĂN TRÊN THI ĐÀN VIỆT NAM SƠ KỲ TRUNG ĐẠI Mã số: B 2005.23.69 Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS. ĐOÀN THỊ THU VÂN í THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2006 MỤC LỤC TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP BỘ .............................................................................................................................................. 1 SUMMARY ................................................................................................................... 2 PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................ 3 PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................................ 5 CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ KHÁI NIỆM .................................................. 5 1. Khái niệm "nhân văn": ....................................................................................... 5 2. Khái niệm "con ngƣời nhân văn " ...................................................................... 6 3. Khái niệm "sơ kỳ trung đại" .............................................................................. 7 4. Vấn đề "con ngƣời nhân văn trên thi đàn Việt Nam sơ kỳ trung đại". ............ 10 CHƢƠNG 2. CON NGƢỜI NHÂN VĂN TRONG THƠ THỜI LÝ VỚI VẺ ĐẸP MINH TRIẾT CỦA TRÍ TUỆ. ............................................................................................ 13 1. Vẻ đẹp của sự điềm tĩnh và thông tuệ - "dĩ bất biến ứng vạn biến " - của nhà cầm quyền trị nƣớc .......................................................................................................... 13 2. Vẻ đẹp an nhiên tự tại của con ngƣời hiểu rõ quy luật tự nhiên và sống hòa nhịp cùng quy luật. ........................................................................................................... 15 3. Vẻ đẹp của tinh thần tự do, "phá chấp": .......................................................... 18 CHƢƠNG 3. CON NGƢỜI NHÂN VĂN TRONG THƠ THỜI TRẦN VỚI VẺ ĐẸP MẪN CẢM CỦA TÂM LINH .................................................................................... 21 1. Sự phản tỉnh nhƣ một nét đẹp tâm hồn từ Trần Thái Tông đến Trần Minh Tông ................................................................................................................................. 23 2. Khát vọng tự do và những khoảng trời riêng trong thơ Trần Thánh Tông ...... 29 3. Một tấm lòng "mai hoa nhƣ tuyết" và những cảm thức đời ngƣời trong thơ Trần Quang Khải.............................................................................................................. 34 4. Trần Nhân Tông với những rung cảm tế vi và nhạy bén của tâm hồn. ............ 39 5. Huyền Quang với tâm hồn nghệ sĩ chan chứa tình đời. ................................... 50 6. Trần Quang Triều với cảm hứng sông hồ và những trầm tƣ trƣớc cuộc đời. .. 54 CHƢƠNG 4: CON NGƢỜI NHÂN VĂN TRONG THƠ THỜI LÊ SƠ VỚI VẺ ĐẸP TẬN TỤY CỦA Ý THỨC TRÁCH NHIỆM VÀ SỰ THANH CAO CỦA KHÍ TIẾT KẺ SĨ. ................................................................................................................................... 61 * Nguyễn Trãi - con ngƣời biết tìm niềm vui sống. ............................................. 63 PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................................... 79 THƢ MỤC THAM KHẢO.......................................................................................... 81 1 TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP BỘ Tên đề tài: CON NGƢỜI NHÂN VĂN TRÊN THI ĐÀN VIỆT NAM SƠ KỲ TRUNG ĐẠI Mã số: B 2005.23.69 Chủ nhiệm đề tài: Đoàn Thị Thu Vân Tel: 0918495982 E-mail: [email protected] Cơ quan chủ trì đề tài: Trƣờng Đại học Sƣ phạm TP. HCM Thời gian thực hiện: từ tháng 6 năm 2005 đến tháng 6 năm 2006. Mục tiêu: - Xác định sự có mặt "con ngƣời nhân văn" trong thơ ca Việt Nam sơ kỳ trung đại và tìm hiểu xem nó đã đƣợc biểu hiện ở những phƣơng diện nào, với cách thức ra sao. - Từ đó góp phần khẳng định thêm một giá trị thẩm mỹ đặc sắc của thơ ca Việt Nam sơ kỳ trung đại. Nội dung chính: Gồm 4 chƣơng Chƣơng 1: Một số vấn đề về khái niệm. Chƣơng 2: Con ngƣời nhân văn trong thơ thời Lý với vẻ đẹp minh triết của trí tuệ. Chƣơng 3: Con ngƣời nhân văn trong thơ thời Trần với vẻ đẹp mẫn cảm của tâm linh. Chƣơng 4: Con ngƣời nhân văn trong thơ thời Lê sơ với vẻ đẹp tận tụy của ý thức Trách nhiệm và sự thanh cao của khí tiết kẻ sĩ. Kết quả chính đạt đƣợc: - Xác định đƣợc sự có mặt của "con ngƣời nhân văn" trong thơ ca Việt Nam sơ kỳ trung đại cùng những nội dung biểu hiện phong phú và đa dạng của nó trong từng thời kỳ, từng tác giả khác nhau. - Từ đó khẳng định thêm một giá trị thẩm mỹ đặc sắc của thơ ca Việt Nam sơ kỳ trung đại, cũng nhƣ những đóng góp của nó đối với những giá trị văn hóa và con ngƣời Việt Nam. - Những kết quả này có thể ứng dụng vào việc giảng dạy chuyên đề ở cấp đại học và sau đại học. 2 SUMMARY Project Title: THE HUMANITARIAN IN VIETNAMESE EARLY MIDDLE AGE POETRY Code number: B2005.23.69 Coordinator: Đoàn Thị Thu Vân Tel: 0918495982 E-mail: [email protected] Implementing Institution: HCMC University of Pedagogy Du ration: From June, 2005 to June, 2006 Objectives: - Define the existence of humanitarian in Vietnamese poetry of Early Middle Age and find out in what aspects and what styles it manifested. - From that point, contribute to affirm one more special aesthetic value of Vietnamese Early Middle Age poetry. Main contents: Chapter 1. About concepts Chapter 2. The humanitarian with the wisdom of intellect in poems of The Ly's dynasty Chapter 3. The humanitarian with the sensibility of spirit in poems of The Tran's dynasty Chapter 4. The humanitarian with the devoted sense of responsibility and the intellectual's nobility in poems of The Early Le's dynasty. Results obtained: - The existence of humanitarian in Vietnamese Early Middle Age poetry has been defined with its properous, multiform manifestations in each period from different authors. - From that point, one more special aesthetic value of Early Middle Age poetry as well as its contributions to Vietnamese culture and people has been affirmed. - These results can be applied to teach as a major in undergraduate and postgraduate levels. 3 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Văn học sơ kỳ trung đại (thế kỷ X - giữa thế kỷ XV) là giai đoạn đầu tiên của nền văn học dân tộc thể hiện những giá trị đặc sắc của văn hóa và con ngƣời Đại Việt. Thơ ca, bộ phận quan trọng nhất của văn học sơ kỳ trung đại, do đó cần đƣợc nghiên cứu từ nhiều phƣơng diện để có thể giúp ngƣời đọc ngày nay đi sâu khám phá, tiếp cận ngày càng sâu sắc hơn những thông điệp tinh thần của tiền nhân. Tìm hiểu con ngƣời nhân văn trong thơ ca sơ kỳ trung đại là một trong những góc độ nghiên cứu khả dĩ thiết lập đƣợc chiếc cầu nối giữa ngƣời xƣa và ngƣời sau để thế hệ hiện đại có thể tìm thấy những gần gũi lạ kỳ trong suy tƣ, tình cảm, cảm xúc của ngƣời xƣa cách đây hơn nửa thiên niên kỷ, những đồng cảm sâu sắc vƣợt thời gian về những vấn đề muôn thuở của con ngƣời, từ đó giúp thế hệ trẻ hiểu cha ông mình nhiều hơn, vƣợt qua sự cách bức về phƣơng diện hình thức (ngôn ngữ, thể loại, các biện pháp nghệ thuật trung đại...) để không chỉ tự hào về những giá trị quý báu của văn học dân tộc mà còn có thể dùng những thể nghiệm của ngƣời xƣa soi rọi vào cuộc sống hôm nay, lĩnh hội đƣợc nhiều điều thú vị, bổ ích và có ý nghĩa. 2. Mục tiêu đề tài - Xác định sự có mặt "con ngƣời nhân văn" trong thơ ca Việt Nam sơ kỳ trung đại và tìm hiểu xem nó đã đƣợc biểu hiện ở những phƣơng diện nào, với cách thức ra sao. - Từ đó góp phần khẳng định thêm một giá trị thẩm mỹ của thơ ca Việt Nam sơ kỳ trung đại. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là thơ ca Việt Nam từ thế kỷ X đến khoảng giữa thế kỷ XV, cụ thể là mở đầu với tác giả Pháp Thuận ở thời Tiền Lê và kết thúc với tác giả Nguyễn Trãi ở đầu thời Hậu Lê. - Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những biểu hiện của "con ngƣời nhân văn" trong các tác phẩm thơ ca nhƣ đã nêu. Đề tài không đi sâu 4 tìm hiểu nội dung triết học Thiền Tông, triết học Nho gia hay Lão Trang trong các tác phẩm. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài, chúng tôi khảo sát toàn bộ các tác phẩm có liên quan đến phạm vi nghiên cứu, sau đó chọn lọc, thống kê, phân loại. Phƣơng pháp cơ bản đƣợc vận dụng là phân tích, sau đó so sánh để tìm ra những đặc điểm loại biệt về những biểu hiện "con ngƣời nhân văn" ở từng tác gia quan trọng trong từng chặng đƣờng của tiến trình (đƣợc phân định bằng triều đại - Lý, Trần, Lê sơ). Các đặc điểm tìm ra đƣợc tổng hợp thành một số đặc điểm lớn và sắp xếp, hệ thông hóa, để cuối cùng, rút ra những kết luận có tính khái quát. 5. Kết cấu Ngoài Phần mở đầu và Phần kết luận, Phần nội dung của đề tài bao gồm 4 chƣơng: - Chƣơng 1: Một số vấn đề về khái niệm. - Chƣơng 2: Con ngƣời nhân văn trong thơ thời Lý với vẻ đẹp minh triết của trí tuệ. - Chƣơng 3: Con ngƣời nhân văn trong thơ thời Trần với vẻ đẹp mẫn cảm của tâm linh. - Chƣơng 4: Con ngƣời nhân văn trong thơ thời Lê sơ với vẻ đẹp tận tụy của ý thức trách nhiệm và sự thanh cao của khí tiết kẻ sĩ. 5 PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ KHÁI NIỆM. 1. Khái niệm "nhân văn": Nói đến "nhân văn", trƣớc hết không thể không quan tâm đến những thuật ngữ gần nghĩa có liên quan mật thiết là "nhân bản" và "nhân đạo". "Nhân bản" là lấy con ngƣời làm gốc. Chủ nghĩa nhân bản là chủ nghĩa coi trọng con ngƣời với thực thể hiện hữu của nó - sự sống còn và bản chất ngƣời (bao gồm các bản năng vốn có và những giá trị khác). Do vậy, có thể thấy, "chủ nghĩa nhân bản" nhấn mạnh đến khía cạnh bản thể của con ngƣời. "Nhân đạo" là đƣờng đi của con ngƣời. Con đƣờng đó còn gọi là đạo lý. Đó là đạo lý phải tôn trọng quyền lợi chính đáng của con ngƣời, không đƣợc xâm phạm đến sinh mệnh, thân thể, tự do tƣ tƣởng, tình cảm của con ngƣời. "Chủ nghĩa nhân đạo" đòi hỏi sự thƣơng yêu, quý trọng và bảo vệ con ngƣời. Có thể thấy thuật ngữ này nhấn mạnh đến khía cạnh đạo đức. Về thuật ngữ "nhân văn", hiểu theo ý nghĩa từng từ tố, "nhân" là ngƣời, "văn" là vẻ đẹp. "Nhân văn" có thể hiểu nhƣ là những giá trị đẹp đẽ của con ngƣời. Một tác phẩm văn học có tính nhân văn là tác phẩm văn học thể hiện con ngƣời với những nét đẹp của nó, đặc biệt là những giá trị tinh thần nhƣ trí tuệ, tâm hồn, tình cảm, phẩm cách... Tác phẩm đó hƣớng đến khẳng định, đề cao vẻ đẹp của con ngƣời. "Chủ nghĩa nhân văn", theo Từ điển thuật ngữ văn học, có thể hiểu ở hai cấp độ, cấp độ thế giới quan và cấp độ lịch sử. Ở cấp độ thế giới quan, "chủ nghĩa nhân văn là toàn bộ những tƣ tƣởng, quan điểm, tình cảm quý trọng các giá trị của con ngƣời nhƣ trí tuệ, tình cảm, phẩm giá, sức mạnh, vẻ đẹp. Chủ nghĩa nhân văn không phải là một khái niệm đạo đức đơn thuần, mà còn bao hàm cả cách nhìn nhận, đánh giá con ngƣời về nhiều mặt (vị trí, vai trò, khả năng, bản chất...) trong các quan hệ với tự nhiên, xã hội và đồng loại" (1). (1) Từ điển thuật ngữ văn học – Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi – NXB Giáo dục, HN, 2004, tr, 88. 6 Ở cấp độ lịch sử, "chủ nghĩa nhân văn là một trào lƣu văn hóa - tƣ tƣởng nảy sinh ở Italia và một số nƣớc khác ở châu Âu thời Phục hƣng (thế kỷ XIV - XVI). Những ngƣời khởi xƣớng trào lƣu này chủ trƣơng giải phóng văn học nghệ thuật nói riêng và văn hóa nói chung khỏi sự bảo trợ của nhà thờ Cơ Đốc giáo và giải phóng cá nhân con ngƣời. Họ quan niệm không phải thần linh mà là con ngƣời tự định đoạt lấy số phận của mình. Con ngƣời có khả năng vô tận để hoàn thiện môi trƣờng của mình (...) Họ hƣớng văn học nghệ thuật vào sự sáng tạo và ca ngợi cái đẹp trần thế, lành mạnh, tự nhiên, đề cao những khát vọng cao đẹp và niềm tin vào sức mạnh toàn năng của con ngƣời" (1). Nhƣ vậy có thể thấy, từ thuật ngữ nƣớc ngoài có gốc La tinh là humanism, dịch sang tiếng Việt có thể có những cách dịch khác nhau, tùy trƣờng hợp và mục đích sử dụng. "Chủ nghĩa nhân bản" thiên về phạm trù triết học bản thể, "chủ nghĩa nhân đạo" thiên về phạm trù đạo đức, còn "chủ nghĩa nhân văn" thiên về phạm trù văn hóa. 2. Khái niệm "con ngƣời nhân văn " Thuật ngữ "con ngƣời" đƣợc dùng ở đây không phải để chỉ con ngƣời - sinh học, con ngƣời - triết học, con ngƣời - nhân chủng học hay con ngƣời - xã hội học..., mà là con ngƣời nghệ thuật trong tác phẩm văn học, hay nói khác đi là hình tƣợng nghệ thuật về con ngƣời trong tác phẩm văn học. Từ đó, "con ngƣời nhân văn" đƣợc hiểu nhƣ là hình tƣợng nghệ thuật về con ngƣời mang tính nhân văn, tức con ngƣời mang vẻ đẹp ngƣời (về trí tuệ, tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh...) đƣợc biểu hiện trong tác phẩm văn học. Đối tƣợng trung tâm của văn học là con ngƣời, bất kể một tác phẩm văn học nào đó có bóng dáng của một con ngƣời cụ thể hay chỉ có hoa cỏ, nƣớc mây hoặc những sinh vật khác. Trong thơ trữ tình, con ngƣời đó chính là tác giả - chủ thể trữ tình của tác phẩm. Bằng sự biểu hiện những tâm trạng, tình cảm, cảm xúc, suy tƣ..., nhân vật trữ tình trong tác phẩm thơ đã phô bày những tố chất con ngƣời của mình, để lại dấu ấn về cá nhân tác giả, và cả dấu ấn chung của một dòng thơ hay một giai đoạn thơ ca, vì nhà thơ nào cũng là con ngƣời cụ thể của một thời đại, có mối quan hệ mật thiết với những vấn đề xã hội, (1) Từ điển thuật ngữ văn học – Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi – NXB Giáo dục, HN, 2004, tr, 89. 7 tƣ tƣởng, văn hóa của thời đại đó. Tìm hiểu "con ngƣời nhân văn" trong thơ ca của một thời đại là để thấy ở đó, các nhà thơ đã bộc lộ những vẻ đẹp - con ngƣời nhƣ thế nào và bộc lộ ra sao. "Con ngƣời nhân văn" ấy đã đóng góp gì cho thơ ca thời đại và cho văn học cũng nhƣ văn hóa dân tộc nói chung. Điều này cũng là một tiêu chí để đánh giá giá trị thơ ca của một thời đại, đồng thời cho thấy thiên hƣớng nghệ thuật của thơ ca thời đại đó. Mặt khác, qua đó, thơ ca cũng giúp ngƣời đọc hiểu thêm về thời đại, có thể góp phần lý giải những vấn đề xã hội, chính trị, văn hóa, tƣ tƣởng có liên quan. Thơ ca là nghệ thuật của cái đẹp, nên bản thân nó đã mang tính nhân văn (ngoại trừ những gì chƣa đáng đƣợc gọi là thơ, chƣa đƣợc công chúng và thời gian khẳng định), thế nhƣng không phải lúc nào vấn đề con ngƣời nhân văn cũng đƣợc đặt ra. Vậy vấn đề ở đây là tại sao lại đƣa ra tìm hiểu "con ngƣời nhân văn trên thi đàn Việt Nam sơ kỳ trung đại"? Tại sao khi nói đến thơ ca Việt Nam sơ kỳ trung đại lại đề cập đến "con ngƣời nhân văn" mà không phải là một vấn đề gì khác. Điều này sẽ đƣợc lý giải sáng tỏ ở phần tiếp sau. 3. Khái niệm "sơ kỳ trung đại" Văn học trung đại đã đƣợc hầu hết các nhà nghiên cứu thống nhất là bắt đầu từ thế kỷ thứ X (thế kỷ bắt đầu mở ra kỷ nguyên độc lập tự chủ của đất nƣớc, và từ đó, bắt đầu hình thành một nền văn học dân tộc) và kết thúc vào cuối thế kỷ XIX (cùng với việc chấm dứt dùng văn tự Hán - Nôm với những thể cách truyền thống trong thi cử, sáng tác, cũng nhƣ trong nhiều sinh hoạt xã hội nói chung, để thay bằng chữ quốc ngữ và những thể cách mới ảnh hƣởng từ văn minh phƣơng Tây). Tuy nhiên, về phân kỳ văn học trung đại, trƣớc nay có khá nhiều ý kiến khác nhau, về đại thể có thể kể ra nhƣ sau: - Phân chia văn học trung đại làm 5 giai đoạn (theo bộ sách Văn học Việt Nam của Trƣờng Đại học Tổng hợp Hà Nội và bộ sách Lịch sử văn học Việt Nam của Trƣờng Đại học sƣ phạm Hà Nội) 1. Từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIV 2. Thế kỷ XV 3. Từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVIII 4. Từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX 5. Nửa cuối thế kỷ XIX 8 - Phân chia văn học trung đại làm 5 giai đoạn (theo bộ Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, do Đinh Gia Khánh chủ biên tập II và Huỳnh Lý chủ biên tập III): giai đoạn 1, 2 và 5 giống với giai đoạn 1, 2 và 5 trong cách chia trên, chỉ khác ở giai đoạn 3 và 4. 3. Từ thế kỷ XVI đến hết thế kỷ XVII 4. Từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX - Phân chia văn học trung đại làm 4 giai đoạn (theo bộ Lịch sử văn học Việt Nam của Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam) 1. Từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XV 2. Từ thế ky XVI đến giữa thế kỷ XVIII 3. Từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX 4. Nửa cuối thế kỷ XIX - Phân chia văn học trung đại làm 2 giai đoạn (theo Đặc trƣng văn học Việt Nam của Lê Trí Viễn): 1. Từ thế kỷ X đến cuối thế kỷ XV (Văn học thƣợng kỳ trung đại. 2. Từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX (Văn học hạ kỳ trung đại) - Gần đây nhất, ở sách giáo khoa thí điểm Ngữ Văn 10, các tác giả ở bộ sách 1 và bộ sách 2 lại có cách phân chia khác. + Bộ sách 1 phân chia văn học trung đại làm 4 giai đoạn: 1. Từ thế kỷ X đến hết thế ky XIV. 2. Từ thế ky XV đến hết thế kỷ XVII 3. Từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX 4. Nửa cuối thế kỷ XIX + Bộ sách 2 phân chia văn học trung đại làm 2 giai đoạn: 1. Từ thế kỷ X đến hết thế ky X VII 2. Từ thế ky XVIII đến cuối thế kỷ XIX Mỗi cách phân kỳ trên đều có những lý do hợp lý riêng của nó. Suy nghĩ về cơ sở và mức độ hợp lý của những cách phân kỳ trên, đồng thời kế thừa từ những đóng góp của ngƣời đi trƣớc, trong tiểu luận này, ngƣời viết đề xuất một cách phân kỳ không quá đi vào chi li nhƣng cũng không khái quát quá rộng - chia văn học trung đại làm 3 giai đoạn: 1. Sơ kỳ trung đại: Từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XV 2. Trung kỳ trung đại: Từ giữa thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVIII 3. Hậu kỳ trung đại: Từ giữa thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX 9 Cách phân chia này dựa trên những biến chuyển tự thân của văn học, nhằm phù hợp với yêu cầu phát triển của từng thời đại cũng nhƣ nhiệm vụ của từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Sơ kỳ trung đại là giai đoạn mở đầu của văn học trung đại với cảm hứng chủ đạo là khẳng định dân tộc về quyền độc lập tự chủ, văn hóa, nội lực, bản lĩnh... Trung kỳ trung đại là giai đoạn giữa của văn học trung đại, xuất hiện trong điều kiện lịch sử giai cấp phong kiến đã trƣởng thành, già dặn kinh nghiệm để đƣa chế độ phong kiến phát triển đến đỉnh cao. Cảm hứng chủ đạo của văn học giai đoạn này là khẳng định chế độ phong kiến với những kỷ cƣơng, phép tắc và luân thƣờng đạo lý của nó. Cảm hứng khẳng định đó có lúc kết hợp song hành giữa khẳng định triều đại phong kiến với niềm tự hào về sự phát triển cƣờng thịnh của đất nƣớc (nửa cuối thế kỷ XV, dƣới triều Lê Thánh Tông), nhƣng cũng có lúc lại là nỗi bất mãn trƣớc hiện thực nhiễu nhƣơng, phong hóa suy đồi, là lời kêu gọi giữ gìn đạo lý trong khuôn khổ Nho gia (thế kỷ XVI, với Nguyễn Bỉnh Khiêm là đại biểu). Hậu kỳ trung đại là giai đoạn cuối với cảm hứng chủ đạo là cảm hứng nhân đạo phản kháng lại những bất công của chế độ phong kiến và những quy định khắc nghiệt của lễ giáo phong kiến, phá vỡ những quy phạm cố hữu mang tính cao nhã của thơ văn trung đại để tiếp cận cuộc sống hiện thực đời thƣờng của những ngƣời dân thƣờng trong xã hội. Vì sao ở cách phân kỳ này, giai đoạn sơ kỳ trung đại kết thúc ở giữa thế kỷ XV mà không phải là cuối thế kỷ XIV nhƣ nhiều cách phân kỳ đã nêu? Có thể thấy văn học thời Lý Trần chịu ảnh hƣởng một tinh thần cởi mở và tự do đặc biệt của dân tộc ở buổi đầu kỷ nguyên tự chủ với chủ trƣơng Tam giáo đồng nguyên trong đó Phật giáo giữ vai trò chủ đạo. Tuy từ giữa thế kỷ XIV trở đi, Nho giáo đã bắt đầu thắng thế và khi triều đại nhà Lê thành lập ở đầu thế kỷ XV, Nho giáo đã thực sự bƣớc lên ngôi vị thống soái về tƣ tƣởng, nhƣng thế hệ các nhà thơ cuối thế kỷ XIV cho đến thế hệ Nguyễn Trãi ở đầu thế kỷ XV vẫn còn giữ đƣợc dƣ phong hào hùng, khoáng đạt của thời Lý Trần và khí vị tam giáo đồng nguyên hài hòa trong cảm xúc thẩm mỹ về thiên nhiên, cuộc sống, cả trong cách sống cũng nhƣ trong những quan niệm về nhiều mặt của đời sống. Tình hình bắt đầu đổi khác từ giữa thế kỷ XV trở đi, với sự đăng quang của Lê Thánh Tông, một ông vua sùng thƣợng Nho học và biết tận dụng những mặt mạnh của Nho giáo để củng cố vững chắc ngai vàng của triều đại, quyền lực của chế độ phong kiến, đồng thời phát triển đất nƣớc cƣờng thịnh. Học phong, tƣ tƣởng từ đấy trở đi 10 có khác với trƣớc, và do đó văn học cũng thế; nó bị chi phối nghiêm nhặt bởi quan niệm thẩm mỹ về tôn ti trật tự, khuôn khổ và đẳng cấp. Vì sao giai đoạn trung kỳ trung đại kết thúc ở giữa thế kỷ XVIII mà không phải là ở cuối thế kỷ XVII nhƣ trong một số cách phân kỳ đã nêu? Có thể thấy những biến động dữ dội của lịch sử ở nửa cuối thế kỷ XVIII (chế độ phong kiến mục nát và khủng hoảng trầm trọng, nội chiến liên miên, nhân dân thống khổ nổi dậy ở khắp nơi tạo thành cao trào nông dân khởi nghĩa) đã kéo theo những yêu cầu đổi mới sâu sắc về nội dung cũng nhƣ nghệ thuật của văn học (cảm hứng nhân đạo chống phong kiến, đòi hỏi giải phóng con ngƣời về mặt tình cảm, đấu tranh cho quyền sống hạnh phúc, tự do của ngƣời phụ nữ, thơ ca đòi hỏi vƣợt khỏi quy phạm từ thể loại đến đề tài, ngôn ngữ, cách diễn đạt, giọng điệu...). Khúc ngâm của ngƣời chinh phụ (Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, Phan Huy ích diễn nôm) xuất hiện ở giữa thế kỷ XVIII đã đánh dấu một bƣớc ngoặt quan trọng về cảm hứng nghệ thuật, góp mặt trên thi đàn tiếng nói tâm tình riêng tƣ, khát vọng hạnh phúc lứa đôi của con ngƣời - cá nhân thống thiết và mãnh liệt. Trong một thời kỳ của một quá trình nào đó, giai đoạn ở giữa bao giờ cũng kết tinh đậm đặc và cao độ những thuộc tính cơ bản của thời kỳ. Giai đoạn đầu là giai đoạn mới phát sinh và đang đà phát triển, nó chƣa xuất hiện đầy đủ các thuộc tính. Giai đoạn cuối là giai đoạn đã đi qua đỉnh cao của sự phát triển, và theo đúng quy luật vận động khách quan, các thuộc tính trở nên tha hóa, tạo mâu thuẫn bên trong để thúc đẩy kết thúc chu kỳ và chuẩn bị mở ra một thời kỳ mới. Văn học trung đại cũng thế, không nằm ngoài quy luật ba giai đoạn phát triển, trƣởng thành và dị hóa - tƣơng ứng với sơ kỳ, trung kỳ và hậu kỳ trung đại. 4. Vấn đề "con ngƣời nhân văn trên thi đàn Việt Nam sơ kỳ trung đại". Tại sao lại đặt ra vấn đề tìm hiểu về con ngƣời nhân văn trên thi đàn Việt Nam sơ kỳ trung đại? Trƣớc hết cần nhìn lại bối cảnh lịch sử giai đoạn sơ kỳ trung đại. Đây là giai đoạn củng cố và phát triển chế độ phong kiến ở Đại Việt. Các triều đại phong kiến tự chủ còn non trẻ đã dựa vào dân để xây dựng sức mạnh cho mình, để phát huy nội lực dân tộc đánh lùi mọi kẻ thù ngoại xâm hung hãn bảo vệ lãnh thổ và xây dựng đất nƣớc độc lập 11 tự cƣờng, có bản sắc, có tiếng nói và vị thế trong khu vực (Thực lực và vị trí đáng tự hào của Đại Việt đƣơng thời đã đƣợc Nguyễn Trãi ghi lại khá rõ trong Dƣ địa chí). Lý Thái Tông xuống chiếu xá thuế cho dân với quan niệm "Nếu trăm họ đều no đủ thì trẫm còn lo gì thiếu thốn?"(1). Lý Thánh Tông tỏ lòng yêu dân nhƣ con - "Ta yêu con ta cũng nhƣ những bậc cha mẹ trong thiên hạ yêu con cái họ. Trăm họ vì thiếu hiểu biết nên tự phạm vào hình pháp, lòng ta rất xót thƣơng! Cho nên từ nay về sau, không cứ tội nặng hay nhẹ, đều nhất luật khoan giảm"(2). Lý Nhân Tông viết Lâm chung di chiếu yêu cầu tiết kiệm, giản dị trong tang lễ vì "Trẫm đã ít đức, không làm gì cho trăm họ đƣợc yên, đến khi chết đi lại bắt dân chúng mặc xô gai, sớm tối khóc lóc, giảm ăn uống, bỏ cúng tế, để làm nặng thêm lỗi lầm của trẫm thì thiên hạ sẽ bảo trẫm là ngƣời nhƣ thế nào?"(3). Trần Nhân Tông xử kiện giữa đƣờng khi dân đón xa giá kêu oan. Trần Quốc Tuấn trƣớc lúc sắp mất để lại lời nhắn nhủ vua nên "khoan thƣ sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc". Nguyễn Trãi suốt đời đeo đuổi lý tƣởng nhân nghĩa, trừ bạo để yên dân... Nhƣng điểm nổi bật của giai đoạn sơ kỳ trung đại không chỉ ở đƣờng lối chính trị thân dân, sức mạnh đoàn kết toàn dân và những thành tựu rực rỡ có đƣợc từ đó, mà còn ở tinh thần rộng mở đặc biệt khó gặp lại ở đời sau. Chƣa có một sự phân chia đẳng cấp khắc nghiệt giữa vua quan, quý tộc và "trăm họ". Trong những lễ hội truyền thống, vua quan và thứ dân cùng tham gia vui chơi. Hoàng Cự Đà vì không đƣợc ăn xoài vua ban, khi giặc đến đã bỏ mặc vua không cứu nhƣng vẫn đƣợc Trần Thái Tông tha tội vì thấy đƣợc nguồn gốc là lỗi ở mình. Khi có ngƣời tâu lên Trần Minh Tông trong dân gian có nhiều ngƣời du thủ du thực, đến già vẫn không có hộ tịch, thuế má không nộp, sai dịch không theo. Vua nói: "Không nhƣ thế thì sao có thể thành đời thái bình? Trách phạt họ thì liệu có đƣợc việc gì không?"(4). Các nhà sƣ tinh thông cả tam giáo và đắc đạo ngay trong chính cuộc đời thế tục với tinh thần "bậc chí nhân hiện thân giữa cõi đời tất phải tế độ chúng sinh. Làm việc gì cũng phải đầy đủ, không việc gì không làm" (5) . Quảng Nghiêm thiền sƣ khuyên mọi ngƣời "Làm trai phải có chí xung thiên, không nên dẫm theo vết (1) Xá thuế chiếu – Lý Thái Tông – Thơ văn Lý Trần, tập I, Viện Văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977. (2) Cố Động thiên công chúa, vị ngục lại – Lý Thánh Tông – Sđd. Lâm chung di chiếu – Lý Nhân Tông – Sđd. (4) Đại Việt sử ký toàn thư, tập II – Viện Khoa học xã hội Việt Nam – NXB Khoa học xã hội, HN, 1998, (3) tr. 138. (5) Thiền uyển tập anh – Phân viện Nghiên cứu Phật học – NXB Văn học, HN, 1990, tr. 93. 12 mòn mà Phật tổ đã đi"(1). Trần Thái Tông thì xem ngôi vua chỉ nhƣ chiếc giày rách, thích tự do, không muốn bị trói buộc nên nửa đêm bỏ ngai vàng, trốn khỏi cung điện lên núi ẩn cƣ. Trần Nhân Tông biết trọng dụng ngƣời tài, dám tin dùng Trần Quốc Tuấn là con kẻ từng có hiềm khích với gia đình mình. Hƣng Đạo Vƣơng viết hịch kêu gọi các tƣớng dốc lòng đánh giặc Nguyên Mông cứu nƣớc lại dám đề cao những gƣơng sáng trung nghĩa ở ngay trong hàng ngũ đối phƣơng. Trần Minh Tông dũng cảm tự hối về lỗi lầm của mình. Nhờ tinh thần rộng mở đặc biệt đó mà các trí thức thời đại đã tiếp thu đƣợc những tinh hoa tƣ tƣởng nƣớc ngoài để làm phong phú thêm cho văn hóa của mình mà vẫn không để mất bản sắc dân tộc. Làm đƣợc điều này không phải dễ. Phải có bản lĩnh vững vàng và phải rất tự tin. Thời đại đặc biệt ấy đã sản sinh ra một nền văn học giàu khí sắc, trong đó thơ ca đã để lại dấu ấn sâu sắc về tác giả - những con ngƣời từng tự hào cùng với gió lộng, trăng cao "hợp thành ba thứ tuyệt diệu lạ lùng trong thiên hạ”(2). Tìm hiểu con ngƣời nhân văn trong đó không chỉ để hiểu hết giá trị các tác phẩm thơ ca mà còn để hiểu về chủ thể sáng tạo với những khát vọng thẩm mỹ về con ngƣời và cuộc sống của một thời; và trên cơ sở của những điều đó, tìm hiểu về một phƣơng diện cống hiến đặc biệt của thơ ca sơ kỳ trung đại cho văn học trung đại nói riêng, văn học dân tộc nói chung. (1) Thị tịch – Quảng Nghiêm. Vân Tiêu Am – Trần Anh Tông – Thơ văn Lý Trần, Tập II, quyển thượng, Viện Văn học, Nxb Khoa học xã hội, HN, 1988. (2) 13 CHƢƠNG 2. CON NGƢỜI NHÂN VĂN TRONG THƠ THỜI LÝ VỚI VẺ ĐẸP MINH TRIẾT CỦA TRÍ TUỆ. Phần lớn thơ thời Lý còn lại đến nay là thơ thiền. Điều này không lạ vì Phật giáo ở thời Lý rất thịnh và có ảnh hƣởng trong mọi mặt sinh hoạt của xã hội. Đó là một đạo Phật của Đại Việt trong thực tiễn và không xa rời cuộc sống. Nhiều thiền sƣ có học vấn uyên bác và giữ địa vị quan trọng trong triều đình, đƣợc vua xem trọng và tham vấn quốc sự. Vua, quan, hoàng tộc nhiều ngƣời mộ đạo, thậm chí có ngƣời xuất gia. Đạo Phật không chỉ có ảnh hƣởng đến đƣờng lối chính trị (nội trị, ngoại giao) của nhà nƣớc mà còn thấm nhuần trong văn hóa, nghệ thuật (phong tục, lễ hội, tín ngƣỡng, kiến trúc, điêu khắc...). Tuy nhiên nếu thơ thiền bao gồm cả loại thơ triết lý (trực tiếp hoặc gián tiếp diễn giải về triết lý Thiền) và trữ tình (bày tỏ cảm xúc mang ý vị thiền trƣớc cái đẹp của thiên nhiên, con ngƣời, cuộc sống hoặc trạng thái tâm linh khi giác ngộ chân lý) thì ở thời Lý loại thứ nhất chiếm đa số. Có thể thấy ở thơ thời Lý, mà đa số là thơ thiền, chất triết học, vẻ đẹp của trí tuệ nhƣ là một yếu tố trội nổi. Ở đó có chiều sâu của sự suy tƣ từ cội nguồn sự vật kết hợp với sự linh mẫn của trực giác để có cái nhìn xuyên thấu, khám phá bản chất sự vật. 1. Vẻ đẹp của sự điềm tĩnh và thông tuệ - "dĩ bất biến ứng vạn biến " - của nhà cầm quyền trị nƣớc Thơ thời Lý mở đầu với bài Quốc tộ (Vận nƣớc) của Pháp Thuận. Tuy tác giả là thiền sƣ nhƣng đây lại là một bài thơ thế tục của một vị quốc sƣ trình bày với vua (Lê Đại Hành) những nhận định của mình về vận nƣớc và đƣờng lối chính trị đúng đắn, phù hợp để đất nƣớc đƣợc thái bình và bền vững dài lâu. "Quốc tộ nhƣ đằng lạc, Nam thiên lý thái bình. Vô vi cƣ điện các, Xứ xứ tức đao binh" (Vận nƣớc nhƣ dây mây quấn quýt, Trời Nam mở ra nền thái bình. Thực hiện đƣờng lối "Vô vi" ở nơi điện các, Khắp nơi tắt hết cảnh chiên tranh loạn lạc) 14 Mở đầu bài thơ là một hình ảnh so sánh độc đáo - "Vận nƣớc nhƣ dây mây quấn quýt". Không cần nhiều lời mà ngƣời đọc vẫn hiểu đƣợc những ý nghĩa sâu xa muốn ẩn ngụ. Vận nƣớc không đƣợc ví nhƣ cây to cội cả. Ví nhƣ thế e hơi khoa trƣơng mà không hợp với một dân tộc đất không rộng ngƣời không đông. Vả lại, cây to trông cứng cáp khỏe mạnh nhƣng lại dễ gãy. Dây mây là loại dây leo ở rừng, thân mềm dẻo nhƣng rất chắc và dai. Dây mây tuy nhỏ nhƣng một khi quấn quýt thành bó to không dễ gì chặt đứt. Lúc đó nó có sức mạnh và sự diệu dụng hơn cả cổ thụ. Vì nó không chỉ bền chắc mà còn uyển chuyển phù hợp từng hoàn cảnh khác nhau. Đây là sức mạnh của nhu thắng cƣơng, nhƣợc thắng cƣờng. Dùng hình ảnh dây mây quấn quýt để ví với vận nƣớc đƣơng thời thật là đắc địa. Nhà thơ không chỉ nói lên đƣợc sự bền bỉ, lâu dài của vận nƣớc mà còn chỉ ra sự bền lâu đó chính là do sức mạnh đoàn kết toàn dân, trên dƣới một lòng gắn bó, khác nào những sợi mây nhỏ quấn quýt vào nhau tạo thành bó to vững chãi. Vì nƣớc Nam, ngƣời Nam nắm giữ đƣợc nguyên lý đó nên nơi trời Nam mở ra nền thái bình với cảnh sống an cƣ lạc nghiệp. Lời nhận xét về vận nƣớc không dấu đƣợc niềm tự hào, niềm vui phơi phới về một vận hội tốt đẹp của nƣớc nhà đang mở ra. Đâu phải dễ dàng mà nói đƣợc hai chữ "thái bình" khi nƣớc nhà không lâu vừa trải qua bao cơn binh lửa. Ngô Vƣơng đuổi quân Nam Hán giành lại đƣợc độc lập chủ quyền chƣa lâu, đất nƣớc chƣa kịp hồi phục sức lực sau mƣời thế kỷ bị ách nô lệ đè nặng thì đến nội loạn mƣời hai sứ quân. Nƣớc nhà vừa đƣợc vua Đinh thống nhất một thời gian ngắn thì Tống triều lại dòm ngó và xua quân sang xâm lƣợc. Vua Lê Đại Hành, với sự đồng lòng ủng hộ của tƣớng sĩ và toàn dân đã chiến thắng vẻ vang. "Nam thiên lý thái bình" đƣợc khẳng định một cách đƣờng hoàng dõng dạc rõ ràng là trên cơ sở của sức mạnh đoàn kết, nhờ bài học đoàn kết mà có. Và vì thế cho nên nhà cầm quyền nhất thiết không đƣợc quên cách trị nƣớc phù hợp để đem lại đƣợc sức mạnh đoàn kết đó. Câu thơ thứ ba thoạt nhìn khá đơn giản - "Vô vi cƣ điện các" - nhƣng thật ra lại là một đƣờng lối chính trị vô cùng khéo léo và sáng suốt. "Vô vi" theo Lão Tử là không làm gì trái với tự nhiên. Cách sống "vô vi" là hiểu biết quy luật của tự nhiên, xã hội, và sống thuận theo quy luật. Từ đó có thể hiểu chính trị "vô vi" là một nền chính sự giản dị, lấy ý muốn của dân làm gốc, không làm gì phiền nhiễu cho dân, không đặt thêm thuế khóa, bắt dân phục dịch... ''Vô vi" theo nhà Phật còn có hàm ý nhƣ "vô ngã", tức không làm gì có ý riêng cho mình, 15 nhằm phục vụ lợi ích riêng. Để vận nƣớc lâu dài, cần có một thân cây vững chắc làm chỗ dựa cho dây mây bám vào, cũng nhƣ trong nƣớc cần có một ông vua thực sự biết quên mình vì dân, lấy lòng dân làm lòng mình, ý dân làm ý mình để làm trung tâm cho sự đoàn kết của toàn dân. Với một ông vua thƣơng dân, nhân hậu và một đƣờng lối chính trị lấy dân làm gốc nhƣ thế, tất yếu là dân sống yên ổn, no ấm và hạnh phúc. Dân vui thì làm gì còn loạn lạc. Và "nhân" đã tạo ra "uy". Cả nƣớc đồng lòng thì đất nƣớc giàu mạnh, nội lực sung mãn, lân bang kiêng nể, không ai dám dòm ngó. Vì thế mà "Xứ xứ tức đao binh". Không cần dẹp loạn mà chiến tranh tự tắt, khắp nơi vui cảnh thái bình. Có thể thấy chính trị sáng suốt đã tạo ra uy lực cho triều đại và cho tổ quốc. "Vô vi cƣ điện các" mới nghe thì dễ nhƣng để làm đƣợc một ông vua nhƣ thế thật không đơn giản chút nào. Phải biết quên mình, vì biết quên mình mới nghe đƣợc lòng dân, mới làm theo đƣợc công tâm để mỗi hành dộng đều quang minh chính đại, khiến cho mọi ngƣời tâm phục, cái uy tự nhiên đến mà không cần dùng vũ lực. "Vô vi" ấy tức là thực hiện cái tâm "ƣng vô sở trụ", từ đó có thể "dĩ bất biến ứng vạn biến". Đó là điều kiện thiết yếu cho một vận nƣớc lâu dài, một nền thái bình vững chắc mà nhà thơ - quốc sƣ Pháp Thuận muốn nhắc nhở vua hằng tâm niệm không quên. Bài thơ chỉ ngắn gọn 20 chữ nhƣng mỗi lời đanh chắc, mạnh mẽ nhƣ chân lý ở đời. Vừa tự hào, vừa trang trọng, uy nghiêm. Lời thơ giản dị không hoa mỹ nhƣng đạt độ hàm súc cao với hình ảnh biểu trƣng dây mây quấn quýt thật ấn tƣợng và hàm ý sâu xa, với "vô vi" nhƣ một triết lý chính trị đơn giản mà ảo diệu, bài học không chỉ cho một đời mà nhiều thế hệ. Đó là vẻ đẹp của con ngƣời trong hành xử chính trị ở vị trí nắm giữ trọng trách quốc gia. 2. Vẻ đẹp an nhiên tự tại của con ngƣời hiểu rõ quy luật tự nhiên và sống hòa nhịp cùng quy luật. Hiểu rõ quy luật sinh - trụ - dị - diệt của thế giới tự nhiên và sinh - lão - bệnh - tử của đời ngƣời, con ngƣời không còn bị cầm tù trong những vòng dây của đau buồn, lo sợ, tiếc nuối về chuyện thịnh suy, đƣợc mất. Đó là chân lý tối hậu mà các thiền sƣ thời Lý ân cần trao truyền lại cho thế hệ đi sau. Vạn Hạnh nói: "Thân nhƣ điện ảnh hữu hoàn vô, Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô. 16 Nhậm vận thịnh suy vô bố úy, Thịnh suy nhƣ lộ thảo đầu phô". (Thị đệ tử) (Thân ngƣời nhƣ ánh chớp, có rồi trở thành không, Vạn cây cối mùa xuân thì tƣơi tốt, mùa thu lại khô héo. Mặc cho thịnh suy xoay vần, không lo sợ, Thịnh và suy cũng chỉ nhƣ hạt móc phơi trên đầu ngọn cỏ). (Dặn bảo đệ tử) Ở đây, nhà thơ đứng ra bên ngoài để quan sát và chiêm nghiệm. Đời ngƣời mấy mƣơi năm, nhƣng khi ngoảnh nhìn lại, thấy ngắn ngủi không hơn một ánh chớp, mới có đã trở thành không, con ngƣời trực nhận ra rằng những việc thịnh suy, đƣợc mất trong cuộc đời đó lại càng phù du biết bao, chẳng khác hạt móc mong manh buổi sớm sẽ tan biến không còn dấu vết khi nắng lên. Thế thì sao lại hao tâm nhọc trí để theo đuổi những cái không có thực đó mà đánh mất đi những giây phút thực tại đáng giá của tâm tƣ hồn nhiên thanh thản. Thiền Lão nhắc nhở mọi ngƣời: "Đản tri kim nhật nguyệt, Thùy thức cựu xuân thu". (Nhật nguyệt) (Chỉ biết những tháng ngày của hôm nay, Ai hay những mùa xuân mùa thu ngày trƣớc?) (Ngày tháng) Tháng ngày của hôm nay đáng giá biết chừng nào, đừng để nó trôi qua thành quá khứ rồi lại dõi theo kiếm tìm và tiếc nuối. Không hiểu biết quy luật và sống thuận theo quy luật, con ngƣời sẽ mãi mãi là tù nhân trong tù ngục do mình dựng nên. Mãn Giác thiền sƣ cũng nói về quy luật tất yếu ấy: "Xuân khứ bách hoa lạc, Xuân đáo bách hoa khai. Sự trục nhãn tiền quá, Lão tùng đầu thƣợng lai". (Cáo tật thị chúng) (Xuân qua, trăm hoa rụng, Xuân tới, trăm hoa tƣơi, Trƣớc mắt việc đi mãi, Trên đầu già đến rồi) (Có bệnh bảo mọi người)
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất