LỜI CẢM ƠN
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên của tôi nên chắc chắn không
tránh khỏi những hạn chế. Để có thể hoàn thành được công trình nghiên cứu
này ngoài sự nỗ lực của bản thân tôi còn nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của
thầy Nguyễn Văn Dũng. Nhân dịp này tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất
đến thầy người đã dìu dắt tôi trên bước đường tập dượt nghiên cứu khoa học
của mình.
Bên cạnh đó cũng cho phép tôi được gửi lời cảm ơn đến gia đình, người
thân và bạn bè, đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình làm khoa học, để tôi
hoàn thành đề tài khóa luận của mình.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trong khoa Lịch sử đã cung
cấp cho tôi những kiến thức trong quá trình học tập tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày 20 tháng 4 năm 2013
Tác giả khóa luận
Lê Thị Linh
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi với sự
hướng dẫn của Thạc sĩ Nguyễn Văn Dũng. Các số liệu, dữ liệu, kết quả trong
khóa luận là hoàn toàn trung thực. Các nguồn tài liệu trích dẫn có nguồn gốc
và xuất xứ rõ ràng. Tôi xin cam đoan những điều trên là đúng sự thật.
Hà Nội, ngày 20 tháng 4 năm 2013
Tác giả khóa luận
Lê Thị Linh
2
MỤC LỤC
Trang
1
MỞ ĐẦU
Chương 1. CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 1986 ...................................
1.1.
7
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về tôn giáo .......................................................
7
1.1.1.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo ...........
7
1.1.2.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo.................
12
1.2.
Đặc điểm tình hình tôn giáo ở Việt Nam ........................
14
1.2.1.
Do những đặc thù về địa lý, dân cư, lịch sử, văn hóa nên
tôn giáo ở Việt Nam hết sức ..............................................
1.2.2.
Tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam có tính đan xen, hòa
đồng và sự khoan dung ......................................................
1.2.3.
18
Trong lịch sử cũng như hiện nay, tuy mức độ có khác
nhau, nhưng các tôn giáo ở Việt Nam ................................
1.3.
17
Phần lớn tôn giáo ở Việt Nam có quan hệ quốc tế rộng rãi
và liên quan chặt chẽ .........................................................
1.2.7.
16
Đội ngũ chức sắc, nhà tu hành những người hoạt động tôn
giáo chuyên nghiệp khá đông ............................................
1.2.6.
16
Tín đồ tôn giáo ở Việt Nam khá đông nhưng đa số là nhân
dân lao động, trong đó chủ yếu là nông dân .......................
1.2.5.
15
Tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam luôn thần thánh hóa
những người có công với nước ..........................................
1.2.4.
14
19
Chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam
trước năm 1986 ................................................................
3
19
1.3.1.
Bối cảnh lịch sử .................................................................
19
1.3.2.
Tình hình tôn giáo ở nước ta từ năm 1975 đến năm 1986 ..
21
1.3.3.
Chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo từ
năm 1975 đến năm 1986....................................................
25
Chương 2. CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2006 ................
2.1.
Nội dung chính sách về tôn giáo của Đảng từ năm 1986
đến năm 2006 ...................................................................
2.1.1.
36
Chính sách tôn giáo của Đảng từ năm 1998 đến năm
2006.. ................................................................................
2.2.
32
Chính sách tôn giáo của Đảng từ năm 1990 đến năm
1998.. ................................................................................
2.1.3.
32
Chính sách tôn giáo của Đảng từ năm 1986 đến năm
1990.. ................................................................................
2.1.2.
32
41
Kết quả thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng Cộng
sản Việt Nam....................................................................
54
Chương 3. NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM ..................
61
3.1.
Nhận xét ...........................................................................
61
3.1.1.
Ưu điểm ............................................................................
61
3.1.2.
Hạn chế .............................................................................
66
3.2.
Một số kinh nghiệm .........................................................
68
KẾT LUẬN ............................................................................................
71
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................
74
PHỤ LỤC...............................................................................................
80
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ khoảng thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay, đời sống tín ngưỡng,
tôn giáo Việt Nam và trên thế giới trở nên sôi động với nhiều biểu hiện mới
và tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong bối cảnh thế giới đang vận động, phát triển theo xu hướng toàn
cầu hóa, đời sống tôn giáo cũng được phục hồi một cách mạnh mẽ. Trên thế
giới số người có tôn giáo chiếm đại đa số dân cư. Theo số liệu tổng điều tra
dân số thế giới, tính đến năm 2005, dân số trên thế giới có hơn 6 tỷ người, thì
số người theo tôn giáo chiếm tới hơn 4 tỷ (chiếm gần 2/3 dân số thế giới).
Hiện nay, tình hình tôn giáo trên thế giới đã và đang biến động theo các xu
hướng toàn cầu hóa với nhiều biểu hiện vô cùng đa dạng, bên cạnh đó còn có
nhiều “hiện tượng tôn giáo” bùng phát, trong đó có một số hiện tượng mang
tính chất phi nhân tính, phản văn hóa, gây hậu quả xấu cho xã hội.
Có tình hình đó không chỉ do sự phục hồi, phát triển mạnh mẽ của các
hình thức tín ngưỡng, tôn giáo ở một số nước mà còn vì trong thời đại ngày
nay, tôn giáo có liên quan chặt chẽ đến những cuộc xung đột dân tộc, sắc tộc
đang diễn ra ở nhiều nơi; không chỉ có vai trò và tác động mạnh mẽ đến các
lĩnh vực của đời sống của từng cộng đồng dân tộc trước xu thế khu vực hóa,
toàn cầu hóa hiện nay. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân
dân, nhưng lại liên quan đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, tác động đến
văn hóa, đạo đức, an ninh và quốc phòng.
Tình hình tôn giáo trên thế giới có nhiều biến động như vậy, khiến cho
các quốc gia đều phải quan tâm đến việc xây dựng, đổi mới chính sách đối
với tôn giáo. Chính sách tôn giáo của mỗi quốc gia có thể không giống nhau,
5
song nhiều nước đã thể hiện rõ quan điểm về việc bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, đoàn kết dân tộc, ổn định xã hội để phát triển đất nước.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo khác
nhau và đang có xu hướng phát triển. Sự nghiệp đổi mới đất nước (được
chính thức bắt đầu từ Đại hội VI năm 1986) do Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xướng và lãnh đạo là một quá trình. Cùng với quá trình đổi mới toàn
diện đất nước, việc đổi mới nhận thức, đánh giá và ứng xử với tôn giáo cũng
cần được đặt ra.
Trong các thời kỳ cách mạng khác nhau, Đảng luôn xác định: “Tôn
giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ
phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây
dựng xã hội mới” [7, tr.2].
Trước đòi hỏi của thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta đã nhận ra sự cần
thiết phải đổi mới trong nhận thức, đường lối, chính sách về tôn giáo. Nghị
quyết 24 - NQ/TW (10/1990) của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam là
mốc mở đầu quan trọng đánh dấu quá trình đổi mới ấy. Kể từ khi Nghị quyết
này ra đời đến nay, trong đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà
nước có nhiều đổi mới, ngày càng cởi mở, thông thoáng hơn, đáp ứng nhu cầu
tôn giáo, tín ngưỡng của quần chúng.
Tuy nhiên, tình hình tôn giáo hiện nay đang có nhiều xu hướng phát
triển và có nhiều diễn biến phức tạp mới đòi hỏi, cần phải tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với lĩnh vực tôn giáo.
Chính vì thế tôi quyết định chọn đề tài: “Chính sách tôn giáo của
Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1986 đến năm 2006” làm đề tài khóa luận
tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
6
Hiện nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về tôn giáo và chính sách
tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta ở nhiều góc độ khác nhau.
Nghiên cứu lý luận chung và chủ trương, chính sách về tôn giáo của
Đảng Cộng sản Việt Nam có các công trình như: Ban Tôn giáo Chính phủ,
Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam (sách Trắng, 2006); Nguyễn Đức
Lữ, Lý luận về tôn giáo và chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam
(Nxb Tôn giáo, 2007), Tôn giáo - Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà
nước Việt Nam hiện nay (Nxb Chính trị - Hành chính, 2009); Đặng Nghiêm
Vạn, Những vấn đề lý luận và thực hiện tôn giáo ở Việt Nam hiện nay (Nxb
Khoa học xã hội, 1998), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam
(Nxb Chính trị quốc gia, 2001); Đỗ Quang Hưng, Vấn đề tôn giáo trong cách
mạng Việt Nam - Lý luận và thực tiễn (Nxb Lý luận chính trị, 2008); Lê Hữu
Nghĩa - Nguyễn Đức Lữ, Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn
giáo (Nxb Tôn giáo, 2003)…
Về sự biến đổi của tôn giáo, quản lý hoạt động tôn giáo, đấu tranh
chống các hoạt động “tà đạo”, truyền đạo trái phép có công trình như: Nhiều
tác giả, Sự biến đổi của tôn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay (Nxb Thế
giới, 2008); Viện Thông tin Khoa học Xã hội, Tôn giáo và đời sống hiện đại,
Tập III, (Nxb Thông tin Khoa học xã hội - chuyên đề, 1998); Văn Đức Thu,
Kinh nghiệm đấu tranh chống hoạt động truyền đạo trái phép và tà đạo tại
Thành phố Hà Nội (Đề tài nghiên cứu khoa học thuộc Đề án Đấu tranh chống
hoạt động truyền đạo trái phép và tà đạo do Ban Tôn giáo Chính phủ chủ trì,
2005); Ban Tôn giáo Chính phủ, Đề tài nhánh Hoạt động truyền đạo trái phép
của các tổ chức, cá nhân nước ngoài vào Việt Nam - Kiến nghị và giải pháp
(2004)…
7
Bên cạnh đó, còn có rất nhiều các bài báo, các công trình nghiên cứu
chuyên khảo, các bài viết trong các hội thảo về tôn giáo, dân tộc được đăng
tải trên các tạp chí chuyên ngành hoặc các website.
Có thể nói trong các công trình trên mới chỉ tìm hiểu chính sách tôn giáo
của Đảng ở một vài góc độ, khía cạnh nào đó chứ chưa đề cập đến vấn đề này
một cách đầy đủ nhất. Đề tài của tôi sẽ đi sâu nghiên cứu chính sách tôn giáo
của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1986 đến năm 2006, khẳng định sự đúng
đắn trong đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu quá trình hình thành và tiến tới hoàn thiện những
chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề tôn giáo từ năm 1986 đến
năm 2006, rút ra những kinh nghiệm để góp phần xây dựng và thực hiện
chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ngày càng hiệu quả hơn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Dựng lại tình hình đời sống tôn giáo ở nước ta giai đoạn 1975 - 1986
và phân tích những đặc điểm tình hình tôn giáo ở Việt Nam.
- Làm rõ quá trình hình thành, phát triển quan điểm, đường lối và chính
sách của Đảng về tôn giáo. Trong đó tập trung chủ yếu giai đoạn 1986 - 2006.
- Rút ra những ưu điểm, hạn chế và một số bài học kinh nghiệm lịch
sử trong công tác tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của khóa luận là tìm hiểu đường lối, chính sách
của Đảng Cộng sản Việt Nam được nêu lên trong một số văn kiện, nghị quyết
liên quan đến vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
8
Để phục vụ cho đề tài nghiên cứu, khóa luận sử dụng các nguồn tư liệu
sau đây: Trước hết là các văn kiện, các nghị quyết, chỉ thị,…của Đảng; Các
sắc lệnh, thông tư, nghị định, pháp lệnh…của Nhà nước về vấn đề tôn giáo
chủ yếu trong giai đoạn 1986 - 2006. Đáng chú ý trong số tư liệu là những tài
liệu như là Nghị quyết số 40- NQ/TW (1/10/1981) của Ban Bí thư về công tác
đối với các tôn giáo trong tình hình mới, Nghị quyết số 24/NQ- TW, ngày
16/10/1990 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình
mới, Chỉ thị số 37 - CT/TW, ngày 2/7/1998 về công tác tôn giáo trong tình
hình mới…Khóa luận còn sử dụng nguồn thông tin từ các cuốn sách và những
công trình có liên quan bao gồm sách chuyên khảo, lý luận, luận văn hay báo
chí, tập kỷ yếu khoa học, các luận văn, luận án…
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Khóa luận được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học lịch sử, chủ yếu
sử dụng kết hợp phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Ngoài ra còn sử
dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, tổng kết thực tiễn, thống kê, so
sánh…
5. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận đem đến cho người đọc cái nhìn toàn cảnh về quá trình đổi
mới tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo từ năm
1986 đến năm 2006.
Đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong công tác tôn giáo của Đảng
Cộng sản Việt Nam thông qua việc thực hiện chính sách tôn giáo.
Từ đó, rút ra những kinh nghiệm lịch sử quý báu để tôn giáo Việt Nam
phát triển tốt đẹp, hài hòa giữa “Đạo - Đời”, góp phần vào sự nghiệp xây
dựng đất nước xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh.
9
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1. Chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam trước
năm 1986.
Chương 2. Chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm
1986 đến năm 2006.
Chương 3. Nhận xét và một số kinh nghiệm.
10
Chương 1
CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRƯỚC NĂM 1986
1.1. QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ TÔN GIÁO
1.1.1. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo
Tôn giáo là một hiện tượng tinh thần của xã hội và vì vậy, nó là một
trong những hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong những giai
đoạn lịch sử nhất định. Nhưng khác với những hình thái ý thức xã hội khác,
sự phản ánh của tôn giáo đối với hiện thực là sự phản ánh đặc thù, đó là sự
phản ánh “lộn ngược”, “hoang đường” thế giới khách quan.
Với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, tôn giáo là sự phản ánh một
cách biến dạng, sai lệch, hư ảo về giới tự nhiên và con người, về các quan hệ
xã hội. Hay nói một cách khác, tôn giáo là sự nhân cách hóa giới tự nhiên, là
sự “đánh mất bản chất người”. Chính con người đã khoác cho thần thánh
những sức mạnh siêu nhiên khác với bản chất của mình để rồi từ đó con người
có chỗ dựa, được che chở, an ủi - dù đó chỉ là chỗ dựa “hư ảo”.
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến sự phản ánh “hoang đường”, “hư ảo”
của tôn giáo? Tại sao con người lại có nhu cầu tôn giáo và đặt niềm tin lớn lao
và tôn giáo như vậy? Đứng vững trên lập trường duy vật lịch sử, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã luận giải rằng sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo xuất phát từ
hiện thực khách quan và nguồn gốc quan trọng nhất của tôn giáo chính là điều
kiện kinh tế - xã hội. Trong lịch sử tiến hóa của mình trước hết con người có
nhu cầu cải tạo tự nhiên để tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao của mình. Nhưng do trình độ và khả năng cải tạo tự nhiên còn thấp kém,
con người luôn cảm thấy yếu đuối, bất lực trước các hiện tượng tự nhiên và đã
11
gắn cho tự nhiên những sức mạnh siêu nhiên. Đó chính là cơ sở cho sự nảy
sinh các hiện tượng thờ cúng. Đặc biệt, khi xã hội có sự phân chia và áp bức
giai cấp thì các mối quan hệ xã hội ngày càng phức tạp, một bộ phận người
rơi vào tình thế cùng quẫn, bất lực trước các thế lực thống trị. Thêm vào đó,
những yếu tố tự phát, ngẫu nhiên, rủi ro bất ngờ nằm ngoài ý muốn của con
người gây ra cho họ sự sợ hãi, lo lắng, mất cảm giác an toàn. Đó chính là
nguyên nhân khiến con người ta tìm đến và dựa vào sự che chở của tôn giáo.
Cắt nghĩa về nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo, Ph.Ăngghen viết:
trong những thời kỳ đầu của lịch sử chính những lực lượng thiên nhiên là
những cái trước tiên được phản ánh như thế, và trong quá trình phát triển hơn
nữa thì ở những dân tộc khác nhau, những lực lượng thiên nhiên ấy đã được
nhân cách hóa một cách hết sức nhiều vẻ và hỗn tạp…Nhưng chẳng bao lâu,
bên cạnh những lực lượng thiên nhiên lại còn có cả những lực lượng xã hội
tác động - những lực lượng này đối lập với con người, một cách xa lạ lúc đầu
cũng không thể hiểu được đối với họ, và cũng thống trị họ với cái vẻ tất yếu bề
ngoài giống như bản thân những lực lượng tự nhiên vậy. Bàn về vấn đề này,
V.I.Lênin cũng khẳng định: Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc tranh
đấu chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào cuộc đời tốt đẹp ở thế giới
bên kia, cũng giống như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu tranh
chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ và những phép màu.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tôn giáo có nguồn
gốc từ hiện thực và phản ánh chính hiện thực đó - một hiện thực cần có tôn
giáo và có điều kiện để tôn giáo xuất hiện và tồn tại. Trong Phê phán triết học
và pháp quyền của Hêghen, C.Mác đã viết: Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là
biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống lại sự
nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là
trái tim của thế giới không có trái tim, cũng như nó là tinh thần của những trật
12
tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân. Luận điểm trên
của C.Mác đã thể hiện rõ nguồn gốc, bản chất, chức năng của tôn giáo trên
lập trường duy vật lịch sử. Với C.Mác, tôn giáo như là vầng hào quang ảo
tưởng, là những vòng hoa giả đầy màu sắc và đẹp một cách hoàn mỹ, là ước
mơ, là niềm hy vọng và điểm tựa tinh thần vô cùng to lớn cho những số phận
bé nhỏ, bất lực trước cuộc sống hiện thực. Vì trong cuộc sống hiện thực, khi
con người bất lực trước hiện tượng tự nhiên, bất lực trước các hiện tượng áp
bức, bất công của xã hội thì họ chỉ biết “thở dài” và âm thầm nhẫn nhục chịu
đựng. Cũng trong cuộc sống hiện thực ấy, họ không thể tìm thấy “một trái
tim” để yêu thương, che chở nên phải tìm đến một “trái tim” trong tưởng
tượng nơi tôn giáo. Trái tim đó sẽ sẵn sàng bao dung, tha thứ, che chở và tiếp
thêm sức mạnh cho họ để họ có thể vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.
Với luận điểm “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, C.Mác không chỉ
muốn khẳng định tính chất “ru ngủ” hay độc hại của tôn giáo, mà còn nhấn
mạnh đến sự tồn tại tất yếu của tôn giáo với tư cách một thứ thuốc giảm đau,
mà còn được dùng để xoa dịu những nỗi đau trần thế. Thực vậy, người ta dùng
thuốc giảm đau khi người ta bị đau đớn và chừng nào còn đau đớn, thì chừng
đó còn nhu cầu dùng nó. Đó chính là lý do để lý giải tại sao người ta hướng tới,
hy vọng và coi tôn giáo như chiếc “phao cứu sinh” cho cuộc sống của mình,
cho dù đó chỉ là những hạnh phúc ảo tưởng, chỉ là “sự đền bù hư ảo”.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, tôn giáo mặc dù là sự
phản ánh hoang đường, hư ảo hiện thực, là một hiện tượng tiêu cực trong xã
hội nhưng nó không phải không có những yếu tố tích cực. Tôn giáo chỉ là
những “bông hoa giả” tô điểm cho cuộc sống hiện thực đầy xiềng xích.
Nhưng nếu không có “bông hoa giả” ấy thì cuộc sống con người chỉ còn lại
“xiềng xích” mà thôi. Và nếu không có thứ “thuốc giảm đau” ấy thì con người
13
sẽ phải vật vã đau đớn trong cuộc sống hiện thực với đầy rẫy những áp bức,
bất công và bạo lực.
Điều vĩ đại của C.Mác, quan điểm duy vật lịch sử và tính cách mạng
trong học thuyết Mác về tôn giáo chính là chỗ đó. Trong khi các nhà duy vật
vô thần chỉ biết phê phán bản thân tôn giáo thì C.Mác lại không phê phán tôn
giáo mà phê phán chính cái hiện thực đã làm nảy sinh tôn giáo, tức là phê
phán sự áp bức, bất công, bạo lực…trong xã hội đã đẩy con người phải tìm
đến với tôn giáo và ru ngủ mình trong tôn giáo. C.Mác đã nhận thấy rất rõ
quan hệ nhân - quả trong vấn đề này. Vì tôn giáo là một hiện tượng tinh thần
có nguyên nhân từ trong đời sống hiện thực nên muốn xóa bỏ tôn giáo. Theo
C.Mác, vấn đề không phải là “vứt những bông hoa giả” đi mà là xóa bỏ bản
thân “xiềng xích” được trang điểm bởi những bông hoa giả đó để con người
có thể hái những “bông hoa thật” cho mình, tức là tìm kiếm được hạnh phúc
thật sự ngay trong thế giới hiện thực. Từ đó, C.Mác đã khẳng định rằng, muốn
xóa bỏ tôn giáo và giải phóng con người khỏi những thế lực của trần thế, xóa
bỏ chế độ áp bức bất công, nâng cao trình độ nhận thức cho người dân và xây
dựng một xã hội mới không còn tình trạng người bóc lột người, đó là xã hội
cộng sản chủ nghĩa.
Trên lập trường duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin đã kịch liệt
phản đối những hành vi cực đoan, tấn công trực diện vào tôn giáo một cách
thô bạo. Bản thân tôn giáo không có tội và vì vậy, không nên phê phán tôn
giáo mà cần phê phán cái hiện thực đã làm nảy sinh tôn giáo. Như vậy, theo
quan điểm của C.Mác, tôn giáo chỉ thật sự mất đi khi con người ta tự nhận
thức được về bản thân mình, từ bỏ những ảo tưởng thần thánh để quay trở về
với cuộc sống hiện thực.
Phê phán các nhà duy vật vô thần trước đó, chủ nghĩa Mác - Lênin
khẳng định, thật sai lầm nếu cho rằng sẽ đánh tan được những thiên kiến tôn
14
giáo chỉ bằng tuyên truyền, giáo dục hay mệnh lệnh hành chính. Tôn giáo là
một hình thái ý thức xã hội nên về nguyên tắc, nó chỉ được thay đổi khi bản
thân tồn tại xã hội được thay đổi, nó chỉ được giải quyết khi bản thân hiện
thực nảy sinh tôn giáo được cải tạo.
Vì vậy, muốn khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, trước
hết cần phải tạo lập được một thế giới hiện thực không có áp bức, bất công,
nghèo đói, thất học…, một thế giới hiện thực không cần đến “sự đền bù hư
ảo” của tôn giáo mà người ta có thể tìm thấy những hạnh phúc thật sự ngay
trong cuộc sống, một xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh. Đó là một quá
trình cách mạng lâu dài, gian khổ gắn liền với cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới.
Xuất phát từ nhận thức tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
quần chúng nhân dân và đó là nhu cầu hoàn toàn chính đáng. Nhà nước xã hội
chủ nghĩa cần phải tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
không được chống tôn giáo mà chỉ chống những hành vi lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo để chống phá cách mạng, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc.
Tuyệt đối không được nóng vội chủ quan trong việc giải quyết vấn đề tôn
giáo. Về vấn đề này V.I.Lênin nhấn mạnh: Những lời tuyên chiến ầm ĩ với
chủ nghĩa duy tâm, những mệnh lệnh ngăn cấm tín ngưỡng, tôn giáo là những
hành vi dại dột, vô chính phủ, làm cho kẻ thù lợi dụng để kích động tình cảm
tôn giáo của tín đồ, làm cho họ ngày càng gắn bó với tôn giáo, xa lánh thậm
chí đi đến chống lại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đương nhiên, như
vậy không có nghĩa là coi nhẹ việc giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học, thế
giới quan duy vật cho toàn dân, trong đó có những tín đồ tôn giáo, việc làm
đó góp phần nâng cao trình độ kiến thức cho toàn dân.
Tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội, mà còn là một thiết
chế xã hội, nó biến đổi cùng với sự biến đổi của lịch sử. Ở từng thời kỳ lịch
15
sử, vai trò của tôn giáo đối với đời sống xã hội không giống nhau. Quan điểm
thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội
luôn có sự khác biệt. Do đó, cần căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, trong
những điều kiện cụ thể mà Nhà nước xã hội chủ nghĩa xác định thái độ, cách
ứng xử phù hợp.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo
Đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc, tôn trọng và đảm bảo quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo là những nội dung cơ bản
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo.
Hồ Chí Minh cho rằng: “Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết.
Không ai chiến thắng được lực lượng đó”. Đoàn kết toàn dân, trong đó có đoàn
kết dân tộc và tôn giáo là yếu tố cơ bản đưa tới thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Tư tưởng ấy nằm trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh.
Với tinh thần đoàn kết lương giáo, hòa hợp dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tập hợp được đông đảo chức sắc, tín đồ các tôn giáo hết lòng phấn
đấu cho sự nghiệp cứu nước, kiến quốc, từ đó xóa dần những định kiến, mặc
cảm do lịch sử để lại và âm mưu chia rẽ tôn giáo của các thế lực thù địch.
Hồ Chí Minh cho rằng, đoàn kết lương giáo là đoàn kết lâu dài và toàn
diện, là vấn đề chiến lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh có thái độ chân tình, cởi
mở, bao dung và luôn thấu hiểu nỗi trăn trở, suy tư của đồng bào nên Người
đã để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng tín đồ các tôn giáo.
Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và công bố
trước toàn dân ngày 2 - 9 - 1945 đã kế thừa và phát triển giá trị của những tư
tưởng tiến bộ về quyền con người trong các cuộc cách mạng dân chủ tư sản.
Chỉ sau một ngày khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 3 - 9 1945, Hồ Chí Minh đã chủ tọa phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ.
Trong phiên họp này, Chủ tịch đã nêu sáu vấn đề cấp bách cần giải quyết, trong
đó vấn đề thứ sáu là thực hiện “tín ngưỡng tự do và Lương Giáo đoàn kết”.
16
Ngày 9 -11- 1946, Quốc hội khóa I đã thông qua Hiến pháp đầu tiên
của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó ghi nhận: Nhân dân có
quyền “tự do tín ngưỡng”. Ngày 14 - 6 - 1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký
Sắc lệnh 234/SL quy định những hoạt động tôn giáo trong chế độ mới, được
đồng bào theo và không theo tôn giáo nhiệt liệt hoan nghênh và ủng hộ.
Năm 1958, khi trả lời câu hỏi của các cử tri Hà Nội: “Tiến lên chủ
nghĩa xã hội thì tôn giáo có bị hạn chế không?”, Chủ tịch Hồ Chí Minh một
lần nữa nhắc lại thái độ của người cộng sản đối với tôn giáo: “Không. Ở các
nước xã hội chủ nghĩa, tín ngưỡng hoàn toàn tự do. Ở Việt nam ta cũng vậy”.
Người cũng nêu rõ những giá trị đạo đức và văn hóa nhất định của tôn giáo:
Chúa Giêsu dạy: Đạo đức là bác ái.
Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi.
Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa.
Chính những quan điểm đúng đắn ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội và tôn giáo đã bác bỏ luận điệu tuyên truyền rằng: Chủ nghĩa xã
hội không phù hợp với nền văn minh Kitô giáo; chủ nghĩa xã hội hạn chế, thậm
chí không chấp nhận chung sống với tôn giáo…và giải tỏa nỗi lo lắng, ngờ vực
trong cộng đồng Công giáo khi bước vào công cuộc xây dựng xã hội mới.
Hồ Chí Minh thường nhắc nhở đồng bào và chiến sĩ cả nước phải quan
tâm, chăm sóc cuộc sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các tôn giáo.
Mong sao sản xuất ngày càng phát triển, phần xác ta được ấm no thì phần hồn
cũng được yên vui.
Hồ Chí Minh coi tôn giáo là một yếu tố cấu thành và là di sản văn hóa
của nhân loại. Có được sự nhìn nhận ấy phải là con người đã trải qua một quá
trình trải nghiệm trong thực tiễn cách mạng và am hiểu các tôn giáo một cách
tường tận, để từ đó khái quát, chắt lọc những giá trị tinh túy của nó nhằm tiếp
thu, kế thừa.
17
Tôn trọng, chấp nhận sự khác biệt về nhận thức, tư tưởng; tìm ra và
phát huy điểm tương đồng, về mục tiêu, lý tưởng tốt đẹp để cùng nhau hoàn
thiện nhiệm vụ cao cả của cả dân tộc luôn được Hồ Chí Minh chú ý.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu mối quan hệ chặt chẽ giữa tôn giáo với dân
tộc một cách giản dị, dễ hiểu nhưng rất độc đáo và sâu sắc: kính Chúa gắn
liền với yêu nước, phụng sự Thiên chúa và phụng sự Tổ quốc, nước có vinh
thì đạo mới sáng, nước có độc lập thì tín ngưỡng mới được tự do.
Theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đối với người có tôn giáo
thì đức tin tôn giáo và lòng yêu nước không hề mâu thuẫn. Một người dân
Việt Nam có thể vừa là một người dân yêu nước, đồng thời cũng vẫn là một
tín đồ chân chính.
Tôn giáo với dân tộc bao giờ cũng được Hồ Chí Minh xem xét và giải
quyết trên tinh thần của khối đại đoàn kết toàn dân. Tôn giáo chỉ có thể khẳng
định được mình khi sống giữa lòng dân tộc và dân tộc trên con đường phát
triển cần phải biết phát huy những giá trị tích cực của các tôn giáo.
Hồ Chí Minh luôn tỏ lòng kính trọng, ngưỡng mộ các danh nhân của
thế giới, không phân biệt họ thuộc tôn giáo nào, vô thần hay hữu thần, là
người phương Đông hay người phương Tây…Người đã chắt lọc, rút ra những
giá trị tư tưởng lớn lao ở họ để kế thừa và phát triển. Từ Phật Thích Ca
(Siddartha Gautama), Khổng Tử (Confucius), Chúa Giêsu (Jesus Christ) đến
C.Mác (Karl Marx), Tôn Dật Tiên (Sun Yat Tsen)…Hồ Chí Minh đều coi họ
là những vĩ nhân của lịch sử, những bậc thầy mà Người nguyện là người học
trò nhỏ của các vị ấy.
1.2. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
1.2.1. Do những đặc thù về địa lý, dân cư, lịch sử, văn hóa nên tôn giáo ở
Việt Nam hết sức đa dạng và phong phú
Tính đa dạng và phức tạp của tôn giáo ở Việt Nam thể hiện trước hết,
Việt Nam là một quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo cùng tồn tại.
18
Từ các tôn giáo nguyên thủy sơ khai đến các tôn giáo lớn trên thế giới, ngoài ra
còn có các hình thức tôn giáo mới và rất nhiều hình thức thờ cúng khác.
Tôn giáo ở Việt Nam không chỉ phát triển ở vùng người kinh mà còn
phát triển ở vùng dân tộc thiểu số. Cụ thể là cộng đồng người Khơ me theo
Phật giáo Nam tông, hay cộng đồng người Chăm theo Hồi giáo và gần đây là
đạo Tin lành và Công giáo có sự phát triển đột biến ở vùng dân tộc thiểu số
các tỉnh Tây Nguyên, Tây Bắc và một số tỉnh duyên hải miền Trung. Ở Việt
Nam có cả những tôn giáo phương Đông (như Ấn giáo, Phật giáo…) và cũng
có cả những tôn giáo của phương Tây (như Công giáo, Tin lành…), có những
tôn giáo được du nhập từ ngoài vào như Phật giáo, Công giáo và cũng có
những tôn giáo nội sinh như đạo Cao Đài, đạo Hòa Hảo.
Trong các tôn giáo ở Việt Nam, có tôn giáo đã được Nhà nước công
nhận tư cách pháp nhân (như Công giáo, Phật giáo, Hồi giáo, một số hệ phái
Tin lành…), có tôn giáo chưa từng thừa nhận (như Ấn giáo, một số hệ phái
Cao Đài, một số hệ phái Tin lành,…).
Hiện nay, ở Việt Nam có những tôn giáo đã ổn định về tổ chức, mọi
sinh hoạt tôn giáo được thực hiện theo hiến chương mới với đường hướng đạo
tiến bộ; có tôn giáo chưa ổn định về tổ chức và đang trong quá trình hoàn
thiện hiến chương và đường hướng hành đạo.
1.2.2. Tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam có tính đan xen, hòa đồng và sự
khoan dung trong sinh hoạt tôn giáo
Tính đan xen, hòa đồng thể hiện ở sự tồn tại hòa bình của nhiều loại
hình tín ngưỡng, tôn giáo trong đời sống tinh thần của người Việt. Trong lịch
sử, người Việt đã từng tiếp nhận nhiều tôn giáo như Đạo giáo hay Khổng giáo
từ Trung Hoa xuống; Ấn giáo hay Phật giáo từ Ấn Độ sang…Ngày nay là cả
những tôn giáo du nhập từ phương Tây như Công giáo hay Tin lành,…
19
Tính đan xen, hòa đồng thể hiện ở sự hiện diện của nhiều loại thần,
thánh, tiên, phật…trên điện thờ của một số tôn giáo lớn như điện thờ Phật
giáo Đại thừa, mà điển hình hơn cả là điện thờ của đạo Cao Đài.
Tính đan xen hòa đồng thể hiện ở tâm thức đa thần giáo của người Việt.
Có thể thấy, ở người Việt Nam, một cá nhân cũng có thể tham gia nhiều hành
vi tôn giáo khác nhau.
Tính đan xen hòa đồng còn thể hiện ở một số giáo sĩ, chức sắc các tôn
giáo thông hiểu, am tường giáo lý của nhiều tôn giáo khác nhau.
1.2.3. Tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam luôn thần thánh hóa những người
có công với nước, với dân
Việt Nam là một quốc gia luôn phải chống chọi với thiên nhiên khắc
nhiệt, đặc biệt là đấu tranh chống lại nạn ngoại xâm, do đó các vị thánh thần
được người Việt tôn thờ phải là những người có công với nước, với dân
(ngoại trừ một số ít các vị thần của Đạo giáo hay Phật giáo…). Vì vậy, từ xa
xưa ở Việt Nam đã hình thành một hệ thống tín ngưỡng tôn giáo tương ứng
với mối quan hệ giữa nhà - làng - nước, đó là thờ cúng Tổ tiên trong gia đình,
dòng họ; thờ cúng thần Thành hoàng của làng; và thờ vua Hùng - Tổ chung
của cả dân tộc.
Trong thời gian gần đây, những người có công lao to lớn trong chống
Pháp, chống Mỹ cũng được quần chúng nhân dân tạc tượng, thờ phụng, trong
đó có cả những người cộng sản (Nguyễn Văn Trỗi, các cô gái Đồng Lộc…).
1.2.4. Tín đồ tôn giáo ở Việt Nam khá đông nhưng đa số là nhân dân lao
động, trong đó chủ yếu là nông dân, vốn có tinh thần yêu nước, có niềm
tin tôn giáo và có nhu cầu sinh hoạt tôn giáo bình thường
Theo thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ, tín đồ tôn giáo ở Việt Nam
khá đông, hiện nay cả nước có khoảng hơn 20 triệu tín đồ của 6 tôn giáo,
chiếm 25% dân số.
20
- Xem thêm -