Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Chức năng kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở việt nam hiện nay ...

Tài liệu Chức năng kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở việt nam hiện nay

.PDF
103
27
146

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ---*--- TRỊNH THỊ TUYẾT MAI CHỨC NĂNG KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Bùi Xuân Đức Hà Nội – 2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ---*--- Trịnh Thị Tuyết Mai CHỨC NĂNG KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT Trịnh Thị Tuyết Mai CHỨC NĂNG KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ Hà Nội - 2009 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Phát triển kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường là xu thế tất yếu của quá trình đổi mới kinh tế - xã hội. Thực tế cho thấy không có nền kinh tế của quốc gia nào được phát triển mà không có sự quản lý, điều tiết và can thiệp từ phía Nhà nước. Chính vì vậy, vị trí, vai trò của Nhà nước ngày càng trở nên quan trọng và không thể thay thế trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là từ sau nhận thức về Nhà nước trong điều kiện của nền kinh tế thị trường. Ở nước ta, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986) đã tạo ra những bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đảng ta đã nghiêm khắc kiểm điểm quá trình lãnh đạo, khẳng định những ưu, khuyết điểm, chỉ ra nguyên nhân của sai lầm và đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Đường lối đổi mới của Đảng đã thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đi đôi với tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước đã ban hành hàng loạt các chính sách, hệ thống các văn bản pháp luật để dần dần hoàn thiện cơ chế quản lý nền kinh tế trong thời kỳ quá độ. Đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở Hiến pháp 1992, Nhà nước đã có những chính sách và thể chế hóa bằng hàng loạt bộ luật, luật, pháp lệnh và các văn bản dưới luật khác nhằm hướng vào việc đảm bảo quyền tài sản của công dân, quyền tự chủ của các chủ thể kinh doanh, đảm bảo giá cả chủ yếu do thị trường định đoạt, đảm bảo lấy các tín hiệu thị trường làm căn cứ quan trọng để phân bổ các nguồn lực cho sản xuất kinh doanh, đảm bảo sự bình đẳng 1 giữa các thành phần kinh tế, khuyến khích các chủ thể kinh doanh tự do tìm kiếm lợi nhuận hợp pháp. Quá trình đổi mới thể chế nền kinh tế đã mang lại những thành công to lớn, Nhà nước đã tác động mạnh mẽ làm chuyển biến về chất đối với nền kinh tế. Đó là : Tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước trong những năm đổi mới luôn có xu hướng gia tăng; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiệu quả hơn; nền kinh tế đất nước thoát khỏi khủng hoảng; việc làm và đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện... Đường lối đổi mới đó đã được thực hiện, bổ sung và hoàn thiện dần qua các kỳ Đại hội lần thứ VII (6/1991), VIII (6/1996), IX (4/2001), X (4/2006) của Đảng. Tuy nhiên, quản lý Nhà nước trong nền kinh tế nước ta đang nổi lên không ít những vấn đề bức xúc như: chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh và quy mô của nền kinh tế còn thấp, các tiền đề cho phát triển kinh tế xã hội còn thiếu đồng bộ và yếu kém, việc phát triển kinh tế gắn với việc giải quyết các vấn đề xã hội còn nhiều hạn chế... Tình hình đó đặt ra yêu cầu cần nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện và đầy đủ về chức năng kinh tế của Nhà nước; xác định một cách có căn cứ khoa học về nội dung, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, các phương pháp, công cụ quản lý về kinh tế trong mối quan hệ nội tại, khách quan giữa Nhà nước, thị trường, doanh nghiệp trong tiến trình phát triển kinh tế của đất nước; nghiên cứu chức năng của Nhà nước trong công cuộc cải cách bộ máy nhà nước hiện nay để đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả chức năng kinh tế của Nhà nước, tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường phát triển theo đúng những quy luật vốn có của nó và đáp ứng các mục tiêu kinh tế, xã hội đã đề ra. Xuất phát từ nhận thức của bản thân và trước những yêu cầu, đòi hỏi của lý luận và thực tiễn, tác giả chọn đề tài : “Chức năng kinh tế của Nhà nƣớc trong nền kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn Thạc sỹ luật học của mình. 2 2. Tình hình nghiên cứu. Về đề tài liên quan đến chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường đã có nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu. Bằng các cách tiếp cận khác nhau, các tác giả đã đề cập đến nhiều vấn đề như: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” - GS.TS Mai Ngọc Cường, Nxb Chính trị quốc gia, 2001; Đề tài “Quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” do GS.TSKH Lương Xuân Quỳ chủ nhiệm; “Chức năng kinh tế của Nhà nước - Lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay” - TS.Trần Thái Dương, Nxb Công an nhân dân, 2003; Đề tài Luận án Tiến sỹ của nghiên cứu sinh Lê Thu Hằng về “Chức năng xã hội của Nhà nước CHXHCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”; Các tác giả Dư Văn Việt - Lưu Hướng Dương với đề tài: “Sáu đặc trưng lớn của Chủ nghĩa xã hội thị trường đương đại”, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2001; PGS.TS Lê Hồng Hạnh và các tác giả với đề tài “Những nền tảng pháp lý cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam”, Nxb Tư pháp, 2002; Và một số bài viết trên các tạp chí như: Lê Nguyễn Hương Trinh - Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường - Tạp chí Triết học, 2003; TS. Trần Du Lịch - Ưu tiên hoàn thiện pháp luật phù hợp với chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế trong điều kiện vận hành của cơ chế kinh tế thị trường - Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 15/2008; Vũ Minh Phong - Thế giới đang biến đổi và tư duy mới về “Bàn tay nhà nước”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp tháng 1/2009; Phạm Ngọc Quang - Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay - Tạp chí cộng sản số 8/2009. Các công trình và bài viết nói trên đã đề cập đến những khía cạnh, những vấn đề nhất định liên quan đến chức năng của Nhà nước và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu 3 một cách hệ thống chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam hiện nay. Trong quá trình nghiên cứu, luận văn kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công trình, tài liệu khoa học nói trên và các tài liệu khác có liên quan. 3. Mục đích nghiên cứu. Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích nhận thức rõ hơn về chức năng kinh tế của Nhà nước; đánh giá thực trạng chức năng kinh tế của Nhà nước trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, đồng thời đưa ra những phương hướng, giải pháp góp phần hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. 4. Phạm vi nghiên cứu. Chức năng của Nhà nước là một vấn đề rộng lớn, phức tạp, đòi hỏi nghiên cứu một cách toàn diện trong cả quá trình phát triển của Nhà nước và có liên quan đến các phạm trù bản chất, vai trò, nhiệm vụ của Nhà nước trong lịch sử. Trong khuôn khổ của luận văn thạc sỹ luật học, tác giả tập trung nghiên cứu về chức năng kinh tế của Nhà nước trong bối cảnh nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu. Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin, vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Trong quá trình nghiên cứu, luận văn đồng thời sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, tổng kết thực tiễn, tiếp cận hệ thống, thống kê số liệu... 6. Nội dung nghiên cứu. Luận văn làm sáng tỏ 3 nội dung sau: - Nghiên cứu khái niệm, nội dung và quá trình phát triển chức năng kinh tế của Nhà nước. 4 - Đánh giá thực trạng về chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. - Đề xuất những phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. 7. Những điểm mới của luận văn. - Qua phân tích những quan niệm về vai trò kinh tế của Nhà nước, Luận văn đưa ra khái niệm chức năng kinh tế của Nhà nước; nêu và phân tích những nội dung chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường; trên cơ sở thực trạng thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước, Luận văn đưa ra những phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. - Những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào quá trình nhận thức và hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập và giảng dạy về nhà nước và pháp luật tại các cơ sở đào tạo. 8. Kết cấu của luận văn. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chương 2: Thực trạng chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện nay. 5 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHỨC NĂNG KINH TẾ CỦA NHÀ NƢỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1.1. Khái niệm chức năng kinh tế của Nhà nƣớc. 1.1.1 Những quan niệm về vai trò kinh tế của Nhà nƣớc. Nhà nước là một thiết chế đặc biệt của xã hội, có vai trò to lớn trong việc duy trì và phát triển xã hội loài người. Nhân loại đã và đang tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu nhằm phát huy hơn nữa vai trò to lớn của Nhà nước nhằm hướng tới xây dựng một Nhà nước ngày càng phục vụ tốt hơn cho cuộc sống của con người. Trong quá trình phát triển nhận thức chung của các quốc gia trên thế giới về nền kinh tế thị trường hiện đại là nền kinh tế hỗn hợp, trong đó có vai trò to lớn của Nhà nước. Nhưng để đi đến nhận thức đó, con người đã phải trải qua bao bước phát triển thăng trầm. Thực tế là Nhà nước trong lịch sử và ở mỗi quốc gia có quá trình phát triển khác nhau, vì thế vai trò kinh tế của các Nhà nước ở các nền văn hóa cũng khác nhau. Việc lựa chọn mô hình hợp lý để thể hiện vai trò đích thực của Nhà nước trong nền kinh tế vẫn luôn là vấn đề của mọi thời đại và của mọi quốc gia. Trong lịch sử đã từng có hai quan điểm về vai trò của Nhà nước: Nhà nước có can thiệp vào kinh tế hay không? Nhà nước can thiệp đến mức độ nào, nghệ thuật sử dụng các công cụ và biện pháp điều tiết ra sao? Từ thời cổ đại, vai trò kinh tế của Nhà nước đã được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như chính trị học, triết học, luật học thể hiện qua các quan điểm của các nhà triết học Hy Lạp, La Mã, Trung Quốc như Aritxtốt, Platôn, Mạnh Tử, Khổng Tử... 6 Khi chủ nghĩa tư bản phát triển đến giai đoạn cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến, nhiều lý thuyết kinh tế học chính trị đã đi sâu tìm hiểu về cơ chế tác dụng của Nhà nước đối với nền kinh tế. Trong đó phải kể đến các lý thuyết tiểu biểu như: A.Smith về nền kinh tế tự do, lý thuyết của Keynes về nền kinh tế có sự điều tiết của Nhà nước, lý thuyết của A.Samuelson về nền kinh tế hỗn hợp. Đại diện cho trường phái tự do kinh tế, A.Smith (1723 - 1790) chống lại quan điểm sự can thiệp của Nhà nước vào các quan hệ kinh tế thông qua biểu tượng “bàn tay vô hình”. Trong tác phẩm “Nghiên cứu về nguyên nhân và bản chất sự giàu có của dân tộc”, ông cho rằng hoạt động kinh tế của con người là hoạt động tự do, do “bàn tay vô hình” hay quy luật kinh tế khách quan chi phối. Nhà nước không can thiệp vào kinh tế mà chỉ có vai trò bảo vệ quyền sở hữu tư bản, đảm bảo an ninh đối nội, đối ngoại, đồng thời chính sách kinh tế tốt nhất mà xã hội và Nhà nước cần có là chính sách tự do cạnh tranh. Tuy nhiên, đôi khi Nhà nước cũng có nhiệm vụ kinh tế nhất định khi nhiệm vụ đó vượt qua khả năng của các chủ thể tư nhân như làm đường sá, cải tạo sông ngòi... để phát triển kết cấu kinh tế hạ tầng cơ sở. [13] Chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, các nhà kinh tế học trường phái cổ điển mới đều thấy một thực tế là theo đà phát triển của sản xuất, vai trò của Nhà nước ngày càng mở rộng, đặc biệt trong lĩnh vực ngoại thương với sự xuất hiện của các tổ chức độc quyền và tái sản xuất sức lao động thì Nhà nước tư sản càng phải tăng cường sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế. Tuy nhiên sự điều tiết thụ động của “bàn tay vô hình” trong quá trình tái sản xuất vẫn đảm bảo được tỷ lệ cân đối và duy trì sự phát triển bình thường. Vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, các cuộc khủng hoảng kinh tế của Chủ nghĩa tư bản nổ ra thường xuyên và có tính chu kỳ đã chứng tỏ “bàn tay vô hình” không thể đảm bảo cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển bình thường. Các nhà kinh tế học tư sản thấy rằng cần phải có một lực lượng 7 nhân danh xã hội can thiệp vào quá trình kinh tế. Từ đó, lý thuyết “chủ nghĩa tư bản được điều tiết” xuất hiện với sự sáng lập của nhà kinh tế học người Anh J.M.Keynes (1883 - 1946). Theo Keynes, Nhà nước cần can thiệp vào kinh tế cả ở mức vi mô lẫn vĩ mô. Trong tác phẩm “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ”, Keynes cho rằng cơ chế thị trường không thể tự đảm bảo cho việc sử dụng đầy đủ các nhân tố sản xuất. Mọi tệ nạn của chủ nghĩa tư bản như khủng hoảng, thất nghiệp đều bắt nguồn từ sự không can thiệp của Nhà nước vào kinh tế. Vì vậy Keynes chủ trương đưa ra chính sách điều chỉnh kinh tế: Nhà nước phải can thiệp vào quá trình sản xuất, Nhà nước cần nắm vững những công cụ điều chỉnh vĩ mô quan trọng như tài chính, tín dụng, lưu thông tiền tệ, thực hiện lạm phát có mức độ, xây dựng hệ thống thuế khóa... Yêu cầu phát triển của sản xuất xã hội hóa cao đòi hỏi Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế. Và sự can thiệp đó sẽ khắc phục được khủng hoảng, thất nghiệp, tạo môi trường cho sự phát triển kinh tế, xã hội ổn định. Song, sự can thiệp “quá mạnh” của nhà nước tư sản vào nền kinh tế cũng chỉ làm cho nền kinh tế ổn định trong một thời gian ngắn. Sau đó những chấn động lớn vẫn diễn ra và tình trạng thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng kinh tế vẫn lại càng thêm trầm trọng. Lý thuyết của J.M.Keynes có một hạn chế đó là ông chưa đánh giá đầy đủ vai trò của cơ chế thị trường. Từ đó đặt ra yêu cầu là phối hợp sức mạnh của Nhà nước với sức mạnh của cơ chế thị trường để điều tiết nền kinh tế. Một trong các lý thuyết tư sản phát triển theo hướng này là chủ nghĩa tự do kinh tế mới ra đời. Nội dung cơ bản của tư tưởng này là sử dụng cơ chế thị trường có sự can thiệp của Nhà nước ở mức độ nhất định. Theo họ các vấn đề kinh tế cần phải được giải quyết thông qua hệ thống kinh tế thị trường là chính, sự can thiệp của Nhà nước chỉ trong chừng mực nào đó mà thôi và họ đưa ra khẩu hiệu “cạnh tranh thị trường nhiều hơn, Nhà nước can thiệp ít hơn”. 8 Chủ nghĩa tự do kinh tế mới được thể hiện tập trung ở một số trường phái như: Chủ nghĩa trọng tiền hiện đại, Trường phái trọng cung, Trường phái dự kiến hợp lý, Kinh tế thị trường xã hội..v..v. Chủ nghĩa trọng tiền hiện đại ủng hộ quan điểm truyền thống của chủ nghĩa tự do. Đó là hệ thống tự điều chỉnh hoạt động theo các quy luật kinh tế vốn có của nó. Còn các nhà kinh tế trường phái kinh tế thị trường xã hội lại cho rằng nền kinh tế chủ nghĩa tư bản phải được phát triển theo nguyên tắc tự do cạnh tranh. Cạnh tranh là hình thức hoàn thiện nhất của quan hệ thị trường đảm bảo sự phát triển kinh tế tự điều tiết. Tuy nhiên, kinh tế thị trường không thể hoạt động tự phát, mà Nhà nước có vai trò nhất định đảm bảo cho sự phát triển hài hòa, duy trì tự do và các điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế. Nền kinh tế càng phát triển thì cơ chế thị trường ngày càng bộc lộ những hạn chế rất dễ nhận thấy. Đó là khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát, bất bình đẳng trong xã hội và sự hủy hoại môi trường thiên nhiên. Để khắc phục điều đó, các nền kinh tế hiện đại với sự kết hợp giữa thị trường và “bàn tay hữu hình” của Nhà nước sẽ đảm bảo cho sự phát triển kinh tế một cách hiệu quả. Đại diện cho lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp là P.A.Samuelson - Nhà kinh tế học người Mỹ. Ông cho rằng: “Cả thị trường và Nhà nước đều cần thiết cho một nền kinh tế vận hành lành mạnh. Thiếu một trong hai điều này thì hoạt động của nền kinh tế hiện đại chẳng khác gì vỗ tay bằng một bàn tay” [94, 38]. Học thuyết về nền kinh tế hỗn hợp của Samuelson đã thể hiện một nhận thức mới, đó là cần phải kết hợp vai trò điều tiết của Nhà nước và tôn trọng quy luật kinh tế khách quan trong phát triển kinh tế - xã hội. Nhưng đến nay, trước xu thế hội nhập và toàn cầu hóa nền kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ thì lý thuyết về sự can thiệp tối thiểu của Nhà nước vào các quan hệ kinh tế không còn phù hợp nữa và trường phái mới đã ra đời với quan niệm là cần phải có chính quyền nhà nước đủ mạnh và khả năng can thiệp sâu vào nền kinh tế. [103, 39] 9 Lịch sử đã chứng minh các nền kinh tế thị trường thành công đều không phát triển một cách tự phát mà cần có sự can thiệp và hỗ trợ từ phía Nhà nước. Vì vậy vai trò “bàn tay hữu hình” của Nhà nước ngày càng thể hiện rõ và trở thành yếu tố không thể thiếu trong nền kinh tế của nhiều nước. Tuy nhiên vai trò kinh tế của Nhà nước ở mỗi giai đoạn phát triển nhất định có sự khác nhau về phương thức và mức độ tác động. Chẳng hạn, sự phát triển sản xuất tư bản chủ nghĩa cho thấy lúc đầu Nhà nước có vai trò như “bà đỡ”, dùng bạo lực hoặc các chính sách kinh tế có liên quan đến bạo lực tác động vào kinh tế; tiếp đó Nhà nước có vai trò như “người canh gác” để các chủ thể tự do cạnh tranh; rồi đến Nhà nước phải can thiệp trực tiếp vào kinh tế cả ở cấp vĩ mô và vi mô; và cho tới ngày nay, người ta cho rằng cần sử dụng tác động “hỗn hợp” vừa có thị trường, vừa có sự quản lý của Nhà nước. Bức tranh về lịch sử kinh tế thế giới hiện đại còn có mảng hiện thực xã hội và lý thuyết quan trọng khác đó là sự ra đời và phát triển của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa cũng thể hiện quá trình nhận thức về vai trò của Nhà nước đối với các quan hệ kinh tế. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã xây dựng học thuyết về chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Trong đó, Nhà nước thực hiện chức năng điều khiển nền sản xuất theo kế hoạch, thực hiện nguyên tắc làm theo năng lực, phân phối theo lao động. Nhà nước xã hội chủ nghĩa có vai trò kinh tế vô cùng to lớn ở chỗ Nhà nước không theo nghĩa là bộ máy trấn áp của giai cấp thống trị trong xã hội mà là “nửa” Nhà nước đóng vai trò tổ chức quản lý kinh tế - xã hội đặc thù của kiểu Nhà nước sau cùng trong lịch sử. V.I.Lênin đã cụ thể hóa về mô hình Nhà nước xã hội chủ nghĩa khi áp dụng vào nước Nga và đề ra chính sách kinh tế mới (NEP) thay cho chính sách cộng sản thời chiến. NEP đã kết hợp vai trò của các quá trình kinh tế hàng hóa khách quan 10 với vai trò chủ động, tích cực của Nhà nước Xô Viết trong việc phát triển nền kinh tế phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể. Sau đại chiến thế giới lần thứ hai, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa được hình thành. Quan điểm lý luận của chủ nghĩa xã hội về vai trò kinh tế của Nhà nước cho rằng Nhà nước là đại diện cho sở hữu toàn dân, nắm giữ hầu hết các tư liệu sản xuất chủ yếu và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh theo kế hoạch. Vào những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX, trước cuộc khủng hoảng về kinh tế - xã hội, các nước xã hội chủ nghĩa đã chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường. Dù với những phương thức chuyển đổi khác nhau, những bước đi và mức độ thành công khác nhau, nhưng thực tế đã cho thấy nền kinh tế các nước đã có kết quả tốt hơn so với trước khi chuyển đổi. Đó là sự ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, nền kinh tế phục hồi và bước đầu tăng trưởng. Tuy không phải tất cả các nước chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường đều giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng từ thực tiễn của công cuộc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở các nước có thể rút ra những vấn đề chung. Một là, không thể vận dụng một mô thức đồng nhất và đơn giản cho mọi quốc gia trong chuyển đổi nền kinh tế [24, 36]. Hai là, Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng và tích cực trong quá trình cải cách và chuyển đổi. Có thể khẳng định rằng chất lượng chính sách cũng như sự điều tiết có hiệu quả của Nhà nước mới có ý nghĩa quyết định sự thành công của công cuộc chuyển đổi [49-50, 36). Ba là, quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đòi hỏi sự đồng bộ không phải chỉ trong chính sách kinh tế mà còn cả hệ thống thể chế, cơ cấu xã hội, những thiết chế nhà nước và hệ thống pháp luật. [66, 15] Như vậy, với những quan niệm về vai trò kinh tế của Nhà nước trên thế giới như đã trình bày ở trên, có thể thấy việc vận dụng mô hình kinh tế hợp lý cũng như xác định rõ vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế hiện đại 11 có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình đổi mới Nhà nước ta, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó cũng chính là cơ sở lý luận và thực tiễn quốc tế cho quá trình nhận thức về chức năng kinh tế của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 1.1.2. Khái niệm về chức năng kinh tế của Nhà nƣớc. Quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia luôn đặt ra yêu cầu có tính xác định cụ thể hơn đối với bộ máy nhà nước và cần phải có nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về chức năng của Nhà nước. Đặc biệt đối với các nước xã hội chủ nghĩa đang xây dựng kinh tế thị trường như ở nước ta thì tính tất yếu và cấp bách của vấn đề chuyển đổi chức năng kinh tế của Nhà nước phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế hiện nay lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Ngay cả đối với những quốc gia có nền kinh tế phát triển cũng đã nhận định cần phải liên tục đổi mới hoạt động của Nhà nước để đương đầu với nền kinh tế hiện đại. Xuất phát từ quan niệm là “nếu không có Nhà nước hiệu quả thì không thể có phát triển kinh tế - xã hội được” và “Thế giới đang thay đổi và cùng với đó, những ý tưởng về vai trò Nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội cũng phải thay đổi”[10]. Như vậy, vấn đề vai trò, chức năng của Nhà nước trong các mô hình kinh tế có ý nghĩa quan trọng trước những thay đổi lớn lao của đời sống quốc tế hiện nay. Đối với sự nghiệp đổi mới sâu sắc và toàn diện ở nước ta, việc nhận thức vai trò, chức năng của Nhà nước sẽ nhằm đặt Nhà nước vào đúng vị trí, đảm đương đúng chức năng của mình đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách phục vụ sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam như Đảng cộng sản Việt Nam đã nêu rõ: “Cần tập trung nghiên cứu, xác định đúng vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong cơ chế mới. Trên cơ sở đó chấn chỉnh, đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của bộ máy nhà nước, làm cho bộ máy gọn nhẹ, trong sạch, cán bộ tinh thông nghiệp vụ, tận tụy công việc, làm việc có hiệu quả” .[30, 2]. 12 Chức năng của Nhà nước là một trong những vấn đề cơ bản của lý luận Nhà nước và pháp luật, là khái niệm phức tạp, luôn gắn với những phạm trù như bản chất, nhiệm vụ, các hình thức và phương pháp hoạt động của Nhà nước... Theo từ điển tiếng Việt, “chức năng” là từ gốc Hán bao gồm hai thành tố “chức” và “năng”. Thành tố “chức” trong các từ “chức phận”, “chức trách”, “chức vụ”. Thành tố “năng” trong các từ “bản năng”, “năng lực”, “khả năng”. Chức năng được hiểu với hai sắc thái nghĩa là “hoạt động, tác dụng bình thường....” và “vai trò bình thường hoặc đặc trưng” [191, 12]. Như vậy, chức năng nhà nước được hiểu như là hoạt động, khả năng vốn có của Nhà nước. Trong khoa học pháp lý nước ta đã xuất hiện nhiều quan điểm về chức năng của Nhà nước. Theo cách hiểu truyền thống, phổ biến nhất từ trước đến nay thì chức năng của Nhà nước là những phương diện (những phương hướng, mặt, dạng, loại) hoạt động chủ yếu của Nhà nước nhằm thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước Nhà nước. Mỗi chức năng cụ thể của Nhà nước thể hiện sự thống nhất của nội dung, hình thức và biện pháp thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực hoạt động nhất định, gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước. Quan điểm thứ hai xuất phát từ bản chất nhà nước cho rằng chức năng của Nhà nước được xem xét như thuộc tính cơ bản bên trong của Nhà nước là tổ chức thống trị giai cấp và tổ chức đại diện chính thức cho xã hội; khẳng định sự tồn tại khách quan của chức năng nhà nước với hai tính chất là tính giai cấp và tính xã hội và mối liên hệ giữa bản chất với chức năng của Nhà nước. Quan điểm thứ ba xác định chức năng nhà nước là sự thể hiện vai trò của Nhà nước đối với xã hội, là biểu hiện cụ thể năng lực của Nhà nước và đưa ra kết luận rằng cần nhận thức khái niệm chức năng nhà nước trên ba góc độ thống nhất hữu cơ: Chức năng nhà nước là cái mà xã hội cần Nhà nước và Nhà nước cần phải làm; là cái mà Nhà nước có thể làm được; là cái Nhà nước được làm [41]. Quan điểm khác cho rằng chức năng của Nhà nước chính là những nhiệm vụ cơ bản của Nhà nước trong từng giai 13 đoạn phát triển cụ thể hoặc đưa vào khái niệm chức năng nhà nước những phương pháp, cách thức Nhà nước thực hiện chức năng của mình trong thực tiễn, là các hình thức hoạt động của Nhà nước đối với môi trường xung quanh, đối với xã hội và với các quốc gia khác. Có quan điểm lại cho rằng chức năng của Nhà nước không chỉ là những phương hướng hoạt động chủ yếu của Nhà nước mà còn là cơ chế tác động của Nhà nước lên các quá trình xã hội, bởi khi thực hiện những chức năng nhất định trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, Nhà nước bằng các cuộc cải cách, bằng sự điều chỉnh pháp luật, bằng các cách thức tổ chức và quản lý các quan hệ xã hội mà tác động lên trạng thái của các quá trình xã hội... Nói chung từ những khác biệt nhất định trong mỗi cách hiểu về chức năng của Nhà nước, các quan điểm trên đều xuất phát trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin về nguồn gốc, bản chất, vị trí, vai trò của Nhà nước trong đời sống xã hội, đặt hiện tượng Nhà nước trong quá trình vận động và phát triển của xã hội theo các quy luật khách quan của nó. Trong điều kiện hiện nay, để góp phần xác định đầy đủ khái niệm về chức năng của Nhà nước, theo chúng tôi cần tiếp cận phạm trù chức năng nhà nước gắn liền với bản chất nhà nước và vai trò của Nhà nước đối với đời sống xã hội. Nhận thức bản chất, vai trò của Nhà nước, có thể khẳng định rằng Nhà nước có chức năng duy trì sự tồn tại và phát triển của toàn xã hội; và điều tiết các quan hệ xã hội, tổ chức đời sống cộng đồng phù hợp với ý chí của giai cấp cầm quyền. Như vậy, những điều kiện kinh tế, xã hội quyết định sự ra đời và tồn tại của Nhà nước. Bản chất, vai trò của Nhà nước có liên quan mật thiết đến chức năng nhà nước. Khi bản chất nhà nước thay đổi thì chức năng nhà nước cũng thay đổi cho phù hợp với bản chất nhà nước mới. Vì vậy, các chức năng nhà nước và nội dung của nó luôn có sự vận động, biến đổi làm xuất hiện những chức năng mới hoặc mất đi những chức năng nào đó hoặc có những chức năng nhà nước tồn tại qua nhiều chế độ xã hội khác nhau nhưng 14 nội dung và phương pháp thực hiện chúng lại khác nhau tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, vào bản chất của Nhà nước đó. Từ bản chất, vai trò nhà nước có thể xác định chức năng nhà nước, ngược lại vai trò và chức năng nhà nước lại là những biểu hiện sinh động cho bản chất nhà nước. Vai trò của Nhà nước là nền tảng để xác định, cụ thể hóa các chức năng của Nhà nước, đồng thời các chức năng nhà nước cũng chính là những biểu hiện cho vai trò nhà nước. Trên cơ cở nhà nước thực hiện các chức năng của mình cũng đồng thời là lúc Nhà nước thực hiện vai trò quản lý và điều hành các hoạt động xã hội, làm cho các quan hệ xã hội có những bước chuyển phù hợp với bối cảnh trong nước và quốc tế. Theo từ điển bách khoa Việt Nam, chức năng của Nhà nước nói chung là hoạt động của Nhà nước thể hiện vai trò của Nhà nước đối với xã hội. Có nhiều cách phân loại khác nhau về chức năng của Nhà nước. Trong khoa học pháp lý, chức năng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay được phân loại thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Chức năng đối nội bao gồm: chức năng tổ chức và quản lý kinh tế; chức năng giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; chức năng tổ chức và quản lý văn hóa, giáo dục khoa học và công nghệ...Các chức năng đối ngoại bao gồm : chức năng bảo vệ tổ quốc XHCN, chức năng mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực... Qua phân loại có thể thấy chức năng của Nhà nước bao trùm tất cả mọi lĩnh vực trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Các chức năng đó chính là những mặt hoạt động cụ thể của Nhà nước thể hiện vai trò của Nhà nước đối với xã hội. Nhà nước thực hiện các chức năng của mình để giải quyết vấn đề lợi ích mà trước hết là lợi ích kinh tế nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người là ăn, mặc, ở trước khi tham gia các hoạt động chính trị, xã hội. Như vậy, từ phạm trù chức năng của Nhà nước thể hiện vai trò của Nhà nước đối với đời sống xã hội có thể hình thành nên khái niệm chức năng kinh tế của Nhà nước như là một bộ phận 15 của khái niệm chức năng nhà nước, cũng như chức năng xã hội, chức năng chính trị của Nhà nước. Từ đó có thể định nghĩa: Chức năng kinh tế của Nhà nước là hoạt động của Nhà nước thể hiện vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có thể xác định chức năng kinh tế của Nhà nước là hoạt động cơ bản của Nhà nước trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chức năng kinh tế của Nhà nước không tồn tại biệt lập, tách rời với các chức năng khác của Nhà nước. Trong mọi chức năng của Nhà nước đều bao hàm những nội dung kinh tế và trong chức năng kinh tế cũng không có mục đích nào khác là vì sự phát triển đẩy đủ và toàn diện của con người. Do vậy, chức năng kinh tế của Nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ với các chức năng khác của Nhà nước. Trước hết là mối quan hệ giữa chức năng kinh tế với chức năng xã hội của Nhà nước thể hiện ở mối liên hệ giữa lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực xã hội là hai lĩnh vực có mối liên hệ chặt chẽ đến mức có thể nói chính sách kinh tế của Nhà nước là chính sách xã hội trên lĩnh vực kinh tế. Chức năng kinh tế của Nhà nước nhằm mục tiêu trực tiếp là tạo ra các điều kiện vật chất, sự tăng trưởng và phát triển bền vững đất nước. Còn chức năng xã hội của Nhà nước có mục tiêu trực tiếp là đảm bảo sự ổn định, công bằng, sự phát triển hài hòa và an toàn xã hội. Xã hội càng phát triển càng nảy sinh những vấn đề xã hội phức tạp, không chỉ của riêng một quốc gia nào mà còn trở thành vấn đề cần quan tâm của toàn nhân loại. Vì vậy, việc tăng cường thực hiện các chức năng xã hội của Nhà nước trở thành nội dung quan trọng trong hoạt động của các nhà nước trên thế giới. Nhưng Nhà nước không thể thực hiện được chức năng xã hội của mình nếu không thực hiện tốt chức năng kinh tế. Nói cách khác, chức năng kinh tế là tiền đề để Nhà nước thực hiện chức năng xã hội vì chức năng xã hội của Nhà nước không thể triển khai được nếu trong tay Nhà nước 16 không có tiềm lực vật chất. Tuy nhiên chức năng kinh tế và chức năng xã hội của Nhà nước cũng có ranh giới nhất định. Bởi lẽ Nhà nước muốn thực hiện vai trò to lớn trong việc ổn định xã hội, phát huy mạnh mẽ các nguồn lực của đất nước mà trong đó yếu tố con người là quan trọng nhất thì trước hết Nhà nước cần phải tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan. Hoạt động của Nhà nước trong giải quyết các vấn đề xã hội không phải là những hoạt động mang tính chủ quan, duy ý chí mà phải tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và trên cơ sở khả năng kinh tế của đất nước. Mặt khác, chức năng kinh tế của Nhà nước có mối quan hệ mật thiết với chức năng chính trị của Nhà nước thể hiện ở bản chất giai cấp, chế độ chính trị tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của nền kinh tế. Chức năng kinh tế của Nhà nước có mục tiêu trực tiếp là tăng trưởng kinh tế, còn chức năng chính trị của Nhà nước có mục tiêu trực tiếp là tạo ra nền tảng chính trị ổn định, giữ vững định hướng phát triển cũng như bản chất của nền kinh tế. Nhà nước không thể không coi trọng những nội dung kinh tế trong các chính sách, đường lối chính trị của mình và với mỗi quốc gia, đường lối phát triển kinh tế trở thành nội dung quan trọng nhất của đường lối, chính sách chính trị của giai cấp cầm quyền, của Nhà nước. Trong thời đại ngày nay, nhất là khi toàn cầu hóa đang trở thành xu thế tất yếu, các quốc gia ngày càng mở rộng hợp tác và quan hệ chặt chẽ với nhau về kinh tế thì vấn đề chính trị trong mỗi quốc gia cũng như trên phạm vi thế giới không nằm ngoài lợi ích kinh tế. Do vậy, chức năng kinh tế là phương thức thể hiện đặc thù của chức năng chính trị, còn chức năng chính trị định hướng, mở đường và tạo điều kiện cho chức năng kinh tế phát triển. Việc chăm lo phát triển nền dân chủ và mở rộng quan hệ ngoại giao theo chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa đã tạo điều kiện chính trị quan trọng quyết định sự thành công của sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan