Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Cơ sở pháp lý cho việc hội nhập quốc tế của việt nam trong lĩnh vực khoa học và ...

Tài liệu Cơ sở pháp lý cho việc hội nhập quốc tế của việt nam trong lĩnh vực khoa học và công nghệ

.PDF
114
7
113

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN NGỌC VINH CƠ SỞ PHÁP LÝ CHO VIỆC HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN NGỌC VINH CƠ SỞ PHÁP LÝ CHO VIỆC HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. ĐOÀN NĂNG Hà Nội - 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Nguyễn Ngọc Vinh LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các Quý thầy cô tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội đã giúp tôi trang bị đầy đủ tri thức thông qua quá trình học tập để có thể hoàn thành tốt Luận văn này. Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới Phó Giáo sư, Tiến sỹ Đoàn Năng, người đã chỉ dẫn tôi tận tình trong suốt thời gian thực hiện nghiên cứu. Xin chân thành cảm ơn các tổ chức, cá nhân đã hợp tác chia sẻ thông tin, cung cấp cho tôi nhiều tư liệu quý giá phục vụ cho Luận văn. Sau cùng, tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, những người đã động viên, hỗ trợ tôi rất nhiều trong quá trình học tập, làm việc và hoàn thành Luận văn. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 4 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.................................................................................. 4 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................................................ 6 3. Mục tiêu ................................................................................................................................. 7 4. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................................... 8 5. Nội dung nghiên cứu............................................................................................................ 8 6. Kết cấu của luận văn ........................................................................................................... 9 Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ CHO VIỆC HỘI NHẬP QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ............................................................................................. 10 1.1. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN.................................................................. 10 1.1.1. Khái niệm, hình thức và nội dung hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN ....................................................................................................... 10 1.1.2. Vai trò và xu hướng phát triển hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN ....................................................................................................... 16 1.1.2.1. Vai trò của hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN ............................. 16 1.1.2.2. Xu hướng phát triển hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN............ 20 1.2. Cơ sở pháp lý cho việc hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN.......................... 23 1.2.1. Các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế trong lĩnh vực KH&CN....... 23 1.2.2. Các quy định của pháp luật quốc gia về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN ................................................................................................ 24 1.3. Kinh nghiệm một số nước về xây dựng cơ sở pháp lý điều chỉnh vấn đề hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN............................................................................................ 26 1.3.1. Nhóm các nước phát triển .................................................................. 26 1 1.3.1.1. Tại Mỹ ................................................................................................................ 27 1.3.1.2. Tại Nhật Bản..................................................................................................... 31 1.3.1.3. Tại Hàn Quốc ................................................................................................... 32 1.3.1.4. Tại Bỉ.................................................................................................................. 33 1.3.1.5. Tại Liên Bang Nga ........................................................................................... 35 1.3.2. Nhóm các nước đang phát triển ......................................................... 38 1.3.2.1. Tại Trung Quốc ................................................................................................ 40 1.3.2.2. Tại Malaysia ..................................................................................................... 42 TIỂU KẾT................................................................................................................................ 45 Chƣơng 2. THỰC TRẠNG, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ QUAN ĐIỂM GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN CƠ SỞ PHÁP LÝ CHO HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ .................................................................................................... 48 2.1. Thực trạng cơ sở pháp lý cho hội nhập quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực KH&CN ................................................................................................................................... 48 2.1.1. Quy định của Hiến pháp .................................................................... 48 2.1.2. Quy định của Luật khoa học và công nghệ ....................................... 50 2.1.3. Quy định của một số đạo luật chuyên ngành hiện hành trong lĩnh vực KH&CN ....................................................................................................... 56 2.1.3.1. Quy định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công nghệ cao ....................... 56 2.1.3.2. Quy định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử .......... 59 2.1.3.3. Quy định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật.................................................................................................................................. 60 2.1.3.4. Quy định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đo lường ................................. 61 2.1.3.5. Quy định về vấn đề chuyển giao công nghệ ................................................. 61 2.1.4. Quy định tại một số đạo luật khác ..................................................... 62 2.1.5. Quy định của các văn bản cấp Chính phủ.......................................... 64 2.1.5.1. Quy định về vấn đề hợp tác, đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực KH&CN........................................................................................................................... 64 2 2.1.5.2. Quy định về việc thành lập tổ chức KH&CN có vốn nước ngoài và thành lập tổ chức KH&CN trực thuộc, văn phòng đại diện, chi nhánh của tổ chức KH&CN Việt Nam ở nước ngoài.................................................................................... 67 2.1.5.3. Quy định về việc sử dụng, trọng dụng cá nhân hoạt động KH&CN ........... 73 2.1.5.4. Quy định về việc thu hút cá nhân hoạt động KH&CN là người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài tham gia hoạt động KH&CN tại Việt Nam 75 2.1.6. Quy định của các văn bản cấp Bộ ...................................................... 79 2.1.7. Đánh giá chung thực trạng cơ sở pháp lý quốc gia về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực khoa học và công nghệ ......................................................... 80 2.1.8. Quy định của các điều ước quốc tế và các thỏa thuận quốc tế Việt Nam là thành viên ........................................................................................ 82 2.2. Phương hướng và quan điểm giải pháp tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN.................................................................................. 88 2.2.1. Phương hướng .................................................................................... 88 2.2.2. Giải pháp và kiến nghị phương án tiếp tục hoàn thiện các quy định về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN .................................................... 91 2.2.2.1. Giải pháp .............................................................................................................. 91 2.2.2.2. Kiến nghị phương án tiếp tục hoàn thiện các quy định về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN .................................................................................................... 94 TIỂU KẾT.............................................................................................................................. 102 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 103 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 106 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Tính đến nay, Việt Nam đã có quan hệ hợp tác khoa học và công nghệ (KH&CN) với gần 70 nước, tổ chức quốc tế và vùng lãnh thổ; đã ký kết và đang thực hiện hơn 80 hiệp định hợp tác KH&CN cấp Chính phủ và cấp Bộ. Việt Nam đang là thành viên chính thức và không chính thức của gần 100 tổ chức quốc tế và khu vực về KH&CN. Theo thống kê của các Bộ, ngành, từ năm 2000 đến nay đã có hơn 500 thoả thuận, hợp đồng hợp tác quốc tế về KH&CN được thực hiện tại các cơ sở nghiên cứu - triển khai ở các cấp [2, 35]. Nội dung hợp tác quốc tế về KH&CN đã bắt đầu gắn kết với yêu cầu thực tiễn của các ngành, địa phương, bước đầu phục vụ có hiệu quả cho các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hình thức hợp tác quốc tế về KH&CN ngày càng đa dạng và phong phú hơn (bao gồm hợp tác đào tạo nhân lực KH&CN, nghiên cứu chung, chuyển giao công nghệ, trao đổi chuyên gia, tổ chức hội thảo, hội nghị, trình diễn công nghệ, hội chợ, triển lãm công nghệ…). Các lĩnh vực hợp tác cũng được mở rộng, từ nghiên cứu cơ bản đến nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao công nghệ, nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, nghiên cứu liên ngành. Hợp tác quốc tế về KH&CN trong thời gian qua đã góp phần tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, nâng cao trình độ đội ngũ nhân lực KH&CN, thúc đẩy quá trình đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ trong nước. Một số bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp đã chủ động tiếp cận, mua bán, áp dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ cao trên thế giới và mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ của nước ta. Hệ thống sở hữu trí tuệ và tiêu chuẩn đo lường chất lượng sản phẩm đã từng bước được hoàn thiện đáp ứng các yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Cơ chế quản lý hoạt động KH&CN đã từng bước tiếp cận với thông lệ quốc tế, xã hội hoá hoạt động 4 KH&CN thông qua các hình thức tuyển chọn tự do, công khai để các tổ chức, cá nhân tham gia vào đề tài, dự án sử dụng ngân sách nhà nước, xây dựng các tiêu chí, quy trình đánh giá, nghiệm thu đề tài, dự án. Tuy nhiên, hoạt động hợp tác quốc tế về KH&CN của nước ta chưa đáp ứng được các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nói chung và của chính bản thân KH&CN nói riêng của đất nước. Quá trình hợp tác trong thời gian qua đã bộc lộ không ít hạn chế, bất cập như nhân lực KH&CN chưa đủ năng lực để tham gia hiệu quả vào các hoạt động KH&CN quốc tế và khu vực, hàm lượng KH&CN đóng góp cho các hoạt động KH&CN quốc tế và khu vực còn thấp; cơ sở vật chất - kỹ thuật nhìn chung còn lạc hậu, thiếu thốn, không đồng bộ, môi trường làm việc chưa chuyên nghiệp; phần lớn các hoạt động hợp tác quốc tế về KH&CN trong thời gian qua mới chỉ được thực hiện trong khuôn khổ các hiệp định/thoả thuận hợp tác song phương hoặc đa phương do các bộ, ngành, địa phương ký kết. Mối quan hệ hợp tác thường diễn ra “một chiều”, trong đó các đối tác Việt Nam thường là “bên nhận, bên được hỗ trợ”, các đối tác nước ngoài là “bên cho, bên hỗ trợ”. Điều này dẫn đến sự phụ thuộc vào đối tác và không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên.v.v. [2, 40] Trong bối cảnh đó, Thủ tướng Chính phủ đã chủ động phê duyệt Đề án hội nhập quốc tế về KH&CN. Quốc hội, Chính phủ chỉ đạo sửa đổi Luật KH&CN năm 2000. Bộ KH&CN được giao chủ trì thực hiện Đề án hội nhập quốc tế về KH&CN và sửa đổi, bổ sung Luật KH&CN năm 2000 để trình Quốc Hội thông qua. Việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm hoàn thiện hệ thống các quy định hội nhập quốc tế về KH&CN có ý nghĩa vô cùng quan trọng và cần thiết nhằm luật hoá quy định, các giải pháp đã được đề cập trong Đề án hội nhập quốc tế về KH&CN, tạo cơ sở pháp lý vững chắc và toàn diện cho hoạt động hội nhập quốc tế về KH&CN trong giai đoạn mới. Hợp tác quốc tế về KH&CN là một trong những lĩnh vực hợp tác quốc tế được phát triển rộng rãi, phổ biến trên thế giới hiện nay. Hợp tác quốc tế về KH&CN cũng được Việt Nam đặc biệt chú trọng phát triển nhằm tranh thủ tối đa nguồn lực và các thành tựu KH&CN từ các nước trên thế giới, đặc biệt từ các nước 5 có nền KH&CN tiên tiến để phát triển nền KH&CN Việt Nam phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia. Thậm chí Đảng và Nhà nước ta còn khẳng định chủ trương tiến xa hơn trong hoạt động hợp tác quốc tế về KH&CN, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế về KH&CN. Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của toàn cầu hóa, tự do hóa khu vực và quốc tế về kinh tế, thương mại v.v..., hợp tác quốc tế về KH&CN giữa các quốc gia ngày càng được đẩy mạnh, hình thức và nội dung hợp tác ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Tuy nhiên xu hướng phát triển hợp tác quốc tế về KH&CN không chỉ dừng ở việc đa dạng hóa hình thức và nội dung hợp tác mà đã, đang và tiếp tục bứt lên theo kịp, thậm chí cần đi trước một bước để phục vụ cho quá trình toàn cầu hóa, tự do hóa khu vực và quốc tế về kinh tế, thương mại. Đó chính là quá trình hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa về KH&CN. Để tham gia tốt quá trình này, Việt Nam cần có hành lang cơ sở pháp lý đầy đủ, đồng bộ, toàn diện, phục vụ cho mục tiêu của đất nước hội nhập mạnh mẽ, sâu rộng trong sân chơi quốc tế về KH&CN. Vì vậy, cần có sự nghiên cứu và đánh giá một cách tổng quan, khái quát nhất thực trạng nội dung các quy định hiện hành phục vụ cho quá trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN và đề xuất phương hướng, giải pháp tiếp tục hoàn thiện. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Tính từ thời điểm năm 2000 (sau khi Luật KH&CN đầu tiên của nước ta có hiệu lực) đến nay đã có một số đề tài nghiên cứu liên quan đến nội dung này như sau: - Đề án “Nghiên cứu so sánh các quy định của Luật KH&CN với yêu cầu của cơ chế quản lý mới về KH&CN” do Vụ Pháp chế, Bộ KH&CN chủ trì nghiên cứu năm 2006; - Đề án “Nghiên cứu luận cứ khoa học cho việc sửa đổi, bổ sung Luật KH&CN năm 2000” do Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN chủ trì thực hiện năm 2007; - Đề án “Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật KH&CN” do Viện Chiến lược 6 và Chính sách KH&CN thực hiện năm 2008. Tuy nhiên, cả 03 đề án trên mới chủ yếu tập trung nghiên cứu, đánh giá các quy định tổ chức thực hiện nhiệm vụ KH&CN, đầu tư, tài chính cho hoạt động KH&CN, quản lý nhà nước về KH&CN, chứ chưa chú trọng đầy đủ và toàn diện đến việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn thi hành các quy định về hợp tác quốc tế trong Luật KH&CN và các giải pháp thích hợp cho hoạt động hợp tác quốc tế về KH&CN phù hợp với thực tiễn và chuẩn mực quốc tế. Đề án Hội nhập quốc tế về KH&CN đến năm 2020 (sau đây gọi tắt là Đề án Hội nhập) được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2011 đã đánh giá vai trò của hội nhập quốc tế đối với sự phát triển KH&CN của đất nước, xác định mục tiêu của hoạt động hội nhập quốc tế về KH&CN và đưa ra một số nhiệm vụ và giải pháp để đẩy mạnh hoạt động hội nhập quốc tế về KH&CN. Tuy nhiên đề án này chưa đánh giá đầy đủ và sâu sắc các quy định và thực tiến thực thi các quy định hợp tác quốc tế về KH&CN trong Luật KH&CN năm 2000 và các văn bản pháp luật có liên quan. Ngoài ra còn một số công trình nghiên cứu khác có liên quan: - Đề án “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn thi hành Luật Khoa học và Công nghệ 2000 và đề xuất phương án hoàn thiện phù hợp với yêu cầu đổi mới” do Vụ Pháp chế, Bộ Khoa học và Công nghệ thực hiện năm 2012; - Đề tài nghiên cứu khoa học “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực KH&CN” do Vụ Pháp chế, Bộ Khoa học và Công nghệ thực hiện năm 2013. Những công trình này góp phần làm rõ thêm một bước thực trạng các quy định về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN, đồng thời là cơ sở lý luận cho việc sửa đổi, bổ sung Luật KH&CN năm 2000. Kết quả của những công trình này đó là việc Quốc hội ban hành Luật KH&CN năm 2013 với một chương riêng quy định về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN. 3. Mục tiêu Nghiên cứu làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn hội nhập quốc tế về 7 KH&CN theo tinh thần của pháp luật về KH&CN của Việt Nam, làm cơ sở cho việc đề xuất giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định này, tạo cơ sở pháp lý tốt hơn cho việc thúc đẩy hoạt động hội nhập quốc tế về KH&CN trong thời gian tới. Mục tiêu cụ thể như sau: - Làm rõ ưu điểm, nhược điểm, nguyên nhân của những bất cập về nội dung và việc thực thi các quy định về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN; - Làm rõ vai trò và ảnh hưởng của hội nhập quốc tế đối với sự phát triển của hoạt động KH&CN; - Đề xuất cụ thể việc tiếp tục hoàn thiện các quy định về hội nhập quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực KH&CN. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được triển khai thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về phát triển kinh tế - xã hội, phát triển KH&CN và hội nhập quốc tế đã được khẳng định tại Cương lĩnh và trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI thông qua, tại Nghị quyết mới “Về phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” của Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI của Đảng. Luận văn cũng đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể sau đây: - Phương pháp phân tích, tổng hợp; - Phương pháp tiếp cận hệ thống; - Phương pháp so sánh; - Phương pháp chuyên gia. 5. Nội dung nghiên cứu 8 Luận văn đã tổ chức nghiên cứu 04 nhóm vấn đề sau đây: 1. Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN phục vụ việc đề xuất việc tiếp tục hoàn thiện nội dung các quy định về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN; 2. Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển KH&CN và hội nhập quốc tế về KH&CN của một số nước phục vụ việc đề xuất việc tiếp tục hoàn thiện nội dung các quy định về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN; 3. Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của việc đề xuất việc tiếp tục hoàn thiện nội dung các quy định pháp luật về KH&CN của Việt Nam, đặc biệt là hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN; 4. Đề xuất các quy định cụ thể về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN. 6. Kết cấu của luận văn Luận văn này gồm phần mở đầu, hai chương và phần kết luận. Chương 1. Một số vấn đề lý luận về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN và cơ sở pháp lý cho việc hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN. Chương 2. Thực trạng, phương hướng và quan điểm giải pháp tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hội nhập quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực KH&CN. 9 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ CHO VIỆC HỘI NHẬP QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Hội nhập quốc tế về KH&CN là một trong những lĩnh vực hội nhập quốc tế được phát triển rộng rãi, phổ biến trên thế giới hiện nay. Hội nhập quốc tế về KH&CN cũng được Việt Nam đặc biệt chú trọng phát triển nhằm tranh thủ tối đa nguồn lực và các thành tựu KH&CN từ các nước trên thế giới, đặc biệt từ các nước có nền KH&CN tiên tiến để phát triển nền KH&CN Việt Nam phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia. Tại chương này, người viết sẽ phân tích, làm rõ hình thức, nội dung, vai trò và xu hướng phát triển của hội nhập quốc tế về KH&CN của Việt Nam. 1.1. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN 1.1.1. Khái niệm, hình thức và nội dung hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của toàn cầu hóa, tự do hóa khu vực và quốc tế về kinh tế, thương mại v.v..., hợp tác quốc tế về KH&CN giữa các quốc gia ngày càng được đẩy mạnh, hình thức và nội dung hợp tác ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Tuy nhiên xu hướng phát triển hợp tác quốc tế về KH&CN không chỉ dừng ở việc đa dạng hóa hình thức và nội dung hợp tác mà đã, đang và tiếp tục bứt lên theo kịp, thậm chí cần đi trước một bước để phục vụ cho quá trình toàn cầu hóa, tự do hóa khu vực và quốc tế về kinh tế, thương mại. Đó chính là quá trình hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa về KH&CN. KH&CN từ lâu đã trở thành nền tảng phát triển của nhiều ngành, lĩnh vực, của toàn bộ nền kinh tế của tất cả các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển trên toàn thế giới hiện nay, đặc biệt là đối với các ngành công nghiệp công nghệ cao. Hội nhập quốc tế về KH&CN cũng đã và đang trở thành xu thế tất yếu giống như hội nhập quốc tế về kinh tế, thương mại và về các lĩnh 10 vực khác. Có thể nói, với kết quả phát triển ngày càng mạnh mẽ của hội nhập quốc tế về KH&CN của đông đảo các quốc gia trên thế giới, quá trình quốc tế hóa hay toàn cầu hoá lĩnh vực KH&CN cũng đang diễn ra như toàn cầu hóa kinh tế và cũng trở thành xu hướng không thể đảo ngược. Tất cả các cường quốc cũng như các quốc gia chưa phải là cường quốc về KH&CN đều không thể đứng ngoài quá trình này. Vậy hội nhập quốc tế về KH&CN là gì, quốc tế hóa hay toàn cầu hóa KH&CN là gì ? Theo các nhà nghiên cứu, “Toàn cầu hoá KH&CN” là một quá trình phát triển KH&CN, bao gồm 3 nội dung chủ yếu: phối hợp mang tính toàn cầu đối với công tác nghiên cứu khai thác KH&CN theo nguyên tắc phát huy ưu thế từng nước và hợp lý nhất để đưa đến hiệu quả cao nhất; quản lý KH&CN toàn cầu, nghĩa là phương thức tổ chức nghiên cứu KH&CN theo nguyên tắc mở cửa toàn cầu, khiến các nước phải tuân theo khuôn khổ, chế độ và chuẩn mực quốc tế chung, tiến hành trao đổi, hợp tác KH&CN theo quy hoạch chung của thế giới, đảm bảo bản quyền đối với các phát minh và đối tượng sở hữu công nghiệp; các nước cùng nhau hưởng lợi trên phạm vi toàn cầu đối với thành quả nghiên cứu, khai thác KH&CN theo nguyên tắc và điều kiện chung.1 Ba mặt này liên kết với nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau làm thành một thể thống nhất, tạo thành làn sóng chính của toàn cầu hoá KH&CN. Do toàn cầu hoá có động lực chủ yếu là thúc đẩy toàn cầu hoá kinh tế, trong đó các công ty công nghiệp xuyên quốc gia, đặc biệt các công ty công nghiệp xuyên quốc gia của Hoa Kỳ, của châu Âu và của các nước phát triển khác là lực lượng xung kích thúc đẩy vì toàn cầu hoá phục vụ trực tiếp cho chiến lược sản xuất và kinh doanh mang tính toàn cầu của các công ty này, và chính vì vậy hiện nay toàn cầu hoá KH&CN chủ yếu do các nước phát triển khởi xướng và làm chủ. Toàn cầu hoá KH&CN có tác động làm thay đổi kết cấu KH&CN quốc Vụ Pháp chế, Bộ Khoa học và Công nghệ (2013), Báo cáo tổng hợp đề tài nghiên cứu khoa học “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực KH&CN” (Tr 15), Hà Nội. 11 1 tế, trong đó các nước phát triển giữ vai trò chủ thể chủ yếu và thu lợi nhiều nhất. Tuy nhiên các nước đang phát triển cũng có thể hưởng lợi ích nhất định do quá trình này mang lại để phát triển nền KH&CN của mình, nếu biết triệt để khai thác cơ hội thì có cơ may đi tắt - đón đầu, tránh lãng phí tiền bạc, khai thác các thành tựu KH&CN của thế giới, tranh thủ nguồn lực xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho KH&CN, đào tạo nguồn nhân lực KH&CN của mình, nhưng nếu xử lý không tốt sẽ phải hứng chịu nhiều thách thức và có thể còn bị lệ thuộc về kỹ thuật, dẫn đến lệ thuộc về kinh tế và cuối cùng là bị nô dịch về chính trị-xã hội. Nhờ quốc tế hóa, toàn cầu hoá mà KH&CN phát triển nhanh hơn, và ngược lại KH&CN phát triển nhanh lại đẩy mạnh quốc tế hóa, toàn cầu hoá, khu vực hoá, nhất là các lĩnh vực công nghệ thông tin, truyền thông, công nghệ truyền dẫn năng lượng và vận tải.2 Đối với các nước phát triển và có nền KH&CN hùng mạnh, việc hội nhập quốc tế về KH&CN, thậm chí tham gia sâu vào quá trình quốc tế hóa, toàn cầu hóa KH&CN sẽ mang lại cho họ nhiều lợi ích to lớn không ai có thể phủ nhận được. Nếu trước đây hợp tác quốc tế về KH&CN của các nước kém phát triển và đang phát triển chỉ dừng ở vị trí nhận viện trợ, nhận giúp đỡ thụ động và do đó kết quả hợp tác rất kém hiệu quả, thì ngày nay họ đã, đang cố gắng từng bước chuyển sang thế chủ động hơn, thậm chí nhiều nước đang phát triển, đặc biệt các cường quốc kinh tế mới nổi đã có những bước đi mạnh mẽ theo hướng hội nhập quốc tế về KH&CN với ý nghĩa hợp tác quốc tế về KH&CN được chuyển biến về chất, được nâng lên tầm cao hơn, chủ động từ cả hai hay nhiều bên hợp tác, đi vào chiều sâu, bình đẳng, cùng có lợi, theo luật chơi chung [6, 32]. Vậy hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập quốc tế về KH&CN nói riêng nên được hiểu như thế nào, bản chất, nội dung, xu hướng phát triển của nó Vụ Pháp chế, Bộ Khoa học và Công nghệ (2013), Báo cáo tổng hợp đề tài nghiên cứu khoa học “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực KH&CN” (Tr 15), Hà Nội. 12 2 ra sao. Đây là vấn đề còn có nhiều ý kiến khác nhau. Công trình nghiên cứu của TS. Phạm Quốc Trụ đã giới thiệu và phân tích các quan điểm khác nhau này: Ý kiến thứ nhất cho rằng, hội nhập quốc tế (intergration) là một sản phẩm hơn là một quá trình. Sản phẩm đó là một nhà nước liên bang như Hoa kỳ hay Thụy Sỹ [Carl J. Friedrich (1968), Trends of Federalism in Theory and Practice, Praeger, New York] [Theodore A. Couloumbis & James H. Wolfe (1986), Introduction International relations: Power & Justice, Prentice-Hall, Englewood Cliffs, New Jersey]. Ý kiến thứ hai cho rằng hội nhập vừa là một quá trình vừa là một sản phẩm cuối cùng, chính là sự liên kết các quốc gia thông qua phát triển các luồng giao lưu như thương mại, đầu tư, thông tin, du lịch, văn hóa...từ đó dần dần hình thành cộng đồng an ninh (security community) kiểu như Hoa Kỳ hay Tây Âu [Karl W. Deutsch and all, Political Community and the North Atlantic Area, Princeton University Press, Princeton, N.J.].Ý kiến thứ ba cho rằng hội nhập là việc các nước mở rộng và làm sâu sắc quan hệ hợp tác mới trên cơ sở phân công lao động quốc tế có chủ đích, dựa vào lợi thế của mỗi nước. TS. Phạm Quốc Trụ cho rằng cả ba cách hiểu nêu trên đều có khiếm khuyết và không chấp nhận được, đồng thời đề nghị coi “Hội nhập quốc tế là quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế”. Đây là cách hiểu có cơ sở khoa học, toàn diện, đúng đắn, thể hiện đúng bản chất của hiện tượng.3 Hiện nay khái niệm hội nhập quốc tế được các nước sử dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực, kể cả lĩnh vực KH&CN. Khái niệm hội nhập quốc tế cũng được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước với nội hàm như TS. Phạm Quốc Trụ đề nghị. Khái niệm này được sử dụng trên mọi lĩnh vực, mọi diễn đàn, mọi phương tiện thông tin đại chúng đến mức trở thành thuật ngữ thân quen, câu nói cửa miệng của cán bộ, công chức và nhân dân. Thậm chí Đảng và Nhà nước ta còn khẳng định chủ trương nhất quán 3 Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, Học viện Ngoại giao, số 2/2011, (tr. 77-99). 13 là tích cực và chủ động hội nhập quốc tế.4 Một cách khái quát nhất, hội nhập quốc tế về KH&CN là sự phát triển sâu rộng hơn các mối quan hệ hợp tác quốc tế trong tiến hành hoạt động KH&CN, trong đó mỗi quốc gia tự gắn bó với cộng đồng KH&CN quốc tế như là một bộ phận không thể tách rời, cùng hợp tác, phân công và phối hợp hành động trong quá trình nghiên cứu và phát triển KH&CN, nhằm mục đích chung là làm phong phú và sâu sắc kho kiến thức của nhân loại, đồng thời những quyền lợi quốc gia về phát triển KH&CN, kinh tế - xã hội cũng được giải quyết một cách hiệu quả hơn nhiều so với những cố gắng của từng quốc gia riêng lẻ [8]. Nói cách khác, hội nhập quốc tế chính là hợp tác quốc tế ở trình độ cao, sâu sắc, gắn kết chặt chẽ, cùng chia sẻ lợi ích, hoạt động bình đẳng theo luật chơi chung và là xu thế chung của thế giới nhằm lĩnh hội kho tàng kiến thức của nhân loại và đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. Từ ngày thành lập đến nay, đặc biệt từ khi triển khai thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng, Nhà nước ta luôn luôn có chủ trương mở rộng giao lưu và hội nhập quốc tế về KH&CN; tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân Việt Nam hợp tác về KH&CN với các tổ chức, cá nhân nước ngoài, các tổ chức quốc tế; tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức quốc tế theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, bình đẳng và cùng có lợi. Nhà nước cũng có các cơ chế, chính sách thu hút trí thức là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, các chuyên gia giỏi của thế giới tham gia phát triển KH&CN Việt Nam. Các tổ chức KH&CN, cá nhân hoạt động KH&CN của Việt Nam được nhận tài trợ, tham gia tổ chức KH&CN, hội KH&CN, tham gia hoạt động nghiên cứu, đào tạo, tư vấn, hội nghị KH&CN của tổ chức quốc tế, tổ chức, cá Vụ Pháp chế, Bộ Khoa học và Công nghệ (2013), Báo cáo tổng hợp đề tài nghiên cứu khoa học “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực KH&CN” (Tr 16), Hà Nội. 14 4 nhân nước ngoài; hợp tác thực hiện nhiệm vụ KH&CN của Việt Nam ở nước ngoài. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài được lập Quỹ phát triển KH&CN tại Việt Nam theo quy định của Chính phủ; được đóng góp xây dựng các quỹ phát triển KH&CN của Việt Nam quy định của pháp luật Việt Nam. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài hợp tác phát triển KH&CN tại Việt Nam được Nhà nước khuyến khích, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài thành lập hoặc hợp tác với tổ chức, cá nhân Việt Nam thành lập tổ chức KH&CN tại Việt Nam được hưởng các ưu đãi về thuế, sử dụng đất và các ưu đãi khác theo quy định của pháp luật. Nhà nước đã ban hành chính sách, biện pháp để sử dụng có hiệu quả vốn vay và viện trợ của nước ngoài đầu tư phát triển KH&CN.5 Như vậy có thể nói hình thức và nội dung hội nhập quốc tế của Việt Nam về KH&CN rất phong phú, đa dạng. Có thể cụ thể hóa các hình thức và nội dung hội nhập này trong thực tiễn như sau: - Phía nước ngoài tài trợ vốn, máy móc, thiết bị, phương tiện nghiên cứu cho Nhà nước Việt Nam, cho các tổ chức, cá nhân Việt Nam để nghiên cứu giải quyết các vấn đề KH&CN của Việt Nam. - Các tổ chức, cá nhân Việt Nam tham gia tổ chức KH&CN, hội KH&CN của nước ngoài. Các tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia tổ chức KH&CN, hội KH&CN của Việt Nam. - Cả hai phía cùng tham gia thực hiện các nhiệm vụ KH&CN ở trong và ngoài Việt Nam. Vụ Pháp chế, Bộ Khoa học và Công nghệ (2013), Báo cáo tổng hợp đề tài nghiên cứu khoa học “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực KH&CN” (Tr 8), Hà Nội. 15 5 - Phía nước ngoài hỗ trợ đào tạo, nâng cao trình độ cho đội ngũ nhân lực KH&CN, tư vấn về KH&CN cho phía Việt Nam. - Tổ chức, cá nhân Việt Nam tham gia các hội nghị, hội thảo KH&CN của tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài; tổ chức các hội nghị, hội thảo KH&CN quốc tế tại Việt Nam với sự tham gia của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. - Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, chuyên gia nước ngoài tham gia hoạt động KH&CN tại Việt Nam. - Thành lập các tổ chức KH&CN có vốn nước ngoài, văn phòng đại diện, chi nhánh của tổ chức nước ngoài tại Việt Nam. - Các hình thức trực tiếp trao đổi học thuật ngoài hội nghị, hội thảo giữa các nhà khoa học Việt Nam và các nhà khoa học nước ngoài v.v… 1.1.2. Vai trò và xu hƣớng phát triển hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN 1.1.2.1. Vai trò của hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN Hội nhập quốc tế về KH&CN là một trong những lĩnh vực hội nhập quốc tế được phát triển khá nhanh, rộng rãi, phổ biến trên thế giới hiện nay. Hội nhập quốc tế về KH&CN cũng được Việt Nam đặc biệt chú trọng thúc đẩy phát triển mạnh. Sở dĩ như vậy là vì hội nhập quốc tế về KH&CN có vai trò to lớn đối với sự phát triển KH&CN của mỗi quốc gia, đặc biệt đối với những quốc gia kém hoặc đang phát triển. Trong thời đại xây dựng nền kinh tế tri thức, toàn cầu hóa, tự do hoá thương mại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và không thể đảo ngược, các quốc gia phát triển đã, đang và sẽ tiếp tục dựa vào KH&CN, lấy KH&CN làm công cụ bảo đảm sức mạnh kinh tế, quân sự và sức cạnh tranh của mình. Họ coi tài sản trí tuệ tạo ra từ hoạt động KH&CN mới là tài sản lớn nhất, quan trọng nhất để bảo đảm vị thế và sức cạnh tranh của mình. Hội nhập quốc tế về KH&CN đối với các nước phát triển, các nước được gọi là cường quốc về KH&CN cũng rất quan trọng. Chính hội nhập quốc tế về KH&CN giúp các nước này phối hợp giải quyết nhanh hơn các vấn đề KH&CN cùng được quan 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan