Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Luyện thi - Đề thi Tuyển sinh lớp 10 Môn văn Chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 9 môn ngữ văn...

Tài liệu Chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 9 môn ngữ văn

.DOC
27
503
85

Mô tả:

CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN: NGỮ VĂN Tên chuyên đề: HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC TRUNG ĐẠI THUỘC CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN THCS Dự kiến số tiết bồi dưỡng: 8 tiết Đối tượng bồi dưỡng: Học sinh giỏi lớp 9 1 CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN 9 : HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC TRUNG ĐẠI THUỘC CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN THCS PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU 1/ Lý do chọn chuyên đề Văn học Việt Nam là nền văn học mang đậm tính nhân văn. Một trong những giá trị độc đáo ấy là hình tượng người phụ nữ luôn được phản ánh sâu đậm và cao đẹp, đặc biệt là trong văn học trung đại. Tuy nhiên trong thực tế, văn học trung đại vốn khó và có phần xa cách về thời gian nên thường có nhiều hạn chế trong dạy và học. Vì mỗi thời kì có một đặc trưng riêng biệt song vẫn có những giá trị mang tính truyền thống nên để hiểu hôm nay không thể không quan tâm đến quá khứ. Việc nắm vững hình tượng người phụ nữ trong văn học giai đoạn trung đại có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ với giai đoạn văn học đó mà còn là cơ sở để nắm vững các giai đoạn trước và sau nó. Thời kì từ TK X đến hết TK XIX là vô cùng quan trọng vì nó có nhiều biến động lịch sử quyết định sự phát triển của dân tộc, vì thế văn học cũng vô cùng đa dạng, phong phú và có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình văn học dân tộc. Thế nhưng trong chương trình Ngữ văn THCS được biên soạn theo đổi mới phương pháp dạy học thì các tác phẩm văn học không học theo tiến trình lịch sử, ít nội dung khái quát về văn học từng thời kì dẫn đến học sinh khó khăn trong trong việc xâu chuỗi các vấn đề qua nhiều tác phẩm. Mặt khác, chương trình lại chỉ dành cho giai đoạn này một lượng thời gian không nhiều và nội dung còn hạn hẹp, việc tìm hiểu sâu hơn hoàn cảnh lịch sử, các vấn đề về người phụ nữ có phần quá sơ lược, thiếu cơ sở. Với các em, nhất là với học sinh giỏi càng cần thiết phải nắm được hoàn cảnh xã hội, những đặc trưng cơ bản...để tìm hiểu sâu sắc hơn giá trị cũng như nét đặc thù mỗi tác phẩm, trong mỗi trào lưu; vì vậy chuyên đề này sẽ phần nào giúp các em, các thầy cô có kiến thức đầy đủ toàn diện hơn về hình tượng người phụ nữ trong giai đoạn văn học quan trọng này. 2/ Phạm vi kiến thức Các sáng tác văn học Việt Nam giai đoạn từ TK X đến hết TK XIX. Tập trung chủ yếu vào các tác phẩm thuộc chương trình Ngữ văn 9 như: "Truyện Kiều" của Nguyễn Du, "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ, "Lục Vân Tiên" của Nguyễn Đình Chiểu và một số tác giả, tác phẩm thuộc chương trình Ngữ văn 7: Thơ Hồ Xuân Hương, " Chinh Phụ Ngâm" của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm. Ngoài ra có mở rộng đến một số tác phẩm ngoài chương trình như " Cung oán ngâm khúc " của Nguyễn Gia Thiều thuộc chương trình ngữ văn THPT ...Trong mỗi văn bản, chỉ tập trung làm rõ vẻ đẹp và bi kịch của nhân vật người phụ nữ và nghệ thuật khắc hoạ tính cách nhân vật ấy và một số vấn đề tham khảo. 3/ Đối tượng thực hiện Học sinh lớp 9. Dùng cho đội tuyển bồi dưỡng HSG Ngữ văn cấp Huyện, cấp Tỉnh. 4/ Thời lượng sử dụng Dạy trong 8 tiết. PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG 2 A/ KHÁI QUÁT 1. Khái niệm hình tượng và hình tượng trong văn học Hình tượng là sự phản ánh hiện thực một cách khái quát bằng nghệ thuật dưới hình thức những hiện tượng cụ thể, sinh động, điển hình, nhận thức trực tiếp bằng cảm tính. Hình tượng văn học trong các tác phẩm luôn là phương tiện hình thức để nhà văn bộc lộ giá trị tư tưởng và phong cách nghệ thuật của mình . Mỗi nhà văn khi cầm bút phải không ngừng sáng tạo tìm tòi để xây dựng hình tượng nhân vật tiêu biểu đặc sắc. Không phải tác phẩm văn học nào cũng có hình tượng văn học. Không phải nhân vật nào trong tác phẩm văn học đều trở thành hình tượng nhân vật văn học. Để trở thành hình tượng văn học điều kiện tiên quyết là phải có tính điển hình. Trong văn học, hình tượng nhân vật phải là: nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Nghĩa là nhân vật văn học ấy phải có sức tập trung khái quát cao. Nhân vật ấy phải có những nét chung nhất của tầng lớp, giai cấp... mà mình đại diện. Và bối cảnh xã hội mà nhân vật ấy xuất hiện phải là bối cảnh điển hình của một vùng, một nơi vào một thời điểm lịch sử nhất định. Như vậy: hình tượng nhân vật trong văn học là nhân vật điển hình trong tác phẩm văn học, mang đậm nét khái quát của tầng lớp, giai cấp của nhân vật ấy, đồng thời là nhân vật có những nét riêng đặc biệt, xuất hiện trong bối cảnh điển hình mà tác phẩm văn học ấy thể hiện. 2. Hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại Trong giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVI – thế kỉ XIX, ở nước ta do điều kiện xã hội đặc biệt của nó mà trong văn học dân tộc ta hình thành một trào lưu nhân đạo chủ nghĩa. Trong trào lưu văn học này, lần đầu tiên hình ảnh người phụ nữ được đề cập đến một cách phổ biến trong nhiều tác phẩm của nhiều tác giả: Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm có người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm; Nguyễn Gia Thiều có người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc; Nguyễn Du có Thúy Kiều trong Truyện Kiều; Nguyễn Dữ có Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương ; trong những truyện Nôm của những nhà thơ khác như Hoa Tiên, Sơ kính tân trang… cũng có những cô gái như Dao Tiên, Quỳnh Thư…Nhưng điểm lại những nhân vật phụ nữ trong giai đoạn này, hầu như tất cả đều xuất thân từ tầng lớp quý phái, ngay cả Thúy Kiều của Nguyễn Du cũng được nhà thơ giới thiệu là: “Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung”(truyện Kiều). Chỉ có hình ảnh người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương, Vũ Nương trong Truyện của Nguyễn Dữ ta mới bắt gặp những người con gái của tầng lớp bình dân. Trong dòng chảy quan niệm Việt Nam, người phụ nữ đẹp trong văn học trung đại cũng hiện diện trong một vẻ đẹp toàn diện cả bên trong lẫn bên ngoài. Đó là một sự kết hợp hài hoà giữa sắc – tài – tâm, giữa nhan sắc và đức hạnh với “tam tòng, tứ đức”. Như vậy, ngay trong cái nền chung trong quan niệm về người phụ nữ đẹp của người Việt đã có một sự “dị biệt” qua từng thời kì văn học. Đó là vì quan niệm thẩm mỹ vốn là một phạm trù “phụ thuộc vào chủ thể thẩm mỹ” (Chủ nghĩa Mác – Lênin). Cho nên, mỗi một thời đại, tuỳ vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà có những quan niệm khác nhau. Thời trung đại, với sự tiếp biến văn hoá đặc biệt là văn hoá Trung Hoa, tư tưởng của Khổng giáo, Đạo giáo và Phật giáo đã chi phối đến quan niệm thẩm mỹ của thời đại. Người phụ nữ có đức hạnh theo quan niệm của Nho gia (lễ giáo phong kiến) là người phải hội tụ đủ “tam tòng, tứ đức” (Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử; và công, dung, ngôn hạnh). 3 Tuỳ theo cái nhìn chủ quan của tác giả mà vẻ đẹp mỗi nhân vật nữ lại được biểu hiện không giống nhau. Đó là nàng Kiều (Truyện Kiều), người được xem là người đàn bà đẹp nhất trong văn học Việt Nam. Nếu đặt Kiều vào trong lễ giáo phong kiến thì Kiều không phải là người phụ nữ đức hạnh, nhưng không vì thế mà dân tộc ta phủ nhận vẻ đẹp của Kiều từ ngoại hình đến tài năng, tâm hồn, tính cách. Như vậy, Kiều đẹp còn bởi tấm lòng nhân hậu, bao dung vốn là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta mà Nguyễn Du đã kế thừa. Nguyễn Đình Chiểu thì đưa ra một quan niệm về nguời phụ nữ lý tưởng theo quan niệm của lễ giáo phong kiến: “Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”(Lục Vân Tiên). Những người phụ nữ trong Chinh phụ ngâm hay Cung oán ngâm cũng là những đại diện tiêu biểu cho quan niệm về người phụ nữ đẹp trong thời đại họ. Nhưng với Hồ Xuân Hương, người phụ nữ “nổi loạn” của thời đại, thì bà lại có cái nhìn mới về vẻ đẹp người phụ nữ, đứng ở vị trí là người phát ngôn cho vẻ đẹp của giới mình. Xuân Hương là người đầu tiên và có thể là duy nhất đưa vào văn học giai đoạn này không phải là cô gái quý tộc mà đích thực là những cô gái bình dân. Bà tìm thấy vẻ đẹp thực sự của họ, nêu bật vẻ đẹp bên trong, vẻ đẹp tâm hồn của họ (Bánh trôi nước, Con ốc nhồi, Quả mít); ca ngợi tuổi trẻ tươi mát, trắng trong các cô gái đang xoan (Đề tranh tố nữ); đi vào đến từng chi tiết của vẻ đẹp cơ thể (Thiếu nữ ngủ ngày)… Tuy nhiên, trong quan niệm của dân tộc ta thời kì này thì người phụ nữ đẹp thường gắn liền với số phận bất hạnh. Điểm lại gương mặt nhân vật nữ thời kì này ta thấy một điểm chung ở họ là có một cuộc đời đầy sóng gió, bẽ bàng, không mấy người có được hạnh phúc thật sự. Đặc điểm này phải chăng là do quan niệm “hồng nhan bạc mệnh”. B/ NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ Phụ nữ là một đề tài lớn trong văn học Việt Nam. Từ trước thế kỉ XVI, nhân vật phụ nữ đã thoáng trong các tác phẩm văn xuôi tự sự cũng như trong thơ ca. Đó là hình ảnh những vị anh hùng dân tộc, Bà Trưng, Bà Triệu, sống đánh giặc, chết hoá thành phúc thần tiếp tục giúp dân giúp nước; hoặc các n vật khác như Mị Châu, vì ngây thơ mà bị kẻ thù lợi dụng để đến mất nước tan nhà; như công chúa Dung thích ngao du sơn thuỷ, bất chấp luật lệnh của vua cha, tự ý kết duyên cùng chàng đánh cá Chử g Tử nghèo khó không một mảnh khố che thân; hay nàng quận chúa A Kim yêu say đắm Hà Ô Lôi – đứa vừa xấu vừa đen nhưng có giọng hát mê hồn… Trong lĩnh vực thơ ca, ta cũng thấy có một số bài, ngâm vịnh về nhân vật lịch sử như các bài Vịnh Mị Ê, Vịnh nàng Điêu Thuyền, Vịnh Chiêu Quân, các bài nói về nỗi buồn thương của các thiếu phụ, kẻ thì bị tình duyên dang dở như bài Chức Nữ nhớ u Lang, Tiên tử mong Lưu Nguyễn, Hoàng giang điếu Vũ Nương…Trong lĩnh vực sân khấu dân gian hị Kính trong vở chèo "quan âm Thị Kính" chịu nỗi hàm oan nuôi con cho Thị Mầu đến lúc hóa về nết bàn... Tuy nhiên, ở giai đoạn này, nhân vật phụ nữ chưa trở thành đối tượng quan tâm chính của học mà chỉ mới xuất hiện lẻ tẻ trong văn xuôi lịch sử, trong thần phả, trong truyện dân gian, hoặc g các bài thơ điếu, vịnh,… Đến thế kỉ XVI, đặc biệt là thế kỉ XVIII, phụ nữ đã trở thành một trong những đề tài lớn của văn học. Các thể loại văn học dường như đều xoay quanh việc phản ánh số phận người phụ nữ. Vì vậy, trong văn học giai đoạn này, hình tượng người phụ nữ hiện lên một cách khá đầy đủ và toàn diện trên nhiều bình diện. Về văn xuôi, các tác phẩm nổi tiếng viết về đề tài phụ nữ có 4 “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ (nửa đầu thế kỉ XVI), “Truyền kì tân phả” của Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748), “Kiến văn lục” của Vũ Trinh (1759 – 1828),… Truyện Nôm cũng có rất nhiều tác phẩm viết về đề tài này, nhưng tiêu biểu hơn cả là các truyện “Hoa Tiên” của Nguyễn Huy Tự (1743 – 1790), “Truyện Kiều” của Nguyễn Du (1765 – 1820),“Sơ kính tân trang” của Phạm Thái (1777 – 1813),… " Lục Vân Tiên" của Nguyễn Đình Chiểu ( 1822-1888)...Thơ ca viết về phụ nữ, nổi bật là tác phẩm “Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn ( dịch giả Đoàn Thị Điểm), “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều (1741 – 1798),thơ của Hồ Xuân Hương,… Nói tóm lại, từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX, trong các thể loại văn học, thơ ca cũng như văn xuôi tự sự, tác phẩm viết bằng chữ Hán cũng như viết bằng chữ Nôm,… dường như nở rộ đề tài viết về người phụ nữ và hình tượng người phụ nữ nổi bật lên với hai đặc điểm cơ bản: 1. Phụ nữ - hiện thân của cái đẹp. 2. Phụ nữ - hiện thân của số phận bi thương. 5 I. HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ - HIỆN THÂN CỦA CÁI ĐẸP Đất nước Việt Nam - đất nước của những câu hát ru ngọt ngào, đất nước của cánh cò trắng bay, đất nước của bàn tay mẹ tảo tần qua bao năm tháng… và từ trong cái nguồn mạch dạt dào ấy, người phụ nữ là đề tài chưa bao giờ vơi cạn trong nguồn cảm hứng của người nghệ sĩ, qua nhiều thời đại khác nhau. Thần thoại Hi Lạp kể rằng: “Thượng đế đã lấy vẻ đầy đặn của mặt trăng, đường uốn cong của loài dây leo, dáng run rẩy của các loài cỏ hoa, nét mềm mại của loài lau cói, màu rực rỡ của nhị hoa, điệu nhẹ nhàng của chiếc lá, cảm giác tinh vi của vòi voi, cái nhìn đăm chiêu của mắt hươu, cái xúm xít của đàn ong, ánh rực rỡ của mặt trời, nỗi xót xa của tầng mây, luồng biên động của cơn gió, tính nhút nhát của con hươu rừng, sắc lộng lẫy của con chim công, hình nhuần nhuyễn của con chim yểng, chất cứng rắn của ngọc kim cương, vị ngon ngọt của đường mật, khí lạnh lẽo của băng tuyết đức trung trinh của chim uyên ương đem mọi thứ ấy hỗn hợp lại, nặn thành người phụ nữ”. Có thể nói, người phụ nữ là biểu tượng của cái đẹp. Nhân vật phụ nữ, ở thể loại tự sự hay trữ tình trong văn học trung đại, thường đẹp cả người lẫn nết, ít thấy có hiện tượng “xấu người đẹp nết” như trong văn học dân gian. Chính vì thế, các nhân vật chính diện là những phụ nữ trong văn học từ thế kỉ XVI đến đầu thế kỉ XIX hầu hết có sự hài hoà giữa cái đẹp về hình thức với cái đẹp về tâm hồn, họ là hiện thân của cái đẹp: đẹp người và đẹp nết. 1. Cái đẹp hình thể Điều đặc biệt là: các cô gái khi đi vào văn học giai đoạn này đều là những giai nhân tuyệt thế. Hạnh Nguyên trong “Nhị độ mai” là một cô gái đẹp rực rỡ: “Người đâu trong ngọc trắng ngà, Mặt vành vạnh nguyệt, tóc rà rà mây”. Sắc đẹp của người cung nữ trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều đã đến mức siêu phàm: “Chìm đáy nước cá lừ đừ lặn, Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa. Hương tươi đắm nguyệt say hoa, Tây Thi mất vía Hằng Nga giật mình”. Chị em Thuý Vân và Thuý Kiều trong " Truyện Kiều" của Nguyễn Du thì rõ ràng là khuôn mẫu của sắc đẹp: “Vân xem trang trọng khác vời, Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang. Hoa cười, ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da. Kiều càng sắc sảo mặn mà, So bề tài sắc lại là phần hơn. Làn thu thuỷ, nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. 6 Hai tiểu thư cành vàng lá ngọc, thông minh xinh đẹp "mai cốt cách, tuyết tinh thần’. Tuy mỗi người một vẻ nhưng ai cũng vô cùng xinh đẹp, dáng vẻ thanh thoát, yêu kiều như nhành mai, còn tâm hồn lại trắng trong như băng tuyết, thanh cao, kiều diễm và quý phái…Với bút pháp nghệ thuật ước lệ, Nguyễn Du đã lấy những hình tượng đẹp của thiên nhiên để tôn lên vẻ đẹp tuyệt đỉnh của chị em Thúy Kiều. Vân có một vẻ đẹp cao sang, quý phái, trẻ trung: khuôn mặt tròn trịa, đầy đặn như mặt trăng, lông mày sắc nét, đậm như con ngài, miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo thoát ra từ hàm răng ngà ngọc, mái tóc đen óng nhẹ hơn mây, làn da trắng mịn màng hơn tuyết,... Vân đã đẹp, Kiều lại càng đẹp hơn. Một vẻ đẹp "sắc sảo" về trí tuệ và "mặn mà" về tâm hồn. Một vẻ đẹp " nghiêng nước nghiêng thành", một vẻ đẹp khiến hoa phải " ghen", liễu phải " hờn"... Hồ Xuân Hương còn muốn vĩnh hằng hoá sắc đẹp của người con gái trong bài thơ “Đề tranh tố nữ”: “Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình. Chị cũng xinh mà em cũng xinh. Đôi lứa như in tờ giấy trắng, Ngàn năm còn mãi cái xuân xanh”. Ngay cả những cô gái bình dân cũng mang vẻ đẹp thật quyến rũ.Trong tác phẩm " Bánh trôi nước" của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, hiện lên hình ảnh người con gái "vừa trắng lại vừa tròn", một người mang vẻ bề ngoài đầy đặn, tròn trịa. Đó là vẻ đẹp tự nhiên, dân dã, không chăm chút mà mộc mạc, tự nhiên nhưng không kém phần duyên dáng với làn da trắng mịn màng. Đấy chính là vẻ đẹp của người con gái lao động hay lam hay làm, đầy mạnh mẽ chốn thôn quê. Ta cũng bắt gặp người phụ nữ như thế xuất hiện trong "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ. Vũ Thị Thiết cũng giống như cô gái trong "Bánh trôi nước", là một người phụ nữ thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp, chăm chỉ siêng năng,… khiến Trương Sinh phải đem lòng thương mến mà bỏ ra trăm lạng vàng rước nàng về làm vợ. 2. Cái đẹp tài năng Sắc đẹp của nhân vật nữ trong văn học giai đoạn này thường gắn liền với một phần phẩm chất không thể thiếu được, đó là tài. Ở họ, sắc và tài tạo thành một cặp đặc điểm không tách rời nhau. Theo quan niệm của xã hội phong kiến, tài gồm bốn mặt sau đây: cầm, kì, thi, hoạ, nghĩa là: có tài đánh đàn, chơi cờ, làm thơ và vẽ. Có thể coi Thuý Kiều của Nguyễn Du là nhân vật tiêu biểu cho phẩm chất nói trên. Tiếng đàn của nàng làm cho Kim Trọng phải “ngơ ngẩn sầu”, làm cho Thúc Sinh “cũng tan nát lòng” và làm cho Hồ Tôn Hiến “nhăn mày, rơi châu”. Tài làm thơ của Kiều nhanh đến khó mà tưởng tượng nổi: - Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm. - Tay tiên gió táp mưa sa… Đã nhanh, lại hay! Thơ của Kiều có thể cảm thông được quỷ thần, khiến hồn ma Đạm Tiên phải hiện lên, khiến viên quan phủ “mặt sắt đen sì” phải rủ lòng thương, không những chỉ tha cho Kiều mà còn đứng ra làm lễ tác hợp cho nàng được lấy Thúc Sinh, và cho Hoạn Thư, một con người tai quái cũng phải thốt lên: “Rằng: Tài nên trọng, mà tình nên thương” 7 Hay chính ở nữ sĩ Hồ Xuân Hương được mệnh danh là " bà chúa thơ Nôm". Cuộc đời và thơ ca của bà là một hiện tượng khá đặc biệt được rất nhiều người đàm luận từ xưa đến nay. Tục truyền hồi Xuân Hương còn đi học; một hôm gặp phải trời mưa, đến sân nhà trường, đất trơn, cô nữ sinh trượt chân ngã oạch một ái, các bạn học thấy thế đều cười ầm lên. Nhưng Xuân Hương đã đứng ngay dậy, ung dung đọc hai câu thơ rằng: Giơ tay với thử trời cao thấp Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài. rồi bình thản đi vào. Mấy chàng trai thấy thế cũng phục tài. Lại có chuyện, một hôm Xuân Hương đi thăm chùa Trấn Quốc về, nàng đang lững thững trên bờ Hồ Tây, bỗng thấy có mấy thầy khóa bước rảo lên theo sát ở đằng sau rồi trêu ghẹo nàng, có người lại mang cả văn chương chữ nghĩa ra nữa, nàng đọc cho một bài thơ rằng: Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ? Lại đây cho chị dạy làm thơ. Có thể nói rằng, trong cái xã hội phong kiến “trọng nam khinh nữ”như vậy, Xuân Hương vẫn dám khẳng định tài năng, trí tuệ hơn người của mình. Hay trong bài "Ðề đền Sầm Nghi Ðống", tác giả đã thể hiện được sự tự ý thức về mình, thể hiện được tài năng của người phụ nữ: Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo, Kìa đền thái thú đứng cheo leo. Ví đây đổi phận làm trai được, Thì sự anh hùng há bấy nhiêu. Ði qua ngôi đền thờ tên tướng bại trận, nhà thơ phụ nữ này đã không chịu cất nón, cúi đầu chào kính cẩn, trái lại còn buông lời chê cười, mỉa mai: ghé mắt tức là nhìn liếc, nhìn bằng nửa con mắt. Ðặc biệt ở hai câu kết nhà thơ đã dám nói một điều táo bạo: Nếu được làm trai thì sự nghiệp anh hùng của ta sẽ không xoàng, không tồi tệ như sự anh hùng của nhà ngươi đâu. Qua đây, ta cũng hiểu thêm ít nhiều về người phụ nữ xưa, không chỉ đẹp về hình thể mà họ còn là những con người có đầy tài năng. 3. Cái đẹp tâm hồn Tuy vậy, ca ngợi tài và sắc của người phụ nữ không phải là mục đích của tác giả văn học thế kỉ XVI – thế kỉ XIX. Tài và sắc chỉ là một phương diện của cái đẹp và làm nền để bộc lộ bản chất của cái đẹp: đẹp nết. Mỗi một thể loại văn học, mỗi một tác giả văn học lại có cách biểu đạt riêng về cái đẹp của người phụ nữ. Khi nói đến đẹp nết là ta đã đề cập tới phạm trù đạo đức. Trong văn học dân gian người ta cho rằng: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người”. Nhưng, như trên đã nói, trong văn học trung đại không có sự đối lập giữa hình thức (xấu người) với nội dung (đẹp nết). Hình thức và nội dung thường có sự hoà quyện sóng đôi. Vì thế, ở các truyện truyền kì cũng như truyện Nôm, trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhân vật phụ nữ luôn 8 toát lên một phẩm chất cao đẹp: hiếu thảo, thủy chung, giàu đức hi sinh và có tấm lòng vị tha nhân hậu. Nàng Vũ Nương trong " Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ là người phụ nữ thuỷ chung, son sắt trong tình nghĩa vợ chồng: Trong cuộc sống vợ chồng, biết Trương Sinh vốn có tính đa nghi, nên nàng luôn “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Nàng luôn giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui. Nàng là một người vợ hiền thục, khôn khéo, nết na đúng mực! Hạnh phúc êm ấm tưởng bền lâu, không ngờ đất nước xảy ra binh biến, Trương Sinh phải đầu quân ra trận ở biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa, đằm thắm, thiết tha: “ Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật bình dị, lời lẽ dịu dàng ấy, chứng tỏ nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi công danh phù phiếm. Nàng cảm thông trước những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng.”. Qua lời nói dịu dàng, nàng cũng bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Đúng là lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Trái tim ấy giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao! Khi xa chồng, Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức. Nỗi nhớ thương dài theo năm tháng “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cô đơn vò võ. Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng. Khi hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ: Vũ Nương ra sức cứu vãn, hàn gắn. Khi người chồng trút cơn ghen bóng gió lên đầu, Vũ Nương đã ra sức thanh minh, phân trần. Nàng đã viện đến cả thân phận và tấm lòng của mình để thuyết phục chồng “Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu.....cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót.....” Những lời nói nhún nhường tha thiết đó cho thấy thái độ trân trọng chồng, trân trọng gia đình nhà chồng, niềm tha thiết gìn giữ gia đình nhất mực của Vũ Nương. Rồi những năm tháng sống ở chốn làng mây cung nước sung sướng nàng vẫn không nguôi nỗi thương nhớ chồng con. Vừa gặp lại Phan lang, nghe Lang kể về tình cảnh gia đình nàng đã ứa nước mắt xót thương. Mặc dù đã nặng lời thề sống chết với Linh Phi nhưng nàng vẫn tìm cách trở về với chồng con trong giây lát để nói lời đa tạ tấm lòng chồng. Rõ ràng trong trái tim người phụ nữ ấy, không vẩn chút thù hận, chỉ có sự yêu thương và lòng vị tha. Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo với mẹ chồng, một người mẹ hiền đầy tình yêu thương con. Trong ba năm chồng đi chiến trận, một mình nàng vừa làm con vừa làm cha vừa làm mẹ để chăm sóc phụng dưỡng mẹ chồng, nuôi dạy con thơ. Với mẹ chồng, nàng là một cô con dâu hiếu thảo. Chồng xa nhà, nàng đã thay chồng phụng dưỡng mẹ chu đáo. Khi bà 9 ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần phật và lấy những lời khôn khéo để khuyên răn để bà vơi bớt nỗi nhớ thương con. Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ đẻ của mình. Cái tình ấy quả có thể cảm thấu cả trời đất cho nên trước lúc chết người mẹ già ấy đã trăng trối những lời yêu thương, động viên, trân trọng con dâu “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ". Với con thơ nàng hết sức yêu thương, chăm chút. Sau khi xa chồng đầy tuần, nàng sinh bé Đản, một mình gánh vác cả giang sơn nhà chồng nhưng chưa khi nào nàng chểnh mảng việc con cái. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha Đản cũng xuất phát từ tấm lòng của người mẹ : để con trai mình bớt đi cảm giác thiếu vắng tình cảm của người cha. Có thể nói, Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật một thái độ yêu mến, trân trọng qua từng trang truyện, từ đó khắc họa thành công hình tượng người phụ nữ với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp. Trong " Truyện Kiều" của Nguyễn Du, trước tai biến bất ngờ của gia đình, Thuý Kiều đã hi sinh thân mình, hi sinh tình yêu của mình: “Rẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha”. Đến khi một mình cô đơn giữa mênh mang trời nước của Lầu Ngưng Bích, Kiều cũng lại quên đi cái thân phận của mình để nghĩ về Kim Trọng, nghĩ về cha mẹ: Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, Tin sương luống những rày trông mai chờ. Bên trời góc bể bơ vơ, Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Xót người tựa cửa hôm mai, Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm. Đầu tiên nàng nhớ tới chàng Kim, nhớ tới lời thề đôi lứa. Nàng tưởng tượng Kim Trọng đang ngày đêm đau đáu chờ tin nàng mà uổng công vô ích. Nàng luôn cảm giác mình mang tội phụ tình. Tiếp đó Kiều nghĩ đến cha mẹ. Nghĩ đến song thân nàng thương cha mẹ khi sáng, khi chiều tựa cửa ngóng tin con, trông mong sự đỡ đần. Nàng xót xa cha mẹ lúc già yếu mà nàng không được tự tay chăm sóc và hiện thời ai người trông nom. Nàng đau đớn xót xa nghĩ mình là con bất hiếu, phụ công sinh thành nuôi dạy của mẹ cha. Khi rơi vào lầu xanh của Tú Bà, Kiều phải sống một cuộc đời nhơ nhớp. Có lần nàng đã tự tử để mong thoát khỏi kiếp sống đoạ đày đó. Nhưng khi Thúc Sinh ngỏ lời cầu hôn, Kiều không coi đấy là cơ may phải chớp lấy. Điều đầu tiên Kiều nghĩ đến là hạnh phúc của Hoạn Thư, người vợ hiện tại của Thúc Sinh. Nếu như nàng lấy chàng Thúc, một hiện thực không thể tránh khỏi cho Hoạn Thư là: “Thêm người, người cũng bớt lòng riêng tây”. Rõ ràng, người bị thiệt thòi trước hết là Hoạn Thư. Tình cảm vợ chồng của Hoạn Thư sẽ bị chia sẻ. Kiều không đang tâm. Rồi khi được quan phủ và Thúc ông tác thành cho lấy Thúc Sinh, có thể nói, đó là lúc Kiều được sống trong hạnh phúc ấm êm. Nhưng nàng không giành 10 giật hạnh phúc cho riêng mình. Nàng nghĩ đến sự cô đơn, thiệt thòi của Hoạn Thư, do đó nàng chủ động nài nỉ chàng Thúc trở về thăm vợ: “Xin chàng hãy trở lại nhà. Trước người đẹp ý, sau ta biết tình”. Làm việc này, Kiều hoàn toàn dự cảm được điều gì đang đợi mình sau chuyến thăm vợ của chàng Thúc. Nàng nói: “Dù khi sóng gió bất bình Lớn ra phận lớn, tôi đành phận tôi”. Biết hi sinh mình cho người là một trong những đức tính của Kiều nói riêng và của các nhân vật phụ nữ trong văn học Việt Nam thế kỉ XVI - XIX nói chung. Cùng với lòng vị tha, tấm tình thuỷ chung son sắt cũng là một trong những phẩm chất nổi bật của người phụ nữ. Kiều ăn ở với mọi người trước sau như bát nước đầy. Bà quản gia, vãi Giác Duyên, Thúc Sinh… là những người đã từng cưu mang, cứu vớt Kiều. Sau này, khi đã trở thành vợ của người anh hùng cái thế Từ Hải, Kiều vẫn nhớ tới ơn sâu nghĩa nặng của họ. Nàng đền ơn chàng Thúc thật là trọng hậu: “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân, Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là”. Gặp lại Bà quản gia và vãi Giác Duyên, Kiều nhắc tới công ơn cứu giúp của họ bằng lời nói vừa chân thật, vừa cảm động: “Nhớ khi lỡ bước sảy vời, Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương. Nghìn vàng gọi chút lễ thường, Mà lòng Phiếu mẫu mấy vàng cho cân!”. Ngay ở nhân vật Thúy Vân- người em vườn Thúy ( theo tác giả Nguyễn Thị Sâm trong " Bình giảng Truyện Kiều- NXB văn học) đã khẳng định một vẻ đẹp đáng nể trọng không chỉ về hình thể mà cả vẻ đẹp tâm hồn. Điều mà nhiều chúng ta hay quên khi mải ca tụng Thúy Kiều! Vân đẹp, một vẻ đẹp truyền thống: đoan trang, thùy mị và phúc hậu: Vân xem trang trọng khác vời, Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc, thuyết nhường màu da. Một vẻ đẹp nguyên sơ mà vĩnh cửu! Đẹp như chiếc áo tứ thân miền Bắc, chiếc áo cụt miền Trung hay chiếc áo bà ba miền " mưa nắng hai mùa". Không chỉ đẹp ở nhan sắc, Thúy Vân còn có một tâm hồn cao cả. Giống như tất cả mọi người con gái, Vân có tình cảm riêng tư cá nhân chứ, nhưng khi vì gia đình, vì để giữ vẹn ân toàn nghĩa của chị với chàng Kim nàng chấp nhận sống bên cạnh Kim Trọng như một cái bóng bên người chồng hờ ( Kim Trọng có phút giây nào nghĩ đến Thúy Vân đâu?) mà nàng chưa bao giờ than phiền gì . Rồi đến phần tái hợp Kim- Kiều, bao tầm mắt hướng về cô em gái. Không phụ lòng mong mỏi, đoán trước ý muốn của người thân: 11 Đứng lên Vân mới giãi bày... Rằng trong tác hợp cơ trời, Hai bên gặp gỡ một lời kết giao. Gặp cơn binh địa ba đào, Vậy đem duyên chị buộc vào cho em. Cũng là phận cải duyên kim, Cũng là máu chảy ruột mềm có sao? Những là nay ước mai ao, Mười lăm năm ấy biết bao là tình. Bây giờ gương vỡ lại lành, Khôn thiêng lừa lọc đã đành có nơi. Còn duyên nay lại còn người, Còn vằng trăng bạc, còn lời nguyền xưa. Quả mai ba bảy đương vừa, Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì. Thật chí tình! Thúy Vân chỉ nghĩ đến kẻ mười lăm năm lưu lạc truân chuyên, nghĩ đến tình ai chung thủy. Nàng đâu có chút nào nghĩ đến thân phận của mình. Nàng trở về kiếp sống âm thầm, khi bổn phận đã tròn. Mặc lời bình phẩm, mặc thế gian. Vẻ đẹp ấy không phải cao cả, đáng kính lắm sao! Còn Hồ Xuân Hương đã hình tượng hoá phẩm chất của người phụ nữ trong bài thơ thất ngôn tứ tuyệt “Bánh trôi nước” theo kiểu Hồ Xuân Hương: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn, Bảy nổi ba chìm với nước non. Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn, Mà em vẫn giữ tấm lòng son”. Dù cuộc đời có bị vùi dập “bảy nổi ba chìm” thì “tấm lòng son” của người phụ nữ vẫn được giữ gìn trọn vẹn. Đó là nét nổi bật nhất về hình tượng người phụ nữ trong văn học Việt Nam thế kỉ XVI – thế kỉ XIX. Phẩm chất tốt đẹp của nhân vật Kiều Nguyệt Nga trong " Truyện Lục Vân Tiên" của Nguyễn Đình Chiểu được thế hiện qua lời lẽ chân thành mà nàng giãi bày với Lục Vân Tiên khi được chàng cứu. Đó là lời lẽ của một tiểu thư khuê các, đoan trang và có học thức: Thưa rằng: “Tôi Kiều Nguyệt Nga, Con nầy tì tất tên là Kim Liên. Quê nhà ở quận Tây Xuyên, Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê. Sai quân đem bức thơ về, Rước tôi qua đó định bề nghi gia. Làm con dâu dám cãi cha,. Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành. Chẳng qua là sự bất bình, Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi. 12 Lâm nguy chẳng gặp giải nguy, Tiết trăm năm củng bỏ đi một hồi. Trước xe quân tử tạm ngồi, Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa. Chút tôi liễu yếu đào thơ Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần. Hà Khê qua đó cũng gần, Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng. Gặp đây đương lúc giữa đàng, Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không. Gẫm câu báo đức thù công, Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi". Cách xưng hô của nàng vừa trân trọng, vừa khiêm nhường; nói năng dịu dàng, mực thước; trình bày rõ ràng, khúc chiết, vừa đáp ứng đầy đủ những điều thăm hỏi ân cần của Lục Vân Tiên, vừa thể hiện niềm cảm kích chân thành đối với ân nhân cứu mạng. Nguyệt Nga là người chịu ơn. Lục Vân Tiên không chỉ cứu mạng, mà còn cứu cả cuộc đời trong trắng của nàng. Mà đối với người con gái, điều đó còn quý hơn tính mạng: Lâm nguy chẳng gặp giải nguy, Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi. Nàng băn khoăn tìm cách trả ơn chàng, dù hiểu rằng đền đáp bao nhiêu cũng là không đủ: Gẫm câu báo đức thù công, Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi. Bởi thế, nàng đã tự nguyện gắn bó cuộc đời với chàng trai khảng khái, hào hiệp và sau này dám liều mình quyên sinh để giữ trọn ân nghĩa thuỷ chung. Nhân vật Kiều Nguyệt Nga đã chinh phục được tình cảm yêu mến của nhân dân, những con người luôn đặt ân nghĩa lên hàng đầu, coi ân nghĩa là gốc rễ của đạo đức. II. HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ - HIỆN THÂN CỦA NHỮNG SỐ PHẬN BI THƯƠNG Những người phụ nữ đẹp là thế, vậy mà đáng tiếc thay họ lại sống trong một xả hội phong kiến thối nát với bộ máy quan lại mục ruỗng, chế độ trọng nam khinh nữ vùi dập số phận họ. Càng xinh đẹp họ lại càng đau khổ, lại càng phải chịu nhiều sự chèn ép, bất công. Như một quy luật khắc nghiệt của thời bấy giờ "hồng nhan bạc phận". 1. Trước hết, họ là nạn nhân của những hủ tục, lễ giáo phong kiến khắc nghiệt a, Chế độ đa thê Dưới chế độ phong kiến, mọi thế lực xã hội, kể cả gia đình, đều có thể chà đạp lên thân phận người phụ nữ. Đứng đầu các thế lực xã hội thời bấy giờ là vua chúa. Để phục vụ cho việc ăn chơi truỵ lạc, bọn chúng đã kén hàng trăm cô gái trẻ trung, xinh đẹp vào cung làm phi tần. Chế độ cung tần dã man đã làm cho tuổi xuân và sắc đẹp của các cô gái bị chôn vùi trong cung cấm. “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều là tiếng oán thán đến rớm máu cho những số phận đau 13 thương đó. Khi đã vào cung, ngoại trừ một vài người có cái may mắn được vua chúa sùng ái, còn hầu hết các cung nữ đều mau chóng bị ruồng bỏ, lãng quên. Họ chỉ còn biết âm thầm thở than, oán trách: “Hoa này bướm nỡ thờ ơ Để gầy bông thắm, để xơ nhị vàng”. Dân gian thường nói: “Vua thì nhiều vợ nhất đời Ba trăm mĩ nữ, sáu mươi cung tần”. Bởi quá nhiều cung tần mĩ nữ như vậy, người cung phi không thể tìm được cho mình chỗ đứng trong cái “gia đình” một chồng mà có tới vài ba trăm vợ ấy. Họ buộc lòng phải thốt lên: “Ngán thay cái én ba nghìn Một cây cù mộc biết chen cành nào”. Sống âm thầm cô đơn, để cho tuổi xuân tàn tạ và trở thành những người không chồng không con “Bỗng không mà hoá ra người vị vong” (Người vị vong: người có chồng bị chết) rồi chết già trong cung cấm, đó là số phận không thể tránh khỏi của người cung nữ. Nữ sĩ Xuân Hương đã nói một cách trần trụi nhất về nỗi khổ, số phận của những người phụ nữ sống trong cảnh " chồng chung": Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng, Chém cha cái kiếp lấy chồng chung. Năm thì mười họa chăng hay chớ, Một tháng đôi lần có cũng không. Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm, Cầm bằng làm mướn, mướn không công. ............... (Làm lẽ) Ở xã hội xưa, trai năm thê bảy thiếp là thường, còn người phụ nữ chỉ biết chấp nhận. Họ đâu có quyền làm chủ đời mình. b, Chế độ nam quyền Đối với người phụ nữ, gia đình là tất cả, vì gia đình là tổ ấm, là chốn nương thân, là nơi có thể tìm thấy niềm vui, sự an ủi. Nhưng biết bao kiếp người phụ nữ đã gặp cảnh gia đình ngang trái, nhất là khi lấy phải người chồng chẳng ra gì. Bài thơ “Khóc tổng Cóc” của Hồ Xuân Hương như tiếng thở dài của người vợ khi đã trút được gánh nặng về ông chồng: “Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi! Thiếp bén duyên chàng có thế thôi. Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé, Ngàn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi!” Có lẽ tiêu biểu hơn cả cho những số phận cay đắng do người chồng gây ra là nhân vật Vũ Thị Thiết trong truyện " Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Đớn đau thay số phận của nàng Vũ Nương! Chỉ vì muốn con vui, muốn bớt buồn, giải khuây khi sống cô đơn vò võ nuôi con nên nàng đã lấy cái bóng của mình, nói với con đó là cha. Nhưng nàng đâu thể ngờ, 14 chính điều này đã gây ra cho nàng bao nỗi bất hạnh, tủi nhục, bị chồng nghi oan mà phải trầm mình xuống sông tự vẫn! Với nàng, để minh oan, không còn cách nào khác nữa. Nàng đã cùng đường mất rồi! Giá như cái xã hội này có một chút công bằng, để cho lời nói của người phụ nữ có giá trị thì chắc chuyện đáng tiếc này đã không xảy ra; nàng đã không phải chịu uất ức, không phải lấy nước sông để rửa trôi nỗi nhục mà chồng nàng áp đặt. c, Chế độ đồng tiền Còn nhiều và rất nhiều những kiếp người như Vũ Nương, như Xuân Hương. Trong xã hội phong kiến số phận người phụ nữ luôn bị chà đạp bởi rất nhiều thế lực khác nữa. Một xã hội nhốn nháo bởi đồng tiền, một xã hội mà cán cân công lí nghiêng theo ý muốn của những kẻ có quyền, có tiền...Trong xã hội ấy, người phụ nữ luôn phải chịu nhiều bất công ngang trái nhất. Nỗi bất hạnh của Vũ Nương trong " Chuyện người con gái Nam Xương" có nguyên nhân sâu xa từ đồng tiền mà ra. Cuộc hôn nhân của Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đẳng, nó không xuất phát từ tình yêu mà giống như một cuộc mua bán. Trương Sinh vì mến dung hạnh Vũ Nương mà " xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về". Sự cách bức giàu – nghèo đã cộng thêm một cái thế cho Trương Sinh, bên cạnh cái thế của người chồng, người đàn ông trong chế độ gia trưởng phong kiến. Đứng trên cái thế của kẻ có quyền, có tiền nên Trương Sinh mới bất chấp tất cả mọi lời phân trần của vợ, mới không mảy may để ý đến những lời bênh vực biện bạch của làng xóm để rồi Vũ Nương mới phải tìm đến cái chết để chứng minh sự chung thủy. Song có lẽ, điển hình cho nhân phẩm và tài sắc bị vùi dập vẫn là nhân vật Thuý Kiều trong " Truyện Kiều" của Nguyễn Du. Xã hội mà Thúy Kiều sống là cái xã hội: Quan lại vì tiền mà bất chấp công lý, sai nha vì tiền mà tra tấn cha con Vương ông, Tú Bà, Mã Giám Sinh vì tiền mà làm nghề buôn thịt bán người, Sở Khanh, Khuyển Ưng vì tiền mà lao vào tội ác. Cả xã hội chạy theo đồng tiền.(theo Hoài Thanh). Rõ ràng ở cái xã hội mà: "Trong tay đã sẵn đồng tiền/ Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì" thì nhân phẩm của phụ nữ bị coi rẻ, bị chà đạp phũ phàng. Ma lực đồng tiền khiến những kẻ xấu xa sẵn sàng nhúng tay vào tội ác, gây ra bao đau khổ cho người dân lương thiện. Trong xã hội ấy, đầu mối của mọi cái xấu xa, tàn bạo là do bọn quan lại phong kiến gây ra. Cái xấu của chúng là bản chất. Từ tên bán tơ thấp hèn nhất trong xã hội đã vì đồng tiền mà: “Một ngày lạ thói sai nha, Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.” Rồi sau đó là hàng loạt các tên quan khác xuất hiện có quyền, vì tiền mà sẵn sàng trà đạp lên nhân phẩm con người. Tên quan thứ nhất tiếp tay cho bọn sai nha “cướp ngày”, tra khảo tàn khốc Vương Ông, Vương Quan. Chính tên quan này đã đẩy Thuý Kiều, một cô gái trong trắng lương thiện vào nhà chứa, để “Có ba trăm lạng việc này mới xong”. Thuý Kiều phải bán mình lấy tiền chuộc cha, chuộc em. Tên quan thứ hai “mặt sắt đen sì”, đại diện luật pháp sử kiện vụ Thúc ông với Thuý Kiều “Một là cứ phép gia hình/Hai là lại cứ lầu xanh phó về”. Ở đây rõ ràng có tính chất trả thù, lăng nhục, chứ không có tính chất giáo huấn, sửa sai. Viên quan thứ ba là trọng thần Tổng đốc Hồ Tôn Hiến, tên quan to nhất, cũng là tên quan ti tiện, bỉ ổi nhất. Hắn đã đẩy Thuý Kiều đến cảnh phải nhảy xuống sông tự vẫn. 15 Đương đầu với những thế lực tàn bạo ấy, thân phận của nàng Kiều quả là đau xót. Tài sắc của Kiều, như Nguyễn Du đã nói: “Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai”. Hơn nữa, Kiều lại có lòng vị tha, có trái tim đôn hậu. Vậy mà, đời nàng là một chuỗi dài những bi kịch “hết họa nọ đến nạn kia”. Mới 15 tuổi đầu, Kiều đã phải bán mình chỉ vì thằng bán tơ vu oan giá họa cho gia đình. Bán mình đã là điều đau khổ. Nhưng cái chính là, tài sắc như Kiều mà phải đem thân bán cho tên ô trọc Mã Giám Sinh tuổi “ngoại tứ tuần”. Nỗi đau đớn bất ngờ ấy khiến Kiều không thốt lên được một lời nào, nàng chỉ còn biết khóc: “Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”. Từ đây, nước mắt của nàng sẽ nhỏ theo từng bước chân nàng trong suốt 15 năm trời lưu lạc. Khi mới bán mình, Kiều chưa hình dung được thân phận mình sau này sẽ ra sao. Nàng chỉ biết rằng: “Từ đây góc bể chân trời Nắng mưa thui thủi quê người một thân”. Oái oăm thay, con người tài sắc “đáng giá nghìn vàng” như Kiều, sau khi qua tay Mã Giám Sinh, lại rơi vào lầu xanh bẩn thỉu của Tú Bà. Kiều quằn quại khi phải sống cuộc đời nhơ nhớp của gái lầu xanh: “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, Giật mình, mình lại thương mình xót xa. Khi sao phong gấm rủ là, Giờ sao tan tác như hoa giữa đường. Mặt sao dày gió dạn sương, Thân sao bướm chán ong ong chường bấy thân!”. Được Thúc Sinh cứu khỏi lầu xanh của Tú Bà, Thuý Kiều lại bị Bạc Bà, Bạc Hạnh đẩy vào lầu xanh lần thứ hai. Tài sắc lẽ ra phải được nâng niu trân trọng. Song, dưới chế độ phong kiến, ngược lại, tài sắc trở thành nguyên nhân để nhân phẩm bị chà đạp. Thoạt tiên, tài sắc của Thuý Kiều bị biến thành món hàng trong tay những “phường bán thịt”, “quân buôn người”: “Đắn đo cân sắc cân tài, Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ”. Sau này, Hoạn Thư đem tài đàn của Kiều ra để hành hạ nàng, bắt nàng hầu đàn Thúc Sinh. Và cuối cùng, Hồ Tôn Hiến cũng dùng tiếng đàn của Kiều để nhục mạ nàng. Như chúng ta đã biết, trong đời Kiều, Từ Hải là người duy nhất giúp nàng ngẩng cao đầu “cả cười” và “ân oán rạch ròi”. Đối với Kiều, Từ Hải là ân nhân (cứu Kiều ra khỏi lầu xanh, giúp nàng đền ơn báo oán, đưa Kiều từ thân phận gái lầu xanh lên bậc mệnh phụ phu nhân…), là người tri kỉ, là chồng,… Từ Hải là tất cả cuộc đời Kiều. Vậy mà, vì mắc lừa Hồ Tôn Hiến – quan trọng thần, đại diện triều đình – Kiều đã khuyên Từ Hải ra hàng để dẫn đến cái chết của Từ. Đời Kiều rất nhiều nỗi đớn đau, nhưng nỗi đớn đau lớn nhất vẫn là việc Từ Hải chết. Kiều đã khóc, khóc suốt 15 năm, nhưng chưa bao giờ nàng khóc nhiều như khi Từ Hải chết. Nàng khóc cho chồng, khóc cho mình, khóc cho đời, khóc cho người tri kỉ mà mình vô tình làm hại. Nỗi đau đớn đó làm cho Kiều như bị tan ra thành nước mắt: 16 “Dòng thu như giội cơn sầu”. Đang trong cơn tuyệt vọng như vậy, Kiều lại phải dùng tài đàn của mình để mừng công Hồ Tôn Hiến, kẻ vừa giết Từ Hải. Đó là là sự sỉ nhục lớn nhất trong đời Kiều. Tiếng đàn mà Hoạn Thư bắt Kiều hầu rượu Thúc Sinh đã não nùng: “Bốn dây như khóc như than” Tiếng đàn hầu rượu Hồ Tôn Hiến còn não nùng hơn! Đó không chỉ là tiếng khóc, tiếng than, mà là tiếng máu bật ra từ trái tim đau khổ: “Một cung gió thảm mưa sầu, Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!’. Sự chà đạp nhân phẩm đã lên đến cùng cực. Kiều không còn lí do gì để sống. Nàng phải nhảy xuống sông Tiền Đường, kết thúc một kiếp tài hoa bị đoạ đày. 2. Họ là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa Nhìn lại lịch sử giai đoạn này ta thấy: Đến đầu thế kỷ XVI nhà Lê suy yếu dần , phong trào đấu tranh của nông dân phát triển mạnh . Sự suy thoái của nhà nước phong kiến tập quyền dẫn đến mâu thuẫn xã hội sâu sắc và sự căm phẫn của các tầng lớp nhân dân, làm bùng nổ các cuộc khởi nghĩa. Và các cuộc chiến tranh phong kiến diễn ra liên miên là đặc điểm nổi bật. Phục vụ cho những cuộc chiến tranh đó, biết bao người dân đã một đi không trở lại; biết bao gia đình phải li tán... Và đây cũng là một nguyên nhân đem đến nỗi bất hạnh cho người phụ nữ. Nỗi bất hạnh của Vũ Nương trong " Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ, nguyên nhân sâu xa cũng do chiến tranh mà nên. Chiến tranh khiến Trương Sinh phải đi lính bỏ lại Vũ Nương một mình nuôi con thơ, phụng dưỡng mẹ già; Chiến tranh khiến cho cái gia đình nhỏ nhưng " không thất hòa" ấy li tán để ngày trở về người chồng nghi oan cho vợ thất tiết, vợ phải gieo mình xuống sông để chứng minh sự trong sạch. Trong Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn ( dịch giả Đoàn Thị Điểm), mặc dù tất cả những địa danh, địa trận, những chốn hẹn hò, những tên thành, núi, sông và ngay cả tên các vị danh tướng… nhất nhất đều thuộc nước Trung-hoa, để phác họa nên khung cảnh chiến tranh xảy ra tại Bắc quốc. Nhưng rõ ràng đây chỉ là một cuộc chiến tranh tưởng tượng. Cuộc chiến tranh ở đây vì vậy chỉ có tính tượng trưng. “Chính tính cách tượng trưng này đã giúp cho sự thác ngụ của tác giả”. (Dẫn lời giáo sư Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, q.II, tr.164). Ta có thể hình dung cuộc chiến tranh trong Chinh phụ ngâm khúc là nói về cuộc binh biến kéo dài ở nước ta, trong giai đoạn xã hội rối loạn, giặc giã triền miên vào thời các chúa Trịnh Giang và Trịnh Doanh, khoảng giữa thế kỉ XVIII. Và cuộc chiến tranh ấy cũng là một trong những tai hoạ giáng xuống đầu người phụ nữ. “Chinh phụ ngâm khúc” chính là tiếng kêu khắc khoải của người vợ trẻ có chồng bị cuốn vào cuộc chiến tranh phi nghĩa. Người chồng ra trận đối mặt với cái chết, vợ ở nhà chỉ còn biết ngóng theo. Nhưng giữa đôi vợ chồng trẻ ấy là một khoảng cách vô cùng: Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu Ngàn dâu xanh ngắt một màu 17 Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai? Xa chồng, người vợ ở nhà thì mòn mỏi chờ mong, lo âu phấp phỏng: lo cho chồng nơi chiến địa, lo cho tuổi xuân của mình lặng lẽ trôi qua: “Thiếp rầu thiếp, lại rầu chàng chẳng quên”. Nỗi cô đơn gặm nhấm dần tuổi trẻ, người chinh phụ không khỏi lo lắng cho sự tàn tạ của mình: “Gái tơ mấy chốc xảy ra nạ dòng”. Nàng khao khát được gặp lại chồng dù chỉ một lần thôi, song chiến tranh đẩy họ xa nhau, mỗi người một phương biền biệt: “Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây”. Sầu chia li giày vò, người chinh phụ chỉ còn biết tìm chút hạnh phúc trong mộng mị: “Duy còn hồn mộng được gần, Đêm đêm thường tới giang tân tìm người,…”. Nhưng mộng rồi phải tỉnh, và khi tỉnh dậy càng thấy buồn khổ hơn: “Giận thân thiếp lại không bằng mộng Được gần chàng bến Lũng thành Quan, Khi mơ những tiếc khi tàn Tỉnh trong giấc mộng muôn vàn cũng không”. Nói tóm lại, ngày nay đọc lại văn học trung đại Việt Nam, ta thấy hình tượng người phụ nữ nổi bật lên hai nét lớn: phụ nữ hiện thân của cái đẹp và phụ nữ hiện thân của những số phận bi thương. Đấy là một trong những thành công lớn của các tác gia văn học Việt Nam thế kỉ XVI - thế kỉ XIX. Nó đã góp phần vào trào lưu nhân đạo chủ nghĩa, góp phần vào tiếng nói đòi giải phóng con người, nhất là giải phóng phụ nữ. Khi xây dựng hình tượng các nhân vật phụ nữ này, ở mỗi tác phẩm văn học trung đại ta đều cảm nhận được thái độ cảm thông, trân trọng và ngợi ca của các nhà thơ nhà văn. Cái tâm, cái tình của các tác giả văn học trung đại mang đậm giá trị nhân đạo cao cả. Nói rộng ra, nó đều xuất phát từ tình yêu thương con người. Yêu thương nên đồng cảm với nỗi khổ của họ, yêu thương nên trân trọng ngợi ca những vẻ đẹp, những khát khao của họ, và yêu thương nên cất lên tiếng nói đấu tranh bảo vệ phụ nữ. Các tác giả đã thể hiện tấm lòng yêu thương, đồng cảm, xót xa cho những số phận người phụ nữ tài sắc mà bất hạnh, gặp nhiều bi kịch trong cuộc đời. Lên án, tố cáo xã hội phong kiến bất công, tàn bạo đã tước đi quyền sống, chà đạp lên con người. Khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp, phẩm chất cao quý của người phụ nữ, dù cuộc đời của họ truân chuyên, nhục nhằn. Trân trọng, đề cao những khát vọng nhân văn của người phụ nữ: khát vọng về tình yêu, hạnh phúc, về một mái ấm gia đình bình dị, sum vầy. Các nhà thơ nhà văn đều đã khẳng định nguyện vọng được sống bình thường của con người là điều quan trọng và chế độ xã hội nào quan tâm làm cho con người đạt được nguyện vọng ấm no, hạnh phúc thì chế độ ấy mới có lí do tồn tại. III. MỘT SỐ BÀI TẬP VẬN DỤNG Đề bài 1 Cảm nhận của em về hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua các tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ và “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. 18 Dàn ý chi tiết: I – Mở bài - Giới thiệu được vấn đề cần nghị luận ( Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua hai tác phẩm). II – Thân bài * Giới thiệu những nét chung về nội dung của các tác phẩm văn học viết về người phụ nữ trong xã hội phong kiến: đó là những người phụ nữ có tài, có sắc hoặc có vẻ đẹp tâm hồn nhưng lại phải sống cuộc đời bất hạnh, khổ đau, gặp nhiều bi kịch -> Khi viết về họ, các tác giả thường thể hiện tấm lòng nhân đạo của mình. * Phân tích cụ thể: 1. Hình tượng người phụ nữ Việt Nam là hiện thân của cái đẹp a. Vẻ đẹp hình thức: - Vũ Nương: vẻ đẹp dịu dàng, thuần hậu ( “ Thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”). - Thúy Kiều: Kiều đẹp "sắc sảo, mặn mà”. ( dẫn chứng trong bài “Chị em Thúy Kiều" ). b. Vẻ đẹp tài năng, phẩm chất: - Vũ Nương: tính tình thùy mị nết na, yêu thương và chung thủy với chồng, hiếu thảo với mẹ chồng, thương con, hết lòng lo cho hạnh phúc gia đình…( Dẫn chứng ) - Thúy Kiều: + Không chỉ đẹp, Kiều còn là người phụ nữ toàn tài. Cầm, kỳ, thi, họa - tài nào nàng cũng giỏi nhưng nổi trội nhất vẫn là tài đàn. Đặc tả cái tài của Kiều cũng là để ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Bản đàn bạc mệnh mà nàng sáng tác chính là tiếng lòng của trái tim đa sầu đa cảm. + Hiếu thảo với cha mẹ, giàu đức hi sinh, có lòng vị tha, có trái tim đôn hậu, có ý thức sâu sắc về nhân phẩm của mình… ( Dẫn chứng qua các đoạn trích đã học và đọc thêm). 2. Hình tượng người phụ nữ Việt Nam là hiện thân của những số phận bi thương * Qua hai tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” và “Truyện Kiều”, ta thấy người phụ nữ trong xã hội xưa là nạn nhân của xã hội phong kiến có nhiều bất công dẫn đến những đau khổ, thiệt thòi. - Người phụ nữ là nạn nhân của chế độ nam quyền: + Nàng Vũ Nương có một cuộc hôn nhân không bình đẳng (Trương Sinh xin mẹ trăm lạng vàng cưới Vũ Nương về làm vợ. Sự cách bức giàu nghèo khiến Vũ Nương luôn mặc cảm” “thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu”; và sau này, cũng là cái thế để Trương Sinh đối xử với vợ một cách vũ phu, thô bạo, gia trưởng). + Chỉ vì hiểu lầm mà Trương Sinh độc đoán, hồ đồ mắng nhiếc Vũ Nương, không cho nàng cơ hội thanh minh, khiến nàng phải tìm đến cái chết để minh oan. + Vũ Nương chết oan ức nhưng Trương Sinh không ân hận day dứt, không hề bị xã hội lên án. Trương Sinh coi như việc đã qua rồi. Như vậy, chuyện danh dự, sinh mệnh của người phụ nữ bị tùy tiện định đoạt bởi người đàn ông, không có hành lang đạo lí, dư luận xã hội bảo vệ, che chở. - Người phụ nữ còn là nạn nhân của chiến tranh, của xã hội đồng tiền đen bạc. + Vũ Nương lấy Trương Sinh, chàng ra lính để lại mẹ già và đứa con còn chưa ra đời. Nuôi dưỡng mẹ già, chăm sóc con, nàng tận tụy vì gia đình nhưng chiến tranh làm xa cách, tạo điều kiện cho sự hiểu lầm trở thành nguyên nhân gây bất hạnh. + Nàng Kiều lại là nạn nhân của xã hội đồng tiền. Xã hội ấy vận động trên cơ chế: 19 “Một ngày lạ thói sai nha Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”. Để có tiền cứu cha và em khỏi bị đánh đập, Kiều đã phải bán mình cho Mã Giám Sinh - một tên buôn thịt bán người, để trở thành món hàng cho hắn cân đong, đo đếm, cò kè… Cũng vì đồng tiền, Túi Bà và Mã Giám Sinh đẩy Kiều vào chốn lầu xanh nhơ nhớp, khiến nàng phải đau đớn, đắng cay suốt mười lăm năm lưu lạc, phải “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”. - Những người phụ nữ như Vũ Nương, Thúy Kiều đều phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan ức, thoát khỏi cuộc đời đầy đau khổ, oan nghiệt. 3. Khái quát, nâng cao - Người phụ nữ trong hai tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” và “Truyện Kiều” hội tụ những vẻ đẹp đáng quý nhất và cũng là đầy đủ những gì đau khổ, tủi nhục nhất của con người. Họ là đại diện tiêu biểu của hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ. - Viết về người phụ nữ, các nhà văn,nhà thơ đã đứng trên lập trường nhân sinh để bênh vực cho họ, đồng thời lên tiếng tố cáo gay gắt các thể lực đã gây ra nỗi đau khổ cho họ. - Liên hệ với cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội hiện đại. III – Kết bài Nêu cảm nghĩ của bản thân về cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đề bài 2 " Văn học trung đại nước ta, sau những vấn đề đấu tranh xã hội, còn thường đề cập đến vấn đề đạo đức gia đình, đặc biệt là luôn đề cao những tấm gương hiếu thảo đối với cha mẹ.” Qua một số tác phẩm văn học trung đại mà em đã học và đọc thêm trong chương trình Ngữ văn lớp 9, hãy làm sáng tỏ nội dung: “Văn học trung đại nước ta luôn đề cao những tấm gương hiếu thảo đối với cha mẹ”. Theo em, trong thời đại ngày nay, vấn đề đạo đức gia đình có còn quan trọng không? Vì sao? Dàn ý chi tiết: I- Mở bài Giới thiệu để nêu vấn đề: “Văn học trung đại nước ta luôn đề cao những tấm gương hiếu thảo đối với cha mẹ”. II- Thân bài 1. Giải thích: chữ hiếu theo quan niệm thời xưa: Theo Nho giáo, hiếu là một khái niệm đạo đức nền tảng, là cái gốc của mọi vấn đề về đạo đức, chính trị. Trong xã hội phong kiến Việt Nam luôn lấy “hiếu”làm chuẩn mực trong xã hội, làm tiêu chuẩn rèn luyện và đánh giá nhân cách con người, lấy hiếu để buộc người và người. Hiếu vốn là một nội dung quan trọng của đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam, đó là: "Nết đầu trong trăm nết”, đạo hiếu hình thành lâu đời trong những phong tục của người Việt như: thờ cúng tổ tiên, kính trọng người già, tôn trọng cha mẹ… Thậm chí, Nho giáo đã thể chế hóa thành những luân lý, đạo đức của xã hội. Thời Lý Trần, Nho giáo chưa ảnh hưởng nhiều vào trong đời sống xã hội, sang thời Lê - Nguyễn, Nho giáo trở thành công cụ tư tưởng chi phối xã hội, chú trọng vấn đề gia đình, coi gia đình là cơ sở quan trọng bậc nhất để thiết lập kỷ cương, ổn định trật tự xã hội. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan