Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Chủ thể hộ gia đình trong hoạt động công chứng tại việt nam chuyên ngành dân sự ...

Tài liệu Chủ thể hộ gia đình trong hoạt động công chứng tại việt nam chuyên ngành dân sự và tố tụng dân sự 60 38 01 03

.PDF
114
15
93

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG GIANG LINH CHỦ THỂ HỘ GIA ĐÌNH TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG TẠI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2017 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG GIANG LINH CHỦ THỂ HỘ GIA ĐÌNH TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG TẠI VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số:60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. TUẤN ĐẠO THANH Hà Nội – 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của mình, các số liệu, tư liệu sử dụng trong Luận văn là trung thực, có xuất xứ rõ ràng, những ý kiến nêu trong Luận văn là sự tổng hợp của quá trình nghiên cứu được định hướng và là ý tưởng của riêng tôi. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! TÁC GIẢ Hoàng Giang Linh DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT BLDS Bộ luật Dân sự BLTTDS Bộ luật Tố tụng Dân sự CCV Công chứng viên HGĐ Hộ Gia đình LCC Luật Công chứng LHNVGĐ Luật Hôn nhân và Gia đình PCC Phòng công chứng QHPL Quan hệ pháp luật TCHNCC Tổ chức hành nghề công chứng THT Tổ hợp tác UBND Uỷ ban nhân dân VPCC Văn phòng công chứng VBQPPL Văn bản quy phạm pháp luật Mục lục Lời mở đầu Chƣơng I.Hoạt động công chứngvàChủ thể trong hoạt động công chứng 5 1.1 Khái niệm, chức năng,nhiệm vụ,mục đích hoạt động công chứng ....................... 5 1.2 Chủ thể trong hoạt động công chứng .................................................................. 30 Chƣơng II. Chủ thể hộ gia đình trong hoạt động công chứng ............................ 42 2.1Nguyên nhân hình thành chủ thể hộ gia đình....................................................... 42 2.2 Khái niệm chủ thể hộ gia đình ............................................................................ 44 2.3Đặc điểm hộ gia đình và xác định thành viên hộ gia đình ................................... 65 Chƣơng III. Thực trạngvà giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng đối với chủ thể hộ gia đình ..................................................................................... 78 3.1 Thực trạng chủ thể hộ gia đình trong hoạt động công chứng ............................. 78 3.2 Một số giải pháp cụ thể ....................................................................................... 90 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 105 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 106 MỞ ĐẦU 1 Đặt vấn đề 1.1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Chủ thể HGĐ là một trong những nội dung được tranh luận khá nhiều trong giới luật học, đôi khi, các chuyên gia về luật vẫn còn nhầm lẫn giữa chủ thể HGĐ và Gia đình hoặc không thể xác định được thời điểm hình thành và chấm dứt chủ thể này.Bên cạnh đó, việc xác định tài sản chung của HGĐ cũng là nội dung rất phức tạp dẫn đến hậu quả là việc áp dụng pháp luật vào thực tế thiếu chính xác, qua đó không thấy được bản chất của giao dịch,vì vậy các hợp đồng, giao dịch liên quan đến chủ thể HGĐ luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ tranh chấp. Trong hoạt động công chứng,HGĐ là một chủ thể rất khó xác định bởi luật quy định chưa cụ thể.Bên cạnh đó,HGĐ thường có nhiều thành viên với thời điểm nhập, tách, sinh, tử khác nhau… dẫn đến việc xác định thành viên HGĐ rất phức tạp do thiếu căn cứ pháp lý. Chính vì lí do đó, trong hoạt động công chứng việc xác định thành viên hộ và thời điểm hình thành tài sản nhằm quyết định những thành viên nào đủ điều kiện tham gia vào hợp đồng, giao dịch là vấn đề tiên quyết để hợp đồng, giao dịch có hiệu lực theo quy định của pháp luật . Những câu hỏi đặt ra cần phải trả lời khi nghiên cứu Luận văn này là: - Lịch sử hình thành pháp luật công chứng. - Khái niệm, đặc điểm công chứng. - Nguyên nhân hình thành HGĐ. - Khái niệm, đặc điểm HGĐ. - Mối quan hệ giữa công chứng và HGĐ. - Hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản của HGĐ. - Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của thành viên HGĐ. 1. 2 Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1. Mục tiêu tổng quát - Phân tích những quan điểm, ý kiếnkhác nhau để khẳng định sự cần thiết của chủ thể HGĐ trong thực tế hiện nay. 1 - Đóng góp những khuyến nghị từ quá trình hoạt động nghề nghiệp liên quan đến chủ thể HGĐ, qua đó nhằm áp dụng các quy định về HGĐ phù hợp các nguyên tắc của pháp luật trong thực tiễn. 1.2.2 Mục tiêu cụ thể Xác định chủ thể HGĐ trong pháp luật dân sự. Xác định rõ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của HGĐ trong hoạt động thực tiễn, trong đó có hoạt động công chứng, chứng thực. Xác định thành viên HGĐ, tài sản HGĐ theo quy định của pháp luật, qua đó tháo gỡ vướng mắc liên quan đến chủ thể HGĐ trong hoạt động thực tiễn. 1.3 Tính mới và những đóng góp của đề tài HGĐ (và THT) có vị trí khiêm tốn trong tổng thể các quy định của BLDS.Tuy nhiên,HGĐ có vai tròrất quan trọng trong đời sống nông thôn Việt Nam, bởi vậy, mỗi khi sửa đổi, bổ sung BLDS thì nội dung vềchủ thể HGĐđược thảo luận với nhiều ý kiến như loại bỏ hay tiếp tục quy định chủ thể HGĐlà chủ thể QHPL dân sự. Trước luận văn này, học viên được tiếp cận các quan điểm, ý kiến về chủ thể HGĐ như sau: - Đề tài Quyền sử dụng đất của Hộ gia đình,cá nhân dưới khía cạnh quyền tài sản tư theo pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩcủa tác giả Nguyễn Thị Thập,đã bảo vệ thành công năm 2010, người hướng dẫn khoa học là Tiến sĩ Nguyễn Quang Tiến; - Đề tài Pháp luật về thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Hộ gia đình, cá nhân ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Nắng Mai,đã bảo vệ thành công năm 2011, người hướng dẫn khoa học là Tiến sĩ Doãn Thị Hồng Nhung; - Đề tài Thế chấp quyền sử dụng đất của Hộ gia đình - Thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng thương mại quốc tế Việt Nam - Đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật, Luận văn thạc sĩcủa tác giả Phùng Văn Hiếu,đã bảo vệ thành công năm 2012, ngườihướng dẫn khoa học là PGS. Tiến sĩ Lê Thị Thu Thủy… Những luận văn trước dùcó nêu vềchủ thể HGĐvà có liên quan đến công chứng, chứng thực nhưng mục đích không phải xác định rõ chủ thể đặc thù này mà 2 chủ yếu nghiên cứuthế chấp, thủ tục chuyển nhượng, hoặc quyền sử dụng đất có đối tượngchủ thể HGĐ.Bên cạnh đó, có sách chuyên khảo:“Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự” của Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện phân tích chủ thể QHPLdân sự, nhưng không xem xét về nguồn gốc hình thành chủ thể HGĐ. Tại Luận văn này, học viênnghiên cứu về khởi nguồn hình thành chủ thể HGĐ, bên cạnh đó là thời điểm xác định thành viên, thời điểm hình thành tài sản dẫn đến thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của thành viên HGĐ.Luận văn đi vào trọng tâm làm rõ chủ thể HGĐ và xem xét HGĐ trong mối quan hệ với lĩnh vực công chứng,qua đó đóng góp những ý kiến hoàn thiện chủ thể này trong quá trình áp dụng, thực hiện pháp luật. Vì những lí do trên, cá nhân, tổ chức cũng như những chủ thể thực hiện công việc liên quan đến HGĐphải hiểu được những vấn đề cơ bản, mang tính định hướng mới có thể giải quyết đúng vấn đề.Hy vọng Luận văn có thể góp phần nhỏ nhằm hoàn thiện những khiếm khuyết của chủ thể HGĐ trong quá trình áp dụng pháp luật. 1.4 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu được tiến hành đối với chủ thểQHPLdân sự, cụ thể làHGĐ trong hoạt động công chứng. Phạm vi nghiên cứu là chủ thể HGĐvà pháp luật công chứng trong các văn bản luật của Việt Nam từ năm 1945 đến nay. 1.5 Nội dung, địa điểm và phƣơng pháp nghiên cứu 1.5.1 Nội dung nghiên cứu - Pháp luật về chủ thể HGĐ. - Pháp luật về công chứng. 1.5.2 Địa điểm nghiên cứu Sự thay đổi địa giới hành chính từ nông thôn lên thành thị kéo theo HGĐ trong phố, trong khi đó bản chất của chủ thể HGĐ là nhóm cá nhân có mối quan hệ về hôn nhân, huyết thống và/hoặc nuôi dưỡng, cùng chung sống, có tài sản chung qua đó thực hiện sản xuất trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp là chủ yếu. 1.5.3Phƣơng pháp nghiên cứu 3 Việc nghiên cứu được tác giảthực hiện từ góc độ lịch sử về quy định pháp luật liên quan đến HGĐ,cũng như sự hình thành củachủ thể HGĐtrong mối quan hệ với các chủ thể khác trong xã hội. Tác giả áp dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể là phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh, thống kê... Tác giả nghiên cứu chủ thể HGĐ dưới góc nhìn của một CCV, qua đó xác định những giao dịch của HGĐ phải đảm bảo yếu tố chủ thể bên cạnh các tiêu chí khác như:Thỏa thuận, tự nguyện, bình đẳng, thiện chí và trung thực. Từ hình thức bên ngoài là văn bản công chứng, học viên nghiên cứu thành viên HGĐ được xác định trên tiêu chí nào?Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của thành viên HGĐ cũng như người đại diện HGĐ cóthẩm quyền tới đâu.Mặt khác, khi tham gia giao dịch thì tài sản là phần không thể thiếu bởi HGĐ phải có mối gắn kết liên quan đến tài sản chung.Vì vậy,xác định thời điểm hình thành tài sản, xác định thành viên HGĐ vô cùng quan trọng đểđảm bảo hiệu lực văn bản công chứng,hạn chế tranh chấp giữa các bên. Kết cấu Luận văn Chương I.Hoạt động công chứng và Chủ thể trong hoạt động công chứng. Chương II. Chủ thể hộ gia đình trong hoạt động công chứng. Chương III. Thực trạngvà giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng đối với chủ thể hộ gia đình. Kết Luận. 4 CHƢƠNG I HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG VÀ CHỦ THỂ TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG 1. Khái niệm, chức năng,nhiệm vụ vàmục đíchhoạt động công chứng 1.1 Khái niệm Sau Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, hoạt động công chứng, chứng thực từ đó có những khởi đầu mới như Nhà nước bổ nhiệm CCV người Việt Nam thay thế cho CCV người Pháp, đồng thời bãi bỏ một số quy định không phù hợp với bản sắc văn hóa người Việt.Bên cạnh đó,Nhà nước ban hành một số quy định sơ khai về hoạt động công chứng, chứng thực. Thời gian đầu, một số việc Thị thực được giao cho UBND thực hiện theo Sắc lệnh số 59/SL ngày 15/11/1945 về “ấn định thể lệ việc thị thực các giấy tờ” và Nhận thực theo Sắc lệnh số 85/SL ngày 29/02/1945 “ban hành thể lệ trước bạ về việc mua bán, cho, đổi nhà cửa ruộng đất”. Có thể thấy công chứng sơ khai là hoạt động của Nhà nước nhằm hợp pháp hóa văn bản, sự kiện pháp lý.Giai đoạn này Nhà nước chưa phân biệt công chứng và chứng thực, bởi thế thẩm quyền của UBND nói chung được công chứng những việc như: Chứng thực chữ ký, chứng nhận bản sao giấy tờ, tài liệu… Tiếp đến, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987, hướng dẫn công tác công chứng Nhà nước, theo đó khái niệm đầu tiên về công chứng được quy định như sau: “Công chứng Nhà nước là một hoạt động của Nhà nước, nhằm giúp công dân, các cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện đó, làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Bằng hoạt động trên, công chứng Nhà nước tạo ra những bảo đảm pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các cơ quan, tổ chức phù hợp với Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt 5 Nam, ngăn ngừa vi phạm pháp luật, giúp cho việc giải quyết các tranh chấp được thuận lợi, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.[19, tr 1] Theo khái niệm trên, các nhà làm luật không xác định cụ thể chủ thể thực hiện công chứng, nhưng khẳng định công chứng mang tính quyền lực Nhà nước và được cấu thành bởi hai bộ phận cơ bản là “lập và xác nhận” văn bản, sự kiện có ý nghĩa pháp lý cũng như “hợp pháp hóa” các văn bản và sự kiện, ngăn ngừa vi phạm pháp luật. Ngay sau đó, ngày 15/10/1987, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 858/QLTPK, hướng dẫn thực hiện các việc làm công chứng. Sau bốn năm, Nhà nước ban hành Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/02/1991 của Hội đồng Bộ trưởng quy định về tổ chức và hoạt động công chứng Nhà nước (sau đây gọi tắt là Nghị định 45/HĐBT).Tại Nghị định 45/HĐBT, quan niệm của nhà làm luật về công chứng cũng có những thay đổi nhất định, theo đó: “Công chứng Nhà nước là việc chứng nhận tính xác thực các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức), góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ”[27, Điều 1].Tại khái niệm công chứng thứ hai, nhà làm luật vẫn không xác định chủ thể thực hiện công chứngnhưng khẳng định công chứng là việc“chứng nhận tính xác thực” hợp đồng, giấy tờ và “Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ”.Chức năng, nhiệm vụvà mục đích, giai đoạn này củacông chứng là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức... Tiếp đến, năm 1996 Nhà nước ban hành Nghị định 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động công chứng Nhà nước (sau đây gọi tắt là Nghị định 31/CP) sau đó nghị định kể trên đượcBộ Tư pháphướng dẫn bằng Thông tư số 1411/TT-CC ngày 03/10/1996. Giai đoạn này, luật vẫn chưa phân biệt rõ ràng giữa công chứng và chứng thực. Về mục đích, chức năng và nhiệm vụ trong giai đoạn này, Nghị định 31/CP xác định công chứng:“là việc chứng nhận tính xác thực các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội 6 (sau đây gọi chung là các tổ chức), góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.Các hợp đồng và giấy tờ đã được Công chứng Nhà nước chứng nhận hoặc Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp bị Toà án Nhân dân tuyên bố là vô hiệu”.[22, Điều 1].Có thể thấy khái niệm về công chứng tại Nghị định 45/HĐBT và Nghị định 31/CP không có nhiều khác biệt ngoài việc quy định chủ thể thực hiện công chứng bao gồm “công chứng Nhà nước” và “Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền”.Bên cạnh đó, Nghị định 31/CP một lần nữa khẳng định giá trị chứng cứ của hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố vô hiệu. Năm 2000, Chính phủ ban hành Nghị định 75/2000/NĐ-CP có hiệu lực ngày 01/4/2001,hướng dẫn chung về công chứng, chứng thực(sau đây gọi là Nghị định75).Tại Nghị định 75,một lần nữa nhà làm luật đưa ra khái niệm công chứng, theo đó: “Công chứng là việc phòng công chứng chứng nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) và thực hiện các việc khác theo quy định của Nghị định này”[25, Điều 2].Như vậy, tại Nghị định 75, lần đầu tiên chủ thể công chứng được khẳng định là PCC; phạm vi công chứng không được đề cập đến trong khái niệm; chức năng, nhiệm vụ và mục đích của công chứng cơ bản vẫn là “chứng nhận tính xác thực” của hợp đồng, giao dịch... Năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký. Giai đoạn này, nhà làm luật hoàn thiện pháp luật về công chứng, chứng thực nhằm mục đích tách biệt giữa hoạt động công chứng và chứng thực.Theo Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007,phạm vi điều chỉnh bao gồm các nội dung sau: - Cấp bản sao từ sổ gốc; - Chứng thực bản sao từ bản chính; - Chứng thực chữ ký cá nhân (bao gồm chứng thực chữ ký của người dịch trong các bản dịch từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt hoặc từ tiếng Việt sang tiếng 7 nước ngoài và chứng thực chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho các giao dịch dân sự). Khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), hệ thống pháp luật nói chung cũng như chế định công chứng nói riêng đã có nhiều thay đổi nhằm đáp ứng được yêu cầu của xu hướng hội nhập, khu vực hóa và toàn cầu hóa. Trong bối cảnh này, LCC năm 2006được ban hành thay thế cho Nghị định 75 đã xác định “Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng” [39, Điều 2]. Như vậy, theo khái niệm LCC năm 2006, chủ thể công chứng được khẳng định là cá nhân CCV. Tại LCC năm 2006,mục đích công chứng hướng đến không chỉ đơn thuần “tính xác thực” mà còn bao gồm cả “tính hợp pháp” của các hợp đồng, giao dịch. Cũng theo LCC năm 2006, phạm vi công chứng được cấu thành bởi hai yếu tố cơ bản là “theo quy định của pháp luật phải công chứng” và “cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu”. Việc thay đổi quan niệm về chủ thể công chứng (từ TCHNCC sang cá nhân CCV) đánh dấu xu hướng chuyển đổi thiết chế công chứng Việt Nam từ mô hình TCHNCCNhà nước sang mô hình TCHNCC tư nhân. Theo đó, cùng với PCC, Nhà nước cho phép thành lập TCHNCC tư nhân với tên gọi “Văn phòng công chứng” hoạt động theo loại hình Doanh nghiệp tư nhân (sau này chuyển đổi thành Công ty Hợp danh) được điều chỉnh bởi Luật Doanh nghiệp năm 2005. Thời gian đầu, luật không buộc VPCC phải có nhiều CCV… quá trình này được gọi là “xã hội hoá” hoạt động công chứng. Sự khác nhau về hình thức tại các TCHNCC hiện nay là: (1) Tư nhân thành lập thì mang tên VPCC (2) Nhà nước thành lập thì mang tên PCC. Ngày 20/6/2014, Quốc hội họp thông qua LCC năm 2014, có hiệu lực ngày 01/01/2015 thay thế cho LCC năm 2006, góp phần hoàn thiện khiếm khuyết của những năm đầu xã hội hóa hoạt động công chứng, mang lại hiệu quả thiết thực đối với xã hội. Tại LCC năm 2014, nhà làm luật đưa ra khái niệm công chứng như sau: “Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng 8 chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.”[40, Điều 2]. Như vậy, theo khái niệm công chứng năm 2006 so với khái niệm công chứng năm 2014,bên cạnh việc xác định tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch thì thẩm quyền của CCV được phép công chứng bản dịch và chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản theo quy định của pháp luật (được quy định tại Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015, có hiệu lực ngày 10/4/2015, sau đây gọi là Nghị định 23). Nghị định 23 thay thế cho Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký; Nghị định 23 cũng thay thế các quy định về chứng thực hợp đồng, giao dịch tại Nghị định 75 của Chính phủ về công chứng, chứng thực.Theo đó, pháp luật quy định cụ thể thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực của Phòng Tư pháp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; UBNDxã, phường, thị trấn được quyền thực hiện các việc chứng thực, đơn cử như: (1) Thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản là động sản (2) Thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến thực hiện các quyền của người sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai (3) Thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch về nhà ở theo quy định của Luật Nhà ở. Bên cạnh đó, Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan đại diện lãnh sự được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài có thẩm quyền công chứng trong phạm vi nhất định, theo đó: “Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan đại diện lãnh sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài được công chứng di chúc, văn bản từ chối nhận di sản, văn bản ủy quyền và các hợp đồng, giao dịch khác theo quy định của Luật này và pháp luật về lãnh sự, ngoại giao, trừ hợp đồng 9 mua bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, thế chấp, góp vốn bằng bất động sản tại Việt Nam”[40, Điều 78]. Liên quan đến chứng thực, Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan đại diện lãnh sự được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài có thẩm quyền chứng thực các việc như: - Chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam liên kết với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài cấp hoặc chứng nhận; - Chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản; - Chứng thực chữ ký của người dịch trong các giấy tờ, văn bản từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt, từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài;[26, Điều 5]. Tại Nghị định 23, nhàlàm luật có sự thay đổi lớn về thẩm quyền chứng thực như: Phòng Tư pháp cấp huyện không thực hiện chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến các quyền của người sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai.Đối với nhà ở đô thị theo quy định tại Điều 93 của Luật Nhà ở năm 2005, thẩm quyền của UBNDcấp huyện cũng chỉ thực hiện đến hết ngày 30/6/2015[26, Điều 47].Ngược lại, UBND cấp xã là chủ thể duy nhất được chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến giao dịch là quyền sử dụng đất. Như vậy, chúng ta nhận thấy chủ thể thực hiện công chứng được thay đổi qua từng thời kỳ. Đầu tiên, tại Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp hướng dẫn công tác công chứng Nhà nước cũng như tại Nghị định 45/HĐBT, chúng ta không xác định rõ ràng chủ thể mà chỉ coi đây là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước. Khi Nghị định 31/CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng Nhà nướcđược ban hành, chủ thể thực hiện công chứng vẫn không được xác định nhưng chúng ta khẳng định rằng đó chỉ có thể là PCC Nhà nước hoặc UBND cấp có thẩm quyền. Theo Nghị định 75 của Chính phủ về công chứng, chứng thực, lần đầu tiên chủ thể thực hiện công chứng được xác định là PCC, trong khi chủ thể chứng thực là UBND có thẩm quyền. Tuy vậy, việc tách bạch công chứng và chứng thực chỉ dừng 10 ở mức phân biệt chủ thể, giá trị của đối tượng giao dịch hay loại hình tài sản... chứ không có gì khác biệt về bản chất pháp lý giữa hai loại hành vi này. Theo khái niệm công chứng được nêu tại LCC năm 2006 và LCC năm 2014, chủ thể thực hiện công chứng mới được khẳng định chính xác là CCV. Việc xác định chủ thể công chứng không chỉ có vai trò lý luận quan trọng mà còn thể hiện quan điểm của các nhà làm luật về bản chất công chứng, mô hình tổ chức công chứng, địa vị pháp lý của CCV, cơ cấu của tổ chức hành nghề công chứng... Rõ ràng, từ các quy định đã được pháp luật ghi nhận, chúng ta thấy có sự thay đổi nhất định trong quan điểm của những nhà làm luật về chủ thể công chứng. Tóm lại, chủ thể công chứng có thể là cá nhân CCV hoặc cơ quan có thẩm quyền công chứng. Đến lượt mình, cơ quan có thẩm quyền công chứng có thể là đơn vị thực hiện công chứng chuyên nghiệp (ví dụ, PCC Nhà nước, hoặc VPCC) hoặc cũng có thể là đơn vị thực hiện công chứng một cách kiêm nhiệm như UBND cấp có thẩm quyền (sau này còn được gọi dưới cái tên chứng thực). Tùy từng thời kỳ, cũng như từng địa phương mà UBND cấp có thẩm quyền có thể là UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện hoặc UBND cấp xã. Nhìn chung, chỉ có UBND cấp huyện và UBND cấp xã được coi là chủ thể công chứng (hoặc chứng thực) trong một thời gian tương đối dài kể từ khi Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư phápđược ban hành,cho đến khi LCC năm 2006có hiệu lực. 1.2 Chức năng TheoTừ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học Hà Nội- Đà Nẵng ban hành năm 1995 thì “Chức năng” là để chỉ “Hoạt động, tác dụng bình thường hoặc đặc trưng của một cơ quan…”[11, tr 185]. Căn cứ khái niệm công chứng, chứng thực chúng tôi nhận thấy chức năng của hoạt động này cơ bản như:(i) Hợp pháp hóa và đảm bảo an toàn pháp lý các hợp đồng, giao dịch; (ii) Tạo lập và cung cấp chứng cứ. Có thể thấy,chức năngcủa công chứng hướng tới là nhằm hợp pháp hóa các hợp đồng, giao dịch,qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể, loại trừ các tranh chấp, đảm bảo bình đẳng, thúc đẩy sự phát triển xã hội.Trên tinh thần thỏa 11 thuận, tự do ý chí, người thực hiện, áp dụng pháp luật được Nhà nước trao quyền ghi nhận thỏa thuận hoặc hành vi pháp lý đơn phương của người yêu cầu công chứng, chứng thực mà pháp luật buộc phải công chứng, chứng thực hoặc người yêu cầu công chứng, chứng thực tự nguyện. Đối với hoạt động công chứng, chứng thực chúng ta nhận thấy rõ sự áp đặt của công quyền đối với một số hợp đồng, giao dịch các bên buộc phải thi hành mới phù hợp với quy định của pháp luật. Tại Thông tư 574/QLTPK ngày 10/10/1987, hướng dẫn công tác công chứng Nhà nước đã khẳng định: “Công chứng Nhà nước là một hoạt động của Nhà nước..”. Nghị định số 45/HĐBT cũng khẳng định: “Công chứng Nhà nước là việc chứng nhận tính xác thực các hợp đồng và giấy tờ..” và “Phòng công chứng Nhà nước là cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, có tư cách pháp nhân, có tài khoản riêng ở Ngân hàng, có con dấu mang hình quốc huy”. Điều này cho thấy tính quyền lực của Nhà nước đối với hoạt động công chứng là rất lớn, buộc mọi chủ thể trong xã hội phải tôn trọng và chấp hành. Tiếp đến, Nghị định 31/CP; Nghị định 75 và LCC năm 2006 không nêu rõ ràng về tính quyền lực của Nhà nước đối với hoạt động công chứng, chứng thực. Đến LCC năm 2014, nhà làm luật mới tái khẳng định: “Công chứng viêncung cấp dịch vụ công do Nhà nước ủy nhiệm thực hiện nhằm bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch; phòng ngừa tranh chấp; góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; ổn định và phát triển kinh tế - xã hội”[40, Điều 3]. Để đảm đương vai trò nêu trên, qua tìm hiểu các khái niệm công chứng, chúng tôi thấy công chứng Việt Nam có chức năng cơ bản khác là tạo lập và cung cấp chứng cứ cho hoạt động xét xử của cơ quan tài phán, cũng như thể hiện vai trò quản lý Nhà nước đối với một số hợp đồng, giao dịch nhất định. Chúng ta có thể nhận thấy rất rõ chức năng này khi nghiên cứu giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Ví dụ, Nghị định số 45/HĐBT các nhà làm luật khẳng định “Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ”[27, Điều 1]. Trong khi đó, theo quy định của Nghị định 31/CP: “Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng Nhà nước chứng nhận 12 hoặc UBND cấp có thẩm quyền chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp bị Tòa án nhân dân tuyên bố là vô hiệu” [22, Điều 1]. Lần đầu tiên trong Nghị định 75, các nhà làm luật đã dành hẳn một điều luật (Điều 14) để đưa ra khái niệm văn bản công chứng (và văn bản chứng thực) cũng như xác định giá trị pháp lý của chúng. Theo đó, văn bản công chứng (kể cả bản sao) có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp được thực hiện không đúng thẩm quyền hoặc không tuân theo quy định tại Nghị định 75, hoặc bị Tòa ántuyên bố là vô hiệu.Cũng theo Nghị định 75, hợp đồng được công chứng có giá trị thi hành đối với các bên giao kết, theo đó: “Hợp đồng đã được công chứng, chứng thực có giá trị thi hành đối với các bên giao kết; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình, thì bên kia có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật ”[25, Điều 14]. Tiếp đến, LCC năm 2006 vàLCC năm 2014 ghi nhận giá trị chứng cứ cũng như giá trị thi hành của văn bản công chứng khi khẳng định: “Hợp đồng, giao dịch được công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan” và “Hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong Hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu”[40, Điều 9]. Qua các khái niệm công chứng đã được pháp luật thừa nhận, chúng ta thấy vai trò bổ trợ tư pháp của công chứng với chức năng cơ bản là tạo lập, cung cấp chứng cứ cho hoạt động xét xử của cơ quan tài phán, mà trước hết và chủ yếu là của Tòa án, đã được pháp luật khẳng định qua việc ghi nhận giá trị chứng cứ của văn bản công chứng. Tuy nhiên, giá trị chứng cứ của văn bản công chứng được quy định không giống nhau. Tùy từng giai đoạn, giá trị chứng cứ của văn bản công chứng được coi là chứng cứ thông thường hay chứng cứ không cần phải chứng minh; Chứng cứ đương nhiên hay không còn giá trị chứng cứ khi bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu. Nếu như giá trị chứng cứ là giá trị mang tính truyền thống thì giá trị thi hành của văn bản công chứng lại không được pháp luật ghi nhận liên tục. Theo đánh giá của chúng tôi, giá trị thi hành của văn bản công chứng thể hiện vai trò quản lý Nhà nướctrong hoạt động này được ghi nhận chính thức tại Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp hướng dẫn công tác công chứng Nhà nước, Nghị định 45/HĐBT, Nghị định 31/CP, Nghị định 13 75 cũng như LCC năm 2006 và LCC năm 2014. Như vậy, với vai trò là công cụ quản lý Nhà nước, công chứng cho ra đời những văn bản có giá trị thi hành, không chỉ đối với các bên giao kết hợp đồng, giao dịch mà còn đối với các bên có liên quan, ngay cả khi đó là một cơ quan Nhà nước. Rõ ràng, công chứng Việt Nam không chỉ thực hiện chức năng tạo lập và cung cấp chứng cứ, chức năng cơ bản tồn tại ở bất kỳ trường phái công chứng nào mà còn có chức năng quản lý đối với những loại, dạng hợp đồng, giao dịch được cho là quan trọng, một chức năng rất nổi trội của công chứng các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. 1.3 Nhiệm vụ TheoTừ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học Hà Nội- Đà Nẵng ban hành năm 1995 thì “Nhiệm vụ” là để chỉ: “Công việc phải làm vì một mục đích và trong một thời gian nhất định”[11, tr 695]. Như vậy, căn cứ vào khái niệm công chứng thìnhiệm vụ của CCV là chứng nhận các hợp đồng, giao dịch, chứng thực bản sao từ bản chính, công chứng bản dịch theo quy định của pháp luật. Theo đó, CCV phải loại trừ toàn bộ nguy cơ dẫn đến tranh chấp, đảm bảo hiệu lực của hợp đồng, giao dịch. Do đó, nhiệm vụ của CCV về cơ bản phải thực hiện đúngnhững nội dung sau đây: Thứ nhất, khi CCV chứng nhận hợp đồng, giao dịch phải đảm bảo văn bản công chứng không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Theo BLDS năm 2005, những giao dịch sau sẽ vô hiệu: “Giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.”[36, Điều 128]. Tuy nhiên, đạo đức xã hội là vấn đề khó xác định,khó định lượng chứ không giống các điều cấm của pháp luật.Song, nhà làm luật cũng nêu ra quy định buộc người áp dụng, thực hiện pháp luật không được công chứng, chứng thực khi: “Biết hoặc phải biết yêu cầu công chứng, chứng thực hoặc nội dung công chứng, chứng thực trái pháp luật, đạo đức xã hội.”[25, Điều 39].LCC năm 2006; LCC năm 2014 cũng liệt kê những hành vi nghiêm cấm khi thực hiện công chứng, theo đó CCVkhông: “Thực hiện công chứng 14 trong trường hợp mục đích và nội dung của hợp đồng, giao dịch, nội dung bản dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội; xúi giục, tạo điều kiện cho người tham gia hợp đồng, giao dịch thực hiện giao dịch giả tạo hoặc hành vi gian dối khác;”.”[40, Điều 7]. Thứ hai, CCV phải đảm bảo hợp đồng, giao dịch không giả tạo nhằm tránh tranh chấp. Tuy vậy, việc nắm bắt ý chí của người yêu cầu công chứng đúng với bản chất giao dịch là rất khó, bởi các bên trong hợp đồng, giao dịch đều thống nhấtthỏa thuận trước CCV mà không chịu bất kỳ áp lực nào. Ví dụ trường hợp sau: Hộ ông Nguyễn Văn A có nhà, đất tại đường Bưởi, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội thuộc khu vực giải tỏa làm đường vành đai 3. Sau khi được UBND cấp có thẩm quyền đền bù (theo hình thức nhận tiền mặt và một suất mua nhà là căn hộ tái định cư tại đường Phạm Văn Đồng, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội). Song, do nhu cầu Hộ ông Nguyễn Văn A không ở mà bán lại suất mua theo dạng ủy quyền cho chị Nguyễn Thị B. Tại TCHNCC, Hộ ông Nguyễn Văn A yêu cầu CCV lập hợp đồng ủy quyền cho chị Nguyễn Thị B. Nội dung ủy quyền như sau: (i) Chị Nguyễn Thị B đại diện HGĐ ông Nguyễn Văn A trong việc ký hợp đồng mua bán nhà ở với cơ quan tổ chức có thẩm quyền, đóng nộp các khoản tiền liên quan đến mua căn hộ. (ii) Sau khi được cấp sổ đỏ, chị Nguyễn Thị B được quyền: Quản lý, sử dụng, bán, cho, thế chấp căn hộ của HGĐ ông Nguyễn Văn A. Ví dụ trên cho thấy các bên lập Hợp đồng ủy quyền công việc liên quan đến bất động sản, nhưng bản chất là mua bán thì CCV chỉ dừng lại ở mức độ cảnh báo, chứ không từ chối được giao dịch ủy quyền hợp pháp các bên. Cạnh đó, LCC năm 2006 và LCC năm 2014 đều quy định nghiêm cấm cá nhân, tổ chức thực hiện các hành vi như: Giả mạo người yêu cầu công chứng, cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật; sử dụng giấy tờ, văn bản giả mạo hoặc bị tẩy xóa, sửa chữa trái pháp luật hoặc có hành vi gian dối, không trung thực. Thứ ba, CCV phải đảm bảo hợp đồng, giao dịch do người có năng lực hành vi dân sự theo quy định pháp luật tham gia ký vào văn bản công chứng mới có giá 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan