Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp ở nước ta ...

Tài liệu Cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp ở nước ta

.PDF
111
7
75

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHAN THANH HÀ CƠ SỞ XÃ HỘI CỦA HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP Ở NƯỚC TA CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT MÃ SỐ: 6 038 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS, TS. VÕ KHÁNH VINH HÀ NỘI - NĂM 2007 1 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa 1 Lời cam đoan 2 Mục lục 3 Danh mục các chữ viết tắt 6 MỞ ĐẦU 7 CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP VÀ CƠ SỞ XÃ HỘI CỦA HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP 1.1. Khái niệm hoạt động lập pháp và cơ sở xã hội của nó 12 12 1.1.1. Khái niệm hoạt động lập pháp 12 1.1.2. Khái niệm cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp 15 1.1.3. Mối quan hệ giữa hoạt động lập pháp và cơ sở xã hội của hoạt 1.2. động lập pháp 20 Đặc điểm cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp 26 1.2.1. Yếu tố kinh tế 26 1.2.2. Yếu tố chính trị 28 1.2.3. Yếu tố văn hóa 31 1.2.4. Yếu tố xã hội 34 1.2.5 Các yếu tố khác 35 CHƯƠNG 2 NỘI DUNG CƠ SỞ XÃ HỘI CỦA HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP Ở NƯỚC TA 2.1. 37 Đặc điểm của hoạt động lập pháp ở Việt Nam và cơ sở xã hội của nó 37 3 2.1.1. Đặc điểm của hoạt động lập pháp ở Việt Nam 37 2.1.2. Đặc điểm cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp ở Việt Nam 41 2.2. Cơ chế bảo đảm cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp ở Việt Nam 54 2.2.1. Quy trình lập pháp chặt chẽ trong cơ chế bảo đảm cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp 55 2.2.2. Đa dạng hóa sự tham gia của nhân dân trong hoạt động xây dựng luật 60 2.2.3. Các hình thức giúp việc và hỗ trợ kỹ thuật cho hoạt động lập pháp 64 2.2.4. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc bảo đảm cơ sở xã hội cho hoạt động lập pháp 68 CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM CƠ SỞ XÃ HỘI CỦA HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP Ở NƯỚC TA 3.1. 71 Thực trạng bảo đảm cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp ở nước ta 71 3.1.1. Thành tựu trong việc bảo đảm cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp ở nước ta 3.1.2 71 Hạn chế trong việc bảo đảm cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp ở nước ta 3.2. 76 Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong việc bảo đảm cơ sở xã hội trong hoạt động lập pháp 79 3.2.1. Nguyên nhân khách quan 79 3.2.2. Nguyên nhân chủ quan 81 3.3. Giải pháp đổi mới, hoàn thiện hoạt động lập pháp nhằm bảo đảm các cơ sở xã hội trong hoạt động lập pháp 4 91 3.3.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý bảo đảm cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp 91 3.3.2. Củng cố và hoàn thiện tổ chức bảo đảm cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp 96 3.3.3. Tăng cường điều kiện bảo đảm cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp 98 3.3.4. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động lập pháp để bảo đảm cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp 102 KẾT LUẬN 104 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC 106 TÀI LIỆU THAM KHẢO 107 5 CÁC CHỮ VIẾT TẮT - Đại biểu Quốc hội ĐBQH - Nhà nước pháp quyền NNPQ - Quốc hội QH - Ủy ban UB - Ủy ban Thường vụ Quốc hội UBTVQH - Văn phòng Quốc hội VPQH - Xã hội chủ nghĩa XHCN 6 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động lập pháp là một trong những yêu cầu quan trọng của quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia nói chung và của Việt Nam nói riêng. Điều chỉnh pháp luật cũng như hoạt động lập pháp không có mục đích tự thân mà luôn hướng tới đối tượng tác động của chúng là các quan hệ xã hội nhằm bảo vệ các giá trị xã hội, các chuẩn mực và lợi ích xã hội thể hiện trong mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng. Trên cơ sở đó, pháp luật mới thực sự trở thành công cụ đảm bảo cho xã hội ổn định và phát triển. Theo quy định của Hiến pháp Việt Nam, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp (Điều 84 Hiến pháp 1992). Qua chặng đường 60 năm phát triển, hoạt động lập pháp ở nước ta ngày càng được tăng cường, hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng hoàn thiện, ngày càng đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Tuy nhiên, vẫn còn không ít các văn bản pháp luật chưa đảm bảo chất lượng, hiệu quả điều chỉnh của nó còn thấp. Nhiều văn bản luật chậm đi vào cuộc sống, tính khả thi không cao. Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng đó, theo chúng tôi, là hoạt động lập pháp ở nước ta chưa được bảo đảm đầy cơ sở xã hội của nó. Chính việc tôn trọng và bảo đảm thích đángnhững yếu tố làm nên cơ sở xã hội sẽ góp phần khiến cho hoạt động lập pháp ngày càng chất lượng hơn, làm cho Quốc hội nước ta ngày càng bảo đảm vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở nước ta. Tuy nhiên, vấn đề xã hội học pháp luật nói chung và cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp nói riêng ở nước ta trong thời gian vừa qua vẫn chưa được quan tâm thích đáng. Những nghiên 7 cứu trong lĩnh vực này vẫn còn rời rạc, chưa toàn diện và chưa có tính hệ thống. Hành lang pháp lý cho các hoạt động thuộc lĩnh vực xã hội học pháp luật vẫn còn trống vắng, việc triển khai trong thực tiễn vẫn còn ít ỏi, lẻ tẻ. Có thể thấy, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, đẩy mạnh dân chủ và phát huy vai trò xã hội của Nhà nước hiện nay, việc nghiên cứu và làm rõ hơn cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp ở nước ta là vô cùng cần thiết. 2. Tình hình nghiên cứu Cho đến nay, hầu như chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề này. Các tài liệu tham khảo trong nước về cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp mới chỉ tìm thấy ở một số công trình của GS, TSKH. Đào Trí Úc, GS, TS. Võ Khánh Vinh... và của một số nhà nghiên cứu khác đề cập đến xã hội học pháp luật cũng như vai trò của xã hội học trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp... Gần đây, Văn phòng quốc hội cũng tổ chức một số hội thảo và chuyên đề có liên quan như: cải tiến quy trình xây dựng luật, pháp lệnh; dư luận xã hội... Vấn đề phản biện xã hội, Quy chế lấy ý kiến nhân dân cũng đang được bàn thảo sôi nổi. Tuy vậy, việc nghiên cứu và tìm hiểu về cơ sở xã hội học của hoạt động lập pháp ở Việt Nam là vẫn còn rất mới, cần được quan tâm, chú ý thích đáng hơn nữa. Một số công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài gồm có: 1. Võ Khánh Vinh, Một số vấn đề về dự báo hoạt động xây dựng pháp luật, Nhà nước và Pháp luật, số 2/1995; Về kế hoạch hóa hoạt động xây dựng pháp luật ở nước ta, Nhà nước và Pháp luật, số 5/1997; Một số vấn đề về xã hội học xây dựng pháp luật, Nhà nước và Pháp luật, số 8/1997; Lợi ích xã hội và pháp luật. NXB CAND. HN. 2003; PGS, TS. Võ Khánh Vinh cb. Giáo trình Nhập môn Xã hội học pháp luật. NXB CAND. HN. 2003. 8 2. Bùi Thị Đào (1998), Luận văn thạc sĩ luật học "Xã hội học hoạt động xây dựng pháp luật". Đại học Luật Hà Nội. Hà Nội. 1998. 3. Mục đích nghiên cứu của đề tài Nghiên cứu bước đầu những vấn đề lý luận cơ bản về cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp và tìm hiểu, đánh giá thực tiễn về cơ chế bảo đảm cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp ở nước ta; trên cơ sở những hiểu biết đó, đề xuất một số giải pháp, góp phần làm cho hoạt động lập pháp có hiệu quả hơn với mục đích xây dựng được những văn bản pháp luật phù hợp với thực tiễn, có chất lượng và khả thi. 4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản và thực tế về cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp ở nước ta, các ví dụ liên hệ được mở rộng phạm vi về thời gian và không gian trong lịch sử trong và ngoài nước; Những yếu tố làm nên cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp là rất rộng, tuy nhiên, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu một số yếu tố cơ bản và quan trọng nhất làm nên cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp, đó là: yếu tố kinh tế, yếu tố chính trị, yếu tố văn hoá, yếu tố xã hội. 5. Cơ sở nghiên cứu Luận văn có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho sinh viên trong trường đại học, cho các nhà nghiên cứu… về các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn liên quan đến cơ sở xã hội và những bảo đảm cho cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp ở nước ta. 6. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn này là phương pháp: trình bày, phân tích, so sánh, thống kê... 9 Cụ thể: khi trình bày, phân tích các vấn đề, có sử dụng phương pháp so sánh lịch sử, so sánh về mặt lý luận và thực tiễn trong nước với nước ngoài, đưa ra các con số thống kê để củng cố cho các luận cứ của mình. Các số liệu minh họa sử dụng trong luận văn chủ yếu được lấy từ các báo cáo từ các cơ quan nhà nước trong các kỳ họp của Quốc hội, liên quan đến: Dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XII (2007 - 2011) và năm 2008; Kỷ yếu (2007) tổng kết nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI (tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XI); Báo cáo tổng hợp ý kiến nhân dân về một số dự án luật. Các số liệu này tương đối đáng tin cậy và chính xác. 7. Điểm mới của luận văn Vấn đề cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp là một vấn đề khá mới và còn ít được khai thác nghiên cứu về lý luận cũng như thực tiễn. Do vậy, đây là một khó khăn cơ bản cho tác giả trong việc sưa tầm tài liệu nghiên cứu tham khảo cũng như tìm ra hướng đi đúng đắn cho các nghiên cứu của mình. Một số điểm mới của luận văn: - Khẳng định và góp phần củng cố luận điểm "Quốc hội là cơ quan làm luật (hay lập pháp) chứ không phải chỉ là cơ quan thảo luận và thông qua luật"; - Góp phần bổ sung lý luận về cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp nói chung cũng như cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp ở Việt Nam nói riêng; - Xây dựng nội hàm của "cơ chế bảo đảm cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp ở nước ta"; - Chỉ ra thực trạng và nguyên nhân của những bất cập của cơ chế bảo đảm cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp ở nước ta; 10 - Kiến nghị một số phương hướng và giải pháp nhằm bảo đảm cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp ở nước ta; đưa ra một số kiến nghị liên quan đến hoàn thiện cơ sở pháp lý bảo đảm cơ sở xã hội cho hoạt động lập pháp 8. Bố cục của luận văn Cơ cấu của luận văn gồm: Mở đầu; Nội dung: gồm 3 chương: Chương 1. Khái quát chung về hoạt động lập pháp và cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp; Chương 2. Nội dung cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp ở nước ta; Chương 3. Những giải pháp bảo đảm cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay; và Kết luận. 11 CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP VÀ CƠ SỞ XÃ HỘI CỦA HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP 1.1. Khái niệm hoạt động lập pháp và cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp 1.1.1. Khái niệm hoạt động lập pháp Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã chỉ ra rằng: nguồn trực tiếp của các hoạt động có ý chí của con người là các nhu cầu, lợi ích đã được nhận thức dưới dạng động cơ thúc đẩy sự thể hiện ý chí bên ngoài, trong hoạt động sống của họ. Do đó, hoạt động lập pháp - một hoạt động đưa ý chí của giai cấp thống trị lên thành luật là một quá trình nhận thức các lợi ích nhất định của giai cấp đó. Là một phạm trù mang tính giai cấp, nên vấn đề lập pháp luôn là tâm điểm của sự chú ý trong lịch sử các học thuyết chính trị Đông - Tây từ cổ chí kim,. Bước ngoặt trong tư tưởng về hoạt động lập pháp được đánh dấu bởi C.L. Montesquieu (1689 - 1775) - nhà Khai sáng người Pháp - khi ông cho ra đời thuyết "tam quyền phân lập" - học thuyết có mục đích hạn chế sự lạm quyền bằng cách phân chia quyền lực nhà nước thành các nhánh quyền có tác dụng kiềm chế, đối trọng lẫn nhau. Trong đó, quyền lập pháp được giao cho nghị viện, hành pháp cho chính phủ và tư pháp cho tòa án. Cho đến nay, tuy được tiếp thu và vận dụng ở những mức độ khác nhau tại mỗi quốc gia, nhưng học thuyết này vẫn còn tiếp tục có giá trị về phương diện tổ chức quyền lực nhà nước, ở đó, ý tưởng lập pháp phải là chức năng cơ bản và tiêu biểu trong hoạt động của nghị viện (hoặc QH) mỗi nước là điều đến nay đã được thừa nhận và khẳng định. 12 Bàn về khái niệm "lập pháp", người ta hay nhắc đến nó với ý nghĩa như một chức năng hay một quyền hoặc một nhánh quyền lực. Trong khi đó, thuật ngữ "hoạt động lập pháp" được sử dụng đến không phải ít nhưng lại chưa có ai làm rõ nội hàm của nó cũng như tìm cách phân biệt nó với các thuật ngữ khác như "chức năng lập pháp", hoặc "quyền lập pháp". Để làm rõ vấn đề này, trước hết cần xem xét nó dưới nhiều phương diện. Dưới phương diện triết học, hoạt động lập pháp là một hoạt động thuộc kiến trúc thượng tầng, thuộc ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển lịch sử xã hội nhất định, do đó nó vừa chịu sự quyết định của tồn tại xã hội, vừa có mối quan hệ độc lập tương đối với phạm trù này. Đồng thời, nó cũng có mối quan hệ biện chứng, chặt chẽ với các yếu tố, hiện tượng xã hội khác. Dưới góc độ lý luận, "hoạt động lập pháp là một quá trình nhận thức hiện thực khách quan trên cơ sở tiếp cận một cách biện chứng, xử lý theo một trật tự tư duy lô gích các quan hệ mang tính chung, mang tính phổ biến và bằng một quy trình tổ chức khoa học mang tính pháp lý, tái hiện hiện thực khách quan thành các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung"1. Dưới khía cạnh pháp lý, theo Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên)2, lập pháp là "định ra pháp luật". Như vậy, hiểu theo cách này thì, lập pháp là làm ra pháp luật nói chung, tức là làm ra các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (bao gồm QH, Chính phủ…) ban hành. Tuy nhiên, cách hiểu này chỉ mang tính lịch sử khi nhà nước phát triển ở một trình độ nào đó, chưa có các thiết chế nhà nước được tổ chức chặt chẽ và ở một trình độ cao như QH, Chính phủ, Tòa án và các thiết chế tổ chức quyền lực khác như hiện nay. Ngày nay, lập pháp "là một trong ba chức năng 1 2 [40, tr.30]. [33] 13 của nhà nước, cùng với quyền hành pháp và tư pháp hợp thành quyền lực nhà nước"3. Khi đã hiểu lập pháp là hoạt động gắn liền với Nghị viện (hoặc QH), thì các sản phẩm của nó phải là các văn bản pháp luật do Nghị viện (hoặc QH) ban hành. Ở Việt Nam, sản phẩm của hoạt động lập pháp bao gồm: Hiến pháp, luật, nghị quyết của QH, Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ QH. Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, hoạt động lập pháp không đồng nghĩa với chức năng lập pháp, quyền lập pháp, hoặc quy trình lập pháp bởi mỗi khái niệm này chứa một nội hàm và ý nghĩa khác nhau. Chức năng lập pháp là một trong những phương diện, một loại hoạt động cơ bản của Nhà nước, gắn liền với chủ thể duy nhất là QH, nhằm phân biệt với hai chức năng còn lại của nhà nước (chức năng hành pháp và chức năng tư pháp). Quyền lập pháp nhấn mạnh đến một nội dung cơ bản mang tính hiến định trong địa vị pháp lý của QH (là QH) và cũng nhằm phân biệt với các nhánh quyền hành pháp và quyền tư pháp. Trong khi đó, quy trình lập pháp hàm ý trình tự, thủ tục theo luật định để tiến hành xây dựng các văn bản pháp luật do QH ban hành. Hoạt động lập pháp còn được định nghĩa như sau: "Hoạt động lập pháp là những hoạt động liên tục, kế tiếp nhau từ việc xác định chính sách, xây dựng chính sách pháp lý tới việc thể hiện, thảo luận, thông qua và công bố luật, pháp lệnh, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong mọi lĩnh vực của đời sống, phù hợp với chủ trương của Đảng và ý chí, nguyện vọng của nhân dân"4. 3 4 [27] [40, tr.31] 14 Tuy nhiên, để có một định nghĩa khái quát hơn, đồng thời, vẫn thể hiện được bản chất và đặc điểm của hoạt động lập pháp, chúng tôi xin được định nghĩa về hoạt động lập pháp như sau: Hoạt động lập pháp là một hình thức hoạt động cơ bản của Nhà nước do nhiều chủ thể khác nhau - trong đó QH là chủ thể quan trọng và quyết định - tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do luật định, trên cơ sở một quá trình nhận thức và cân nhắc toàn diện các quy luật xã hội, các quy luật lợi ích, ý chí của nhân dân nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội quan trọng và cơ bản nhất dưới dạng các văn bản quy phạm pháp luật của QH. 1.1.2. Khái niệm cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp 1.1.2.1. Vài nét về tư tưởng về cơ sở xã hội của pháp luật trong lịch sử Trong lịch sử các học thuyết chính trị5, ý tưởng xem xét pháp luật, hoạt động lập pháp trong những điều kiện nhất định về kinh tế, xã hội, tuân theo các qui luật riêng biệt và những "điều kiện bên ngoài thích hợp" đã được quan tâm từ rất sớm. Hêrôđốt (484 - 425 TCN) - nhà sử học đầu tiên của Hy Lạp, người được coi là "nhà sử học đầu tiên của phương Tây" - cho rằng, môi trường tự nhiên ảnh hưởng trực tiếp đến phong tục tập quán, tính nết và thậm chí cả cách cai trị… Arixtốt (384 - 322 TCN) - triết gia Hy Lạp, người được Các Mác gọi là "nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ đại" - ngay từ thế kỷ thứ IV trước công nguyên đã có những tổng kết và phát triển tài tình các kết luận về nguồn gốc và bản chất, hình thức và vai trò của nhà nước và pháp quyền. Trong tác phẩm "Chính trị", ông đã trình bày dự thảo về một nhà nước lý tưởng với các tiền đề kinh tế - xã hội và địa lý cho chính thể mẫu mực đó. Ông cho rằng "thiết chế nhà nước tốt nhất không thể nảy sinh thiếu những điều kiện bên ngoài thích 5 [21] 15 hợp". Do vậy, ông đặc biệt coi trọng vị trí của nhà nước, phạm vi và hình thế lãnh thổ, khí hậu. Các tư tưởng về ảnh hưởng của các yếu tố địa lý đối với đời sống chính trị của ông chính là những tiền đề cho sự phát triển tiếp theo trong lý thuyết về vấn đề này của các học giả các thời kỳ sau. Sang đến thời kỳ cách mạng tư sản, tư tưởng của Arixtốt mới được tiếp nối một cách có hệ thống. Giăng Boden (1530 - 1596), học giả người Pháp, khi vận dụng những tư tưởng chính trị - xã hội lĩnh hội từ Arixtốt, đã phát triển những quan điểm mới về vai trò của địa lý trong việc tổ chức các thiết chế xã hội - chính trị. Tuy nhiên, học thuyết về vai trò của các yếu tố bên ngoài đối với tinh thần pháp luật chỉ trở nên có giá trị và thật sự tạo nên dấu ấn sâu đậm trong lịch sử các học thuyết chính trị pháp lý khi được C.L. Montesquieu đề cập tới trong tác phẩm Tinh thần pháp luật của mình. Với khuynh hướng coi sự xuất hiện của nhà nước và pháp luật có tính lịch sử, ông cho rằng sự phong phú của các đạo luật và thể chế không phải là kết quả của sự tùy tiện, hoang tưởng của con người, mà gắn liền với hoàn cảnh lịch sử cụ thể. "Tôi đã xác định được những cơ sở chung ban đầu, và thấy rằng các trường hợp riêng lẻ dường như phụ thuộc vào chúng, và lịch sử của mỗi dân tộc xuất phát từ đó như hệ quả, và mỗi một qui luật riêng biệt gắn liền với qui luật khác hay phụ thuộc vào qui luật khác, có tính khái quát hơn". Ông cũng cho rằng pháp luật ở mỗi quốc gia có quan hệ mật thiết với vị trí địa lý (khí hậu, thổ nhưỡng, cảnh quan, phạm vi lãnh thổ) và phong tục tập quán (hay diện mạo đạo đức) của dân tộc đó6. Tuy nhiều điểm còn bàn cãi (như tuyệt đối hóa vai trò của môi trường địa lý), nhưng những tư tưởng của ông là những gợi ý rất có giá trị về vai trò của các yếu tố xã hội đến "tinh thần pháp luật", cũng như yêu cầu phải xem 6 [28] 16 xét pháp luật trong mối liên hệ chặt chẽ với các mặt đời sống xã hội khác nhau của nó, tạo nền móng ban đầu cho việc hình thành nên một môn khoa học mới - xã hội học pháp luật7. Chủ nghĩa Mác - Lênin, với quan điểm chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, và luận điểm về "tính quyết định luận xã hội" đã là một cuộc cách mạng trong quan niệm của loài người về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa hình thái chủ quan và khách quan của sự vận động vật chất. Chúng tôi cho rằng, đây là cơ sở tư tưởng toàn diện và khoa học nhất để lý giải và phân tích cho vấn đề "cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp". Điều cần lưu ý khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê nin là, trước đây người ta quá chú trọng khai thác khía cạnh giai cấp để xem xét bản chất vấn đề. Trong khi, trên thực tế, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng không hề xem nhẹ "tính xã hội" trong bản chất của nhà nước và pháp luật. Trong xu thế ngày nay, vấn đề "lợi ích", yêu cầu phải xem xét, hài hòa vấn đề lợi ích trong việc hoạch định chính sách cũng dần được quan tâm, và ngày càng trở thành đề tài "nóng" được bàn thảo sôi nổi ở Việt Nam. Điều này tạo nên một bước tiến mới trong khoa học pháp lý nói chung, lĩnh vực xã hội học pháp luật nói riêng, và nhất là góp phần tạo thêm nền móng vững chắc cho lý luận về cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp. 1.1.2.2. Định nghĩa "cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp" Theo Từ điển Tiếng Việt, "cơ sở" là "cái làm nền tảng, trong quan hệ với những cái xây dựng trên đó hoặc dựa trên đó mà tồn tại, phát triển"8. "Cơ sở xã hội" chính là tổng thểcác yếu tố xã hội có tác dụng làm nền tảng cho sự vật, hiện tượng nào đó dựa trên đó để tồn tại, phát triển. Khi nghiên cứu về các nhân tố xã hội thể hiện các nhu cầu của xã hội trong việc điều chỉnh pháp luật đối với những lĩnh vực quan hệ xã hội nhất 7 8 Ông cũng được coi là một trong những ông tổ của xã hội học pháp luật tư sản - PTH. [33] 17 định,GS, TS. Võ Khánh Vinh trong Giáo trình "Xây dựng pháp luật" đã định nghĩa nhân tố xã hội của hoạt động xây dựng pháp luật như sau: "nhân tố xã hội của hoạt động xây dựng pháp luật (đặc biệt xây dựng luật) là hiện tượng của đời sống xã hội ở hình thức này hay hình thức khác, tác động đến việc làm sáng tỏ nhu cầu điều chỉnh pháp luật, đến việc soạn thảo, thông qua, sửa đổi, bổ sung hoặc thống nhất văn bản pháp luật và suy cho cùng là tác động đến nội dung của nó"9. Như vậy, đối với hoạt động lập pháp, cơ sở xã hội của nó là những yếu tố xã hội làm nền tảng, giúp cho hoạt động lập pháp tồn tại, phát triển, hay nói cách khác, thể hiện được bản chất và thực hiện đúng chức năng của mình. Những yếu tố đó thể hiện nhu cầu của xã hội trong việc điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội nhất định. Nghĩa là nó giúp xác định những quan hệ xã hội mới nào hiện nay cần sự điều chỉnh của pháp luật, những quan hệ xã hội nào không còn cần đến sự điều chỉnh của pháp luật nữa, hoặc những quan hệ xã hội nào cần có sự thay đổi trong điều chỉnh pháp luật. Sự thể hiện này còn liên quan tới nhu cầu về mức độ điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội (ở tầm Hiến định, luật định hay dưới luật…, ở mức độ hình sự, dân sự hay hành chính…). Cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp còn nói lên được nhu cầu về cách thức điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ xã hội ấy như: ghi nhận (quy định, cho phép, khuyến khích) hoặc ngăn cấm… Dựa trên sự thể hiện đó, mà hoạt động lập pháp xác định được hướng đi cho sự tồn tại, phát triển của mình, thực hiện chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Bên cạnh đó, bằng việc tạo ra các sản phẩm lập pháp (luật, pháp lệnh) dựa trên sự thể hiện đúng đắn, hợp lý nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội, hoạt động lập pháp tự nó đã thực hiện được chức năng giáo dục ý thức pháp luật đến người dân. 9 [19, tr.40] 18 Do thể hiện được nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội nhất định, cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp tạo nền tảng để hoạt động lập pháp đi đúng hướng, thể hiện được bản chất của nó. Bản chất của hoạt động lập pháp có hai nội dung lớn, thứ nhất là thể hiện và thực hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị; thứ hai là thể hiện các quy luật xã hội, các lợi ích xã hội10. Ở Việt Nam, cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp phải là những yếu tố xã hội đóng vai trò quan trọng đối với hoạt đông lập pháp trong quá trình thể hiện nhu cầu từ thực tiễn cuốc sống, nguyện vọng và ý chí của các tầng lớp nhân dân, các lợi ích khác nhau. Như vậy, có thể định nghĩa "cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp" như sau: Cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp là tổng thể các yếu tố của đời sống xã hội thể hiện nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội thuộc các lĩnh vực khác nhau,bảo đảm cho hoạt động lập pháp thể hiện được bản chất và thực hiện đúng chức năng của nó. . Các yếu tố xã hội cấu thành nên cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp có nhiều dang. Nếu căn cứ vào nguồn gốc, bản chất, có thể phân chia các yếu tố đó thành các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng (như kinh tế, sinh thái, nhân khẩu học, địa lý học) và các yếutố thuộc kiến trúc thượng tầng (như chính trị, xã hội, văn hóa, đạo đức, tâm lý…). Nếu căn cứ vào cách thức tác động, có thể phân chia thành các yếu tố cơ bản (những yếu tố bên ngoài, làm hình thành nên pháp luật) và các yếu tố bảo đảm (các yếu tố bên trong, yếu tố thủ tục của hoạt động lập pháp)11. Các yếu tố cơ bản tác động đến hoạt động lập pháp là các yếu tố như kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, sinh thái… Các yếu tố bảo đảm tác động đến hoạt động lập pháp bao gồm: các yếu tố tổ chức, thông tin, khoa học và kế hoạch 10 11 Vấn đề này sẽ được phân tích kỹ ở phần 2.1.1.1 - PTH. [19, tr.41]. 19 vốn là bốn phạm trù cơ bản đặc trưng cho mọi hoạt động quản lý. Tuy nhiên, luận văn này quan tâm chủ yếu đến những yếu tố cơ bản làm cơ sở xã hội cho hoạt động lập pháp. 1.1.3. Mối quan hệ giữa hoạt động lập pháp và cơ sở xã hội của nó 1.1.3.1. Vai trò của yếu tố lợi ích đối với hoạt động lập pháp Như đã phân tích, hoạt động lập pháp là một hoạt động có ý thức của con người, do vậy, trước hết, nó phản ánh và nhằm phục vụ cho lợi ích của con người. Con người là mục tiêu, động lực phát triển của nó. Trong sự vận động của đời sống, lợi ích là cái tồn tại khách quan, nhưng lại được phản ánh một cách chủ quan trong ý thức của con người, đặc biệt trong xã hội có giai cấp. Thông qua pháp luật, bằng hoạt động lập pháp, giai cấp thống trị khẳng định và bảo vệ các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích cơ bản của giai cấp mình, trên cơ sở cân nhắc một cách phù hợp với các lợi ích xã hội ở mỗi giai đoạn khác nhau. Các lợi ích trong xã hội có nhiều loại, đôi khi chúng thống nhất, đôi khi đối lập, mâu thuẫn với nhau. Nếu dựa vào phạm vi quan hệ xã hội, người ta chia thành: lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần và lợi ích chính trị. Lợi ích vật chất là các lợi ích trong quan hệ sản xuất, phân phối và trao đổi. Nó là lợi ích mang tính quyết định đối với hoạt động lập pháp. Lợi ích tinh thần gắn liền với các giá trị tinh thần, các sản phẩm của sản xuất tinh thần (lợi ích văn hóa, khoa học và đạo đức của con người). Lợi ích chính trị là những lợi ích quyền lực của nhà nước, của mối quan hệ lẫn nhau của các giai cấp và của các nhóm bên trong các giai cấp, giữa các dân tộc và các nhà nước. Cơ sở của các lợi ích chính trị là lợi ích kinh tế, tuy vậy, lợi ích chính trị vẫn có tác động đáng kể đến lợi ích kinh tế và các lĩnh vực khác trong xã hội. Nếu dựa vào chủ thể, người ta phân lợi ích thành hai loại: lợi ích xã hội (lợi ích của xã hội, lợi ích của giai cấp, của nhóm xã hội, tập thể) và lợi ích cá 20 nhân. Mỗi loại lợi ích này đều có thể hàm chứa ba loại lợi ích nói trên. Việc cân nhắc đầy đủ và hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân cũng luôn là một nội dung then chốt trong hoạt động lập pháp. Đó không chỉ là vấn đề giữa lợi ích của số đông (xã hội) và thiểu số (cá nhân) mà còn là vấn đề làm thế nào để lợi ích của chính bản thân nhà lập pháp cũng không mâu thuẫn với những lợi ích khác trong xã hội và nếu có, làm thế nào để kiểm soát được những hậu quả tiêu cực có thể xảy ra cho quá trình lập pháp. Một số nhà nghiên cứu đã đưa ra một cách nhìn khá độc đáo về vấn đề lợi ích liên quan đến hoạt động lập pháp dưới khía cạnh kinh tế học hành vi, cụ thể là lý thuyết về có đi có lại trong hành vi kinh tế12. Lý thuyết này đưa ra luận điểm "trong rất nhiều trường hợp, con người luôn ứng xử theo nguyên tắc có đi có lại: anh tốt với tôi thì tôi tốt lại, anh chơi đẹp với tôi thì tôi công bằng với anh". Từ đó, vận dụng vào thái độ của xã hội đối với pháp luật do nhà nước ban hành, họ đặt ra câu hỏi: "khi công dân không thích sử dụng pháp luật trong các quan hệ xã hội thì phải chăng, pháp luật đối xử với người dân không tốt lắm, không đẹp lắm và không công bằng lắm, nên người dân mới quay lưng lại với pháp luật như thế?". Bốn dẫn chứng minh họa cho câu trả lời13 (hiển nhiên là câu trả lời khẳng định) thực chất là những lập luận sắc bén liên quan đến vấn đề lợi ích, nói một cách chung nhất là lợi ích giữa nhà nước và nhân dân, nói một cách cụ thể hơn là những xung đột về các nhóm lợi ích khác nhau trong xã hội. Một cách tiếp cận khác - PGS, TS. Phạm Duy Nghĩa cho rằng: "đã tới lúc phải nhận diện nhà nước như một búi quyền lực luôn có nguy cơ bị giành 12 [44, tr.8 - 11] 1) Pháp luật mang nặng tính "công cụ của nhà nước" (nhà nước bảo vệ vị thế và quyền lực của mình, ít khi chăm lo bảo vệ quyền của dân); 2) Pháp luật vẫn còn hà khắc (quá nghiêng về trừng phạt); 3) Chưa chú ý điều chỉnh mối quan hệ giữa người dân với nhau (hay chưa quan tâm tới lĩnh vực luật tư - hạt nhân của xã hội dân sự); 4) Pháp luật thiếu công tâm và công bằng (do tính "công cụ của nhà nước" vẫn còn nặng nề) 13 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan