Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Cơ sở pháp lý và thực tiễn phân định các vùng biển thuộc chủ quyền của việt nam...

Tài liệu Cơ sở pháp lý và thực tiễn phân định các vùng biển thuộc chủ quyền của việt nam

.DOC
7
192
58

Mô tả:

Nhóm KT33G2-2 Môn Công pháp Quốc tế A. ĐẶT VẤN ĐỀ Mỗi quốc gia ven biển đều có một phần kéo dài tự nhiên của mình ra biển, và trên vùng biển quốc gia được xác lập chủ quyền. Tuy nhiên, vấn đề chủ quyền trên các vùng biển hiện nay đang hết sức phức tạp bởi một vùng biển có thể bị bao bọc bởi nhiều quốc gia khác nhau. Ở Việt Nam, vấn đề chủ quyền biển cũng đang là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Với bờ biển dài, biển Đông rộng lớn cùng với các hòn đảo lớn nhỏ đang là mục tiêu để các quốc gia khác xâm lấn, khai thác tài nguyên. Vì vậy, bảo vệ vững chắc chủ quyền trên các vùng biển là nhiệm vụ hết sức quan trọng và thiêng liêng của cả dân tộc và tất cả nhân dân cả nước. B. NỘI DUNG I. Cơ sở pháp lý và thực tiễn phân định các vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam 1. Một số khái niệm: Chủ quyền là thuộc tính chính trị - pháp lý không thể tách rời của quốc gia, bao gồm hai nội dung chủ yếu là quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Chủ quyền trên các vùng biển chính là một bộ phận quan trọng của chủ quyền quốc gia. Vùng biển mà một quốc gia được xác lập chủ quyền theo quy định của Luật quốc tế bao gồm Nội thủy, Lãnh hải và vùng nước thuộc các quần đảo của quốc gia đó(đảo không nằm trong nội thủy và lãnh hải). Trên vùng biển được hưởng của mỗi quốc gia họ có đủ hai quyền nêu trên đó là quyền tối cao trong phạm vi lãnh thổ quốc gia và quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Theo đó bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của Việt Nam là hoạt động duy trì quyền tối của quốc gia với vùng biển đó và và quyền độc lập của quốc gia trong các quan hệ quốc tế liên quan đến vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Vậy tại sao chúng ta phải bảo vệ chủ quyền trên biển? Thứ nhất bởi biển cả cũng là một phần lãnh thổ không thể tách rời của các quốc gia ven biển. Không chỉ trên bộ mà cả trên biển vấn đề bảo vệ chủ quyền luôn là nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên của mọi đất nước. Thứ hai là do tầm quan trọng của các vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Nói về vùng nội thủy và lãnh hải của Việt Nam trong biển Đông nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định đó không chỉ là vùng biển giàu tài nguyên sinh vật, tài nguyên khoáng sản và nó còn giữ một vị trí địa chiến lược vô cùng quan trọng. Do đó bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của nước ta luôn đặt ra cấp thiết. Thứ ba, do thực tế hiện nay đang có một số tranh chấp trong khu vực biển Đông nên Việt Nam càng phải tăng cường bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển mà nếu không giải quyết khôn khéo sẽ dẫn đến hậu quả khó lường. Thứ tư là nguyên nhân lịch sử. Cha ông ta đã đổ nhiêu máu xương để tạo lập và gìn giữ chủ quyền trên bộ cũng như trên biển của nước ta như Bác Hộ đã nói : “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. 2. Chủ quyền trên biển của Việt Nam: Cơ sở pháp lí và thực tiễn 1 Trường Đại học Luật Hà Nội Nhóm KT33G2-2 Môn Công pháp Quốc tế Việt Nam là một quốc gia ven biển có bờ biển dài trên 3.200km, có các vùng biển và thềm lục địa khoảng 1 triệu km2 , gần 3.000 đảo nằm rải rác trên biển Đông từ Bắc tới Nam bao gồm các đảo ven bờ và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Chủ quyền quốc gia của Việt Nam được xác định trên cơ sở các quy định của Công ước Luật Biển 1982 và được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật như Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Luật biên giới quốc gia 2003; Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam năm 1977(sau đây gọi là Tuyên bố 1977); Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về xác định đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 1982(sau đây gọi là Tuyên bố 1982); Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 2000… a. Đường cở sở của Việt Nam Theo Điều 4 Luật Biên giới quốc gia 2003 thì: Đường cơ sở của Việt Nam “là đường gãy khúc nối liền các điểm được lựa chọn tại ngấn nước thủy triều thấp nhất tại bờ biển và các đảo gần bờ do Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác định và công bố”. Đường cơ sở do quốc gia ven biển định ra theo 2 phương pháp là Đương cơ sở thông thường (Điều 5 Công ước Luật Biển 1982) và Đường cơ sở thẳng (Điều 7). Trên cơ sở Luật quốc tế Việt Nam đã Tuyên bố 1982 xác định một cách rõ ràng đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải từ Vịnh Thái Lan đến cửa vịnh Bắc Bộ bao gồm 12 điểm từ điểm O nằm trên đường thẳng nối liền quần đảo Thổ Chu và PouLo Wai ở Vịnh Thái Lan đến điểm A11 thuộc đảo Cồn Cỏ. Qua đây ta có thể thấy cách xác định Đường cơ sở của Việt Nam chủ yếu dựa theo phương pháp đường cơ sở thằng quy định tại Điều 7 Công ước Luật Biển 1982. b. Nội thủy (Internal waters) Theo quy định của Điều 8 Công ước Luật Biển 1982 “Nội thủy” là vùng nước nằm phía bên trong đường cơ sở (baseline)và giáp với bờ biển. Vùng nước nội thủy về mặt pháp lý đã nhất thể hóa với lãnh thổ đất liền nên có chế độ pháp lý đất liền, nghĩa là đặt dưới chủ quyền toàn vẹn, đầy đủ và tuyệt đối của quốc gia ven biển. Tàu thuyền nước ngoài muốn vào ra nội thủy phải xin phép nước ven biển và phải tuân theo luật lệ của nước đó. Theo Tuyên bố 1977 và Đường cơ sở đã được vạch ra theo Tuyên bố 1982, thì nội thủy của nước ta cũng đã được làm rõ. Tuy nhiên trong Vịnh Bắc Bộ thì phần biển thuộc phía Việt Nam được cho là vùng nước lịch sử theo chế độ nội thủy. Có thể nói đây là một vùng nước khá rộng nên yêu cầu bảo vệ chủ quyền trên vùng biển này có ý nghĩa vô cùng quan trọng. c. Lãnh hải (Territorial sea) Lãnh hải là lãnh thổ biển, nằm ở phía ngoài nội thủy. Ranh giới ngoài của lãnh hải được coi là đường biên giới quốc gia trên biển. 2 Trường Đại học Luật Hà Nội Nhóm KT33G2-2 Môn Công pháp Quốc tế Công ước quốc tế về Luật biển 1982 Điều 3 Công ước nêu rõ: “Mỗi quốc gia có quyền định chiều rộng của lãnh hải đến một giới hạn không quá 12 hải lý từ đường cơ sở được xác định phù hợp với công ước này”. Theo Điều 2 Công ước Luật Biển 1982 Quốc gia ven biển cũng có chủ quyền hoàn toàn, đầy đủ trong vùng lãnh hải, song không tuyệt đối như nội thủy. Nghĩa là quyền của quốc gia ven biển được công nhận như ở lãnh thổ của mình (về lập pháp, hành pháp và tư pháp), trên các lĩnh vực phòng thủ quốc gia, cảnh sát, thuế quan, đánh cá, khai thác tài nguyên, đấu tranh chống ô nhiễm, nghiên cứu khoa học... Tuy nhiên các tàu thuyền nước ngoài có “quyền đi qua không gây hại (right of innocent passage)”. Trên cơ sở Tuyên bố 1977, Tuyên bố 1982, Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc lãnh hải của Việt Nam cũng được xác định là vùng biển rộng 12 hải lí nằm bên ngoài đường cơ sở. Tuy nhiên hiện nay trong vùng biển giáp Campuchia nước ta mới chỉ ký Hiệp định về vùng nước lịch sử chứ chưa có sự phân chia rạch ròi lãnh hải. Thiết nghĩ đây là điều mà chúng ta cần sớm hoàn thiện để tạo khuôn khổ pháp lý cho việc bảo vệ chủ quyền trên vùng biển này. d. Vùng biển thuộc các đảo và quần đảo Về mặt pháp lý, các đảo, quần đảo thuộc chủ quyền của một quốc gia được coi giống như đất liền. Trong trường hợp đảo hay quần đảo gần bờ, luật quốc tế cho phép kéo đường cơ sở đi qua các đảo ngoài cùng, để vạch đường cơ sở thẳng cho nước ven biển, từ đó định ra bề rộng của lãnh hải. Trường hợp đảo và quần đảo ở ngoài khơi, xa đất liền thì người ta áp dụng chế độ pháp lý đảo, theo đó mỗi đảo đều có vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của riêng nó như đối với quốc gia lục địa ven biển. Hiện nay chúng ta có khá nhiều đảo và quần đảo nằm ngoài lãnh hải như Đảo Phú Quốc, Côn Đảo, Bạch Long Vĩ, quần đảo Thổ Chu, Hoàng Sa, Trường Sa... Tuy nhiên việc xác định các vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam ở các đảo này chưa được tiến hành cụ thể. Hơn nữa nhiều vùng đảo, quần đảo của nước ta còn đang có tranh chấp nên việc xác định càng gặp nhiều khó khăn hơn. II. Tồn tại và Hướng khắc phục trong bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của Việt Nam. 1. Tồn tại Thứ nhất là vấn đề xác định đường cơ cở, phần nội thủy và lãnh hải của Việt Nam của nước ta còn một số tranh cãi gây khó khăn cho công tác bảo vệ chủ quyền và phát sinh các tranh chấp phức tạp. Việt Nam tuyên bố đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải vào ngày 22-11-1982. Theo Hệ thống này thực tế là kiểu đường cơ sở thẳng và còn để ngỏ hai điểm: điểm 0 nằm trên giao điểm giữa đường thẳng nối liền quần đảo Thổ Chu (Việt Nam) và đảo Poulowai (của Campuchia) và đường phân định biên giới giữa hai bên trong vùng nước lịch sử; và điểm kết thúc ở cửa vịnh Bắc Bộ là giao điểm đường cưa 3 Trường Đại học Luật Hà Nội Nhóm KT33G2-2 Môn Công pháp Quốc tế vịnh với đường phân định biển trong vịnh Bắc Bộ(1). Như vậy trong Vịnh Bắc Bộ ta cũng chưa có một đường cơ sở rõ ràng. Cũng theo tuyên bố 1982 thì: “Vịnh Bắc Bộ là vịnh nằm giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc trong vịnh đã được quy định trong Công ước về hoạch định biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc do Pháp và nhà Thanh ký ngày 26 tháng 6 năm 1887. Phần vịnh thuộc phía Việt Nam là vùng nước lịch sử theo chế độ nội thủy của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.” Theo Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ giữa nước ta và CHND Trung Hoa ngày 25-12-2000, đường phân định biển trong Vịnh Bắc Bộ và đường cửa vịnh đã được xác lập. Tuy nhiên, đường phân định trong Vịnh Bắc Bộ chỉ là đường phân định lãnh hải (các điểm từ 1 đến 9) hoặc đường phân định vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa (các điểm từ 9 đến 21) giữa hai nước. Như vậy, theo tinh thần của Hiệp định, Vịnh Bắc Bộ là vịnh chung giữa hai nước, không phải là vịnh lịch sử như trong các tuyên bố năm 1977 và 1982 của ta. Thứ hai là hệ thống pháp luật của Việt Nam điều chỉnh vấn đề này còn chưa hoàn thiện dẫn đến thiếu cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển. Có thể nói hiện nay pháp luật về bảo vệ chủ quyền biển ở Việt Nam vừa đã thiếu lại chưa có sự thống nhất với cả pháp luật trong nước và quốc tế. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ chủ quyền biển hiện bao gồm nhều loại hình thức văn bản, chủ yếu là các văn bản dưới luật điều chỉnh các lĩnh vực chuyên ngành, vừa phân tán chồng chéo lẫn nhau, gây khó khăn cho việc áp dụng trên thực tiễn, hạn chế trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia cũng như quốc phòng an ninh và phát triển kinh tế, quản lí nhà nước trên biển, vừa chưa phản ánh hết các tiến bộ và quy định của luật biển quốc tế, đặc biệt là Công ước luật biển năm 1982 mà nước ta là thành viên. Mặc dù đã có các quy định khung về biển (Tuyên bố của Chính phủ 1977, năm 1982, Luật biên giới quốc gia năm 2003, Nghị quyết của Quốc hội năm 1994 về phê chuẩn công ước luật biển 1982…) nhưng các văn bản này còn có hiệu lực pháp lý thấp hoặc mới chỉ nêu những nguyên tắc chung về xác định phạm vi, chế độ pháp lý của các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam mà chưa cụ thể hóa nội dung hoạt động quản lí nhà nước về biển. Thứ ba là những tranh chấp liên quan đến chủ quyền trên biển của Việt Nam vẫn diễn ra gay gắt khiến cho việc bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của nước ta gặp rất nhiều khó khăn. Điểm nóng của tranh chấp trên biển đông hiện nay chủ yếu liên quan đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Từ việc tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo 1 Sổ tay pháp lý cho người đi biển- Bộ Ngoại Giao-Nxb Chính trị quốc gia 4 Trường Đại học Luật Hà Nội Nhóm KT33G2-2 Môn Công pháp Quốc tế này xuất hiện một loạt vấn đề liên quan khác bao gồm cả việc xác định các vùng biển mà Việt Nam có chủ quyền xung quanh hai quần đảo này. Việt nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định việc nhà nước Việt Nam là nhà nước đầu tiên đã chiếm hữu hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Và từ đó đã liên tục thực hiện chủ quyền của mình đối với hai quần đảo một cách thực sự và hòa bình. Cho đến đầu thế kỉ XX, không có nước nào tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo này của Việt Nam. Hiện này, hai quần đảo này của Việt Nam bị nhiều yêu sách, tranh chiếm và trở thành đối tượng tranh chấp gay gắt về chủ quyền: Trung Quốc chiếm đóng phi pháp toàn bộ quần đảo Hoàng Sa; Trung Quốc (cả Đài Loan) Malaysia, Philippines tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo trường sa với các mức độ khác nhau. Những vấn đề tranh chấp trong các vịnh, trong vịnh Bắc Bộ là sự tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc về vấn đề đảo Bạch Long Vĩ. Trong vịnh Thái Lan cũng tồn tại một số vấn đề giữa Việt Nam với Thái Lan và Campuchia. Thứ tư là tồn tại trong công tác thực hiện các quy định liên quan đến bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển hiện nay. Hiện nay chưa có một cơ quan chuyên môn có đủ thẩm quyền thực hiện việc quản lí, bảo vệ thường xuyên chủ quyền trên biển của nước ta. Công tác quản lí, khảo sát toàn diện để đưa ra những giải pháp bảo vệ phù hợp với từng vùng biển còn hạn chưa có chất lượng. Hơn nữa nhận thức của người dân liên quan đến bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển còn hạn chế. Mặc dù mọi người đều ý thức rõ tầm quan trọng của việc bảo vệ chủ quyền nhưng trong cách thực hiện thì lại chủ yếu do xuất phát từ tinh thần dân tộc chứ chưa phải do sự am hiểu pháp luật quốc tế. 2. Hướng khắc phục Để bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển, khắc phục những hạn chế hiện thời, Việt Nam cần kết hợp thực hiện nhiều biện pháp trên các lĩnh vực, cả về đối nội lẫn đối ngoại, trong đó giải pháp pháp lý phải đi đầu để duy trì sự ổn định và hòa bình trên các vùng biển của Việt Nam. Để thực hiện các biện pháp bảo về chủ quyền trên các vùng biển dưới góc độ pháp lý nhóm xin đề ra 2 nhóm giải pháp lớn. *Thứ nhất là nhóm các giải pháp lâu dài. Chúng ta cần phải: Về đối nội: Một là xác định một cách chính xác toàn diện đường cơ sở và các vùng biển Việt Nam có chủ quyền. Tuyên bố 1982 đã đưa ra những nguyên tắc và hệ thống 12 điểm cơ sở. Tuy nhiên còn có một số hạn chế như: điểm đầu trong Vịnh Bắc Bộ và điểm cuối cùng trong Vịnh Thái Lan chưa được xác định do chưa giải quyết dứt điểm vấn đề phân định biển với Trung Quốc và Cămpuchia; một số điểm cơ sở còn cách xa đất liền; chưa qui định cụ thể đường cơ sở các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa 5 Trường Đại học Luật Hà Nội Nhóm KT33G2-2 Môn Công pháp Quốc tế và Trường Sa(2). Vì thế, nước ta cần sớm bổ sung, hoàn thiện các đường cơ sở mà hiện nay vẫn chưa có qui định cụ thể. Hai là, nghiên cứu thành lập Bộ các vấn đề về biển hoặc một cơ quan tương đương có đủ năng lực, thẩm quyền trong việc quản lý biển tổng hợp, khắc phục thực trạng hiện nay là hầu như các cơ quan trung ương và địa phương có biển đều có chức năng quản lý nhà nước về biển nên tản mạn, mâu thuẫn, chồng chéo. Cơ quan đó không chỉ làm nhiệm vụ quản lí hành chính Nhà nước với các vùng biển Việt Nam có chủ quyền mà còn là trung tâm tổ chức các hoạt động liên quan đến bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của Việt Nam. Thực hiện biện pháp này sẽ khắc phục hạn chế thiếu một trung tâm điều hành thường xuyên công tác bảo vệ chủ quyền biển như đã nêu ở hạn chế thứ tư và tạo ra sự tác động bền vững tới công tác bảo vệ chủ quyền biển. Về đối ngoại: Để bảo vệ chủ quyền quốc gia chúng ta cần luôn luôn thi hành đường lối đối ngoại hòa bình, đa dạng hóa, đa phương hóa các mối quan hệ. Đường lối đối ngoại này không chỉ tạo một môi trường hòa bình làm giảm thiểu các tranh chấp về chủ quyền trên biển có thể phát sinh mà còn tạo ra sự ủng hộ của bạn bè quốc tế trong việc giải quyết các tranh chấp có thể phát sinh để giữ trọn vẹn chủ quyền quốc gia trên các vùng biển của Việt Nam. *Thứ hai là nhóm các giải pháp trước mắt chúng ta cần thực hiện khẩn cấp để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên các vùng biển còn đang tranh chấp hoặc chưa có sự phân định rõ ràng: Về đối nội: Một là sớm rà soát, nghiên cứu, chỉnh lý, ban hành Luật các vùng biển Việt Nam. Thực tiễn ở các nước trong khu vực Biển Đông trong việc tích cực xây dựng pháp luật, củng cố bộ máy, cơ chế quản lý biển và tăng cường hoạt động nhiều mặt để giành lợi ích trên biển Đông cho thấy chúng ta cần xây dựng Luật các vùng biển Việt Nam với tính chất là khung pháp lý thống nhất của pháp luật về Biển. Tuyên bố 1977 và Tuyên bố 1982 mới chỉ là văn bản cấp Chính phủ nên Việt Nam cần nâng cấp văn bản cấp Chính Phủ thành một văn bản luật mang tính tổng thể xác định phạm vi, chế độ pháp lý của từng vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam; quy định các nội dung quản lý nhà nước về biển; bảo vệ chủ quyền….Đây là biện pháp cấp thiết để khắc phục sự chồng chéo và những lỗ hổng hiện tại của pháp luật liên quan bảo vệ chủ quyền biển. Hai là cần thực hiện ngay công tác tổng điều tra, đo đạc, khảo sát, đánh giá toàn bộ hiện trạng về biển của Việt Nam, đặc biệt là vùng ranh giới phía ngoài thềm lục địa Việt Nam. Để lấy đó làm cơ sở triển khai các biện pháp bảo về chủ quyền nước ta và chính là hướng khắc phục hạn chế thứ tư nêu trên. Ba là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu, phổ biến, tuyên truyền rộng rãi pháp luật về biển của Việt Nam, các điều ước quốc tế về biển mà Việt Nam là thành viên và Công ước Luật biển năm 1982. Hoạt động bảo vệ chủ quyền không chỉ là công việc 2 www.ispore.gov.vn 6 Trường Đại học Luật Hà Nội Nhóm KT33G2-2 Môn Công pháp Quốc tế của Nhà nước mà cần có sự tham gia của toàn dân. Muốn toàn dân tham gia trước hết phải khiến dân hiểu tầm quan trọng và pháp luật liên quan đến bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của Việt Nam. Do đó, việc làm cần thiết lúc này là tuyên truyền cho nhân dân hiểu pháp luật về chủ quyền biển và sử dụng sức dân để bảo vệ chủ quyền ấy. Đây là hướng tốt nhằm đưa hành động của nhân dân từ tự phát sang tự giác trong vấn đề bảo vệ chủ quyền biển. Về đối ngoại: Một là để giải quyết toàn vẹn các tranh chấp hiện nay cần quán triệt nguyên tắc giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp hòa bình được ghi nhận trong Điều 279 Công ước Luật Biển 1982. Các nước đang tranh chấp trên biển Đông cần bảo đảm thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên biển Đông (DOC) năm 2002. Và để chống lại sức ép từ Trung Quốc các nước ASEAN cần đoàn kết để giữ vững chủ quyền hiện có trên biển Đông. Ngay trong lúc này Việt Nam cần phải sử dụng các diễn đàn đa phương để khẳng định chủ quyền của mình trước sự bành trướng của cường quốc phương Bắc liên quan đến vùng biển thuộc chủ quyền nước ta. Việt Nam cũng cần xác định khả năng sử dụng các biện pháp hòa bình khác ngoài việc “thương lượng” trực tiếp không giải quyết dứt điểm được vấn đề. Hơn nữa, Việt Nam có thể cân nhắc để có hình thức qui định bằng văn bản quy phạm pháp luật thích hợp, việc có hay không chấp nhận một hoặc nhiều biện pháp giải quyết tranh chấp được trù định trong Công ước (áp dụng Khoản 1 Điều 298, mục 2 phần XV Công ước Luật biển năm 1982) là thông qua Tòa án quốc tế về biển, Tòa án quốc tế, Tòa trọng tài(3)… Hai là từ bây giờ cần thực hiện các chương trình, kế hoạch nhằm phổ biến sâu rộng cho bạn bè quốc tế về các vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam. Sự am hiểu và ủng hộ của cộng đồng quốc tế sẽ tạo ra thuận lợi rất lớn cho Việt Nam trong việc giải quyết các tranh chấp trên biển Đông liên quan đến chủ quyền của nước ta. Các chương trình đó có thể là tổ chức các cuộc hội thảo, viết các bài viết trên các tạp chí quốc tế … Để làm được điều này trước hết cần có sự tham gia tích cực của các Luật gia, chuyên gia hang đầu về lĩnh vực này. Ba là Với các vùng biển không có tranh chấp nhưng cũng chưa được phân định rõ ràng như vùng biển tiếp giáp Việt Nam - Campuchia cũng cần thực hiện sớm việc đàm phán để phân định một cách rõ ràng. C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ Vấn đề bảo vệ chủ quyền trên biển các vùng biển ở nước ta đang là vấn đề cấp thiết hàng đầu, việc đưa vấn đề biển Đông, cụ thể là chủ quyền của Việt Nam đang bị các nước láng giềng lấn chiếm ra bàn quốc tế mà nước ta đang làm là hướng đi đúng đắn. Vì việc đưa ra chủ trương đấu tranh, bảo vệ đúng đắn thì sẽ thu hút được nhiều nguồn lực. Ngòai việc có hiểu biết đúng đắn hơn, hòan chỉnh hơn thì quan trọng hơn là đánh thức hay xác lập ý thức trách nhiệm của người dân đối với Biển đảo. 3 www.nghiencuubiendong.vn 7 Trường Đại học Luật Hà Nội
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan