BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
Lê Ngọc Hằng
CHÍNH SÁCH CỦA CÁC NƯỚC ĐỒNG MINH HOA
KỲ VÀ ANH ĐỐI VỚI ĐÔNG DƯƠNG GIAI ĐOẠN
1941 – 1946 (QUA TRƯỜNG HỢP VIỆT NAM)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
Lê Ngọc Hằng
CHÍNH SÁCH CỦA CÁC NƯỚC ĐỒNG MINH HOA
KỲ VÀ ANH ĐỐI VỚI ĐÔNG DƯƠNG GIAI ĐOẠN
1941 – 1946 (QUA TRƯỜNG HỢP VIỆT NAM)
Chuyên ngành : Lịch sử thế giới
Mã số
: 60 22 03 11
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ PHỤNG HOÀNG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu do tôi thực hiện.
Kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn chưa từng công bố ở
các công trình nghiên cứu khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Lê Ngọc Hằng
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Khoa học Công nghệ - Sau Đại học, quý thầy
cô Khoa Sử cùng tất cả các anh chị em học viên đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn
thành luận văn.
Tôi xin đặc biệt tỏ lòng kính trọng và biết ơn Tiến sĩ Lê Phụng Hoàng,
Thầy đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn cho tôi trong quá trình học tập, nghiên
cứu và thực hiện luận văn này.
Tuy chỉ được nghiên cứu trong thời gian ngắn nhưng với sự giúp đỡ tận
tình của quý thầy cô, sự hỗ trợ của bạn bè, đồng nghiệp, sự cố gắng của bản
thân, tôi đã có điều kiện tiếp thu được kiến thức và phương pháp nghiên cứu vô
cùng quý báu.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh ngày 20 tháng 9 năm 2014
Lê Ngọc Hằng
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
DẪN LUẬN .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài ......................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................5
4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................5
5. Đóng góp của đề tài ..............................................................................................6
6. Mục tiêu của đề tài ................................................................................................7
7. Cấu trúc của đề tài.................................................................................................7
Chương 1. LẬP TRƯỜNG CỦA HOA KỲ VÀ ANH ĐỐI VỚI ĐÔNG
DƯƠNG TRƯỚC CUỘC CHIẾN TRANH THÁI BÌNH DƯƠNG............... 8
1.1. Nhật Bản xâm chiếm Đông Dương ...................................................................8
1.1.1. Vai trò của Đông Dương đối với phát xít Nhật .................................... 8
1.1.2. Sự thỏa thuận Nhật - Pháp .................................................................. 13
1.2. Phản ứng của Hoa Kỳ trước những họat động xâm chiếm Đông Dương của
Nhật ........................................................................................................................ 16
1.2.1. Chủ nghĩa biệt lập ............................................................................... 16
1.2.2. Hoa Kỳ đề nghị “trung lập hóa” Đông Dương ................................... 23
1.3. Anh hợp tác với Pháp nhằm duy trì quyền lực ở các thuộc địa Đông Nam Á
................................................................................................................................ 27
TIỂU KẾT .......................................................................................................... 29
Chương 2. CHÍNH SÁCH CỦA CÁC NƯỚC ĐỒNG MINH HOA KỲ VÀ
ANH ĐỐI VỚI ĐÔNG DƯƠNG TRONG CHIẾN TRANH THÁI BÌNH
DƯƠNG (ĐẾN NGÀY 9.3.1945) ...................................................................... 31
2.1. Tổng thống Roosevelt chủ trương đặt Đông Dương dưới sự ủy trị quốc tế
(International Trusteeship)..................................................................................... 31
2.2. Phản ứng của Anh đối với chủ trương của Hoa Kỳ....................................... 42
TIỂU KẾT .......................................................................................................... 54
Chương 3. CHÍNH SÁCH CỦA CÁC NƯỚC ĐỒNG MINH HOA KỲ VÀ
ANH ĐỐI VỚI ĐÔNG DƯƠNG TỪ KHI NHẬT ĐẢO CHÍNH PHÁP
(ĐẾN 3.1946) ...................................................................................................... 55
3.1. Từ khi Nhật đảo chính Pháp đến Hội nghị Potsdam ..................................... 55
3.1.1. Nhật đảo chính Pháp ........................................................................... 55
3.1.2 Chính phủ Hoa Kỳ thay đổi chính sách đối với Đông Dương ............ 61
3.1.3. Anh xúc tiến kế hoạch hỗ trợ Pháp quay lại Đông Dương ................. 66
3.2. Từ sau Hội nghị Potsdam đến 3.1946 ............................................................ 69
3.2.1. Hoa Kỳ công nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương và khước từ
công nhận chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ..................................... 69
3.2.2. Anh hỗ trợ Pháp tái lập quyền lực ở Đông Dương ............................. 83
TIỂU KẾT .......................................................................................................... 86
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 92
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 97
1
DẪN LUẬN
1. Lý do chọn đề tài
Chọn vấn đề “Chính sách của các nước Đồng minh Hoa Kỳ và Anh đối
với Đông Dương giai đoạn 1941 – 1946 (Qua trường hợp Việt Nam)”, tôi xuất
phát từ những căn cứ sau:
Trước hết, Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945) đã để lại những hậu
quả hết sức nặng nề trong lịch sử nhân loại. Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương
là một trong những bộ phận hợp thành cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai,
diễn ra trên bình diện lớn, gồm nhiều cường quốc tham gia và có ảnh hưởng tới
vận mệnh của đa số các quốc gia trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Sau
khi Nhật tấn công Trân Châu Cảng, Hoa Kỳ chính thức tham chiến đứng về phía
các nước đồng minh chống phát xít Đức – Italia - Nhật. Lúc này, Đông Dương
thuộc Pháp trước hết là Việt Nam được Nhật xem là cửa ngõ xâm nhập vào Hoa
Nam, hậu phương của quân đội Trung Hoa Dân quốc; là bàn đạp cho cuộc chiến
tranh xâm lược ở Đông Nam Á. Đông Dương đồng thời được Hoa Kỳ lựa chọn
như là một điểm trong kế hoạch phản công Nhật.
Thứ hai, trên cơ sở tìm hiểu những chính sách của các nước Đồng minh
Hoa Kỳ và Anh đối với Đông Dương qua trường hợp Việt Nam, chúng ta có thể
thấy được những tác động của những chính sách đó đối với tình hình cùng
những chuyển biến của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1941 – 1946, đặc
biệt là thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 đưa đến sự ra đời của nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử dân tộc –
kết thúc gần 100 năm đô hộ của thực dân Pháp đối với Việt Nam. Nhưng cũng
do thái độ của Hoa Kỳ và Anh đã tạo điều kiện cho Pháp quay trở lại Việt Nam
và nhân dân Việt Nam tiếp tục cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp.
2
Thứ ba là xuất phát từ nhu cầu của bản thân, mong muốn được mở rộng
kiến thức, có điều kiện tìm hiểu sâu sắc vấn đề phục vụ cho việc giảng dạy ở
trường phổ thông.
Chính vì vậy, tôi đã chọn vấn đề “Chính sách của các nước Đồng minh
Hoa Kỳ và Anh đối với Đông Dương giai đoạn 1941 – 1946 (Qua trường hợp
Việt Nam)” để làm đề tài nghiên cứu
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Đã có một số công trình, bài viết nghiên cứu về chính sách, mối quan hệ
của các nước Đồng minh đối với Đông Dương, cụ thể là Việt Nam ở những giai
đoạn khác nhau
- Trần Hữu Đính, Lê Trung Dũng (1997), Quan hệ Việt – Mỹ trong Cách
mạng tháng Tám, NXB Khoa học xã hội. Tác giả đã cung cấp những tư liệu để
giúp chúng ta hiểu thêm về quan hệ Việt – Mỹ, những bước dính líu đầu tiên của
Mỹ vào Việt Nam và Đông Dương
- Phan Văn Hoàng (2004), Việt Nam trong chính sách của Mỹ (19401956), Luận án Tiến sĩ lịch sử, Mã số 50315, Thư viện trường Đại học Sư phạm,
TP.HCM. Đây là một công trình nghiên cứu về chính sách của Mỹ đối với Việt
Nam trong 16 năm với những sách lược khác nhau, làm rõ vị trí của Việt Nam
trong chính sách của Hoa Kỳ, để có thể thấy rõ bản chất xâm lược và âm mưu
của Mỹ đối với Việt Nam. Qua đó góp phần lý giải vì sao Mỹ thua trong cuộc
chiến tranh Việt Nam sau này
- Dixee R. Bartholomew-Feis (2008), OSS và Hồ Chí Minh, Đồng minh
bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật, Lương Lê Giang dịch, NXB Thế
Giới- Công ty Văn hóa và Truyền thông Võ Thị. Đây là một công trình nghiên
cứu về lịch sử quan hệ Việt - Mỹ trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, đường
lối của hai dân tộc Việt và Mỹ gặp nhau trong một thời khắc ngắn ngủi - một
3
thời khắc vừa nguy hiểm lại vừa đầy hứa hẹn đối với tương lai của cả hai nước.
Tác phẩm cũng trình bày một cách khái quát tình hình nước Mỹ, tình hình Việt
Nam và lịch sử của cuộc Cách mạng tháng Tám 1945, cuốn sách cũng tiết lộ
nguồn gốc và mục đích của Việt Minh cũng như vị trí của họ trong mối quan hệ
với Đồng Minh
- Là một sĩ quan tình báo Mỹ, Archimedes Patti tác giả của cuốn sách
“Tại sao Việt Nam” xuất bản năm 1995 đã trình bày thẳng thắn các sự kiện đúng
như những gì đã diễn ra và được tác giả ghi lại theo dòng thời gian, cung cấp
một nguồn sử liệu quí giá về quá khứ liên quan đến cuộc Cách mạng tháng Tám
và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng thời tác giả cũng đưa ra lời giải đáp cho câu
hỏi: “Tại sao nước Mỹ đã từng sát cánh với những người cách mạng, những
người cộng sản Việt Nam trên một trận tuyến chung chống chủ nghĩa phát xít”
- Gary R. Hess, Franklin Roosevelt and Indochina, The Journal of
American History, Vol.59, No.2 (Sep..,1972) 353 – 368 – Tổng thống Roosevelt
muốn thiết lập một chế độ ủy trị đối với Đông Dương nhưng đã vấp phải sự
phản đối của các nước Đông minh Anh và Pháp.
- Một công trình nghiên cứu ở nước ngoài đã cung cấp những tư liệu quí
giá về cuộc Cách mạng tháng Tám là tác phẩm “Vietnam 1945: the Quest for
Power” được xuất bản năm 1995 tại Mỹ, David G.Marr tái hiện lịch sử một cách
chân thực nhất theo góc nhìn từ dưới lên (bottom-up), trình bày về cuộc tổng
khởi nghĩa giành chính quyền của nhân dân Việt Nam vào mùa thu năm 1945
một cách sinh động, cụ thể và khá chân thực. Với tác phẩm này, lần đầu tiên
cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 được trình bày một cách sáng tỏ và đây
chính là sự nghiệp đấu tranh của quần chúng.
- Stein Tonnesson (2002), Franklin D.Roosevelt and French loss of
Indochina 9, March 1945, International Peace Research Institute, Oslo (PRIO).
Sự kiện Nhật đảo chính Pháp vào ngày 9.3.1945 đã tác động mạnh mẽ đến lịch
sử Việt Nam và thế giới, cuộc Cách mạng tháng Tám thành công dẫn đến sự ra
4
đời của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tác giả cũng cho thấy những
toan tính và thay đổi trong chính của Tổng thống Roosevelt đối với Đông
Dương.
- Sanford B. Hunt, IV, B.A (2004), Dropping the baton: decisions in
United States policy on Indochina, 1943-1945. Tác phẩm đã đề cập đến ý định
tái lập quyền lực của Pháp ở Đông Dương và luôn nhận được sự đồng tình, ủng
hộ của Anh, đặc biệt là sự thay đổi trong chính sách của Hoa Kỳ đối với Đông
Dương cụ thể là Việt Nam từ thời Tổng thống Roosevelt đến Tổng thống Harry
S.Truman trong khoảng thời gian 1943 – 1945.
- T. O. Smith, Britain and the Origins of the Vietnam War: UK Policy in
Indo-China 1943-1950 (Palgrave Macmillan, 2007). Tác phẩm đã đề cập đến
chính sách ngoại giao của Anh, sự can thiệp khéo léo của Anh. Nó không chỉ
làm sáng tỏ nguồn gốc chiến tranh Việt Nam mà còn nói đến lợi ích của Anh ở
khu vực Đông Nam Á, vai trò quan trọng của Anh trong giai đoạn đầu tiên của
cuộc chiến tranh Đông Dương. Qua đó, tác phẩm cũng thể hiện được mối quan
hệ giữa Anh – Pháp và sự phát triển của “mối quan hệ đặc biệt” giữa Anh – Hoa
Kỳ.
- T. O. Smith (2011), Churchill, America and Vietnam, 1941–1945,
Associate Professor of History, Huntington University, USA. Tác giả đã làm rõ
vai trò của nước Anh trong nguồn gốc của chiến tranh Việt Nam, sự trở lại của
Pháp tại Việt Nam. Đồng thời tác phẩm cũng cho thấy sự thay đổi trong quan
điểm của Mỹ về chính sách đối với Đông Dương thuộc Pháp. Và những chính
sách của Anh cũng bị chi phối bởi mối quan hệ với Mỹ.
5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những chính sách của các nước Đồng minh cụ
thể là chính sách của Hoa Kỳ và Anh đối với Đông Dương qua trường hợp Việt
Nam trong giai đoạn 1941 – 1946.
Chọn Hoa Kỳ và Anh vì sự khác biệt trong trong chính sách của hai nước
đối với Đông Dương. Hoa Kỳ muốn loại bỏ vai trò của thực dân Pháp, còn Anh
lại muốn duy trì vai trò của Pháp. Tại sao lại có sự khác biệt này?.
Nghiên cứu qua trường hợp Việt Nam vì lúc này Đông Dương thuộc Pháp
bao gồm Việt Nam, Lào và Campuchia nhưng nói đến Đông Dương là nói đến
Việt Nam và ngược lại. Bởi Việt Nam bao gồm Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ với
hơn 44,5% diện tích và hơn 83,5% dân số là yếu tố quan trọng nhất.
Chọn giai đoạn chính (1941 – 1946) vì sau khi Chiến tranh thế giới thứ
hai bùng nổ thì Hoa Kỳ đến năm 1941 mới chính thức tham chiến sau khi Nhật
tấn công Trân Châu Cảng và có những thay đổi trong chính sách đối với Đông
Dương. Đến năm 1946 việc Đồng Minh chiếm đóng Đông Dương được coi như
chấm dứt, và các lực lượng Pháp chiếm đóng tất cả các thành phố lớn ở Việt
Nam, các vấn đề trong chính sách của Hoa Kỳ đối với Việt Nam sau đó đã
chuyển từ bối cảnh một chính sách trong chiến tranh sang phạm vi mối quan hệ
Hoa Kỳ và Pháp.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đảm bảo tính khách quan trong cách trình bày và nhận định các vấn
đề, người viết đã sử dụng những phương pháp chuyên ngành như:
- Phương pháp lịch sử, phương pháp logic
- Phương pháp so sánh, phân tích và đánh giá
6
5. Đóng góp của đề tài
Nghiên cứu chính sách của các nước Đồng minh Hoa Kỳ và Anh đối với
Đông Dương qua trường hợp Việt Nam trong giai đoạn 1941 – 1946 nhằm thu
thập và hệ thống các nguồn tài liệu, góp phần làm rõ bản chất của các nước đế
quốc về vấn đề thuộc địa, cả Hoa Kỳ và Anh đều xuất phát từ lợi ích quốc gia và
nhằm khẳng định vị thế của mình trong và sau khi chiến tranh kết thúc. Cả Hoa
Kỳ và Anh đều hiểu được “mong muốn” của nhau nên trong mối quan hệ đồng
minh thì vấn đề là theo đuổi chính sách nào để bảo vệ lợi ích của mỗi quốc gia.
Cho nên khi tình hình thay đổi, Hoa Kỳ lập tức điều chỉnh, thay đổi chính sách
đối với Đông Dương. Tổng thống Roosevelt từng lên án chế độ cai trị của thực
dân Pháp ở Đông Dương, không muốn Pháp tái lập chủ quyền ở Đông Dương
khi chiến tranh kết thúc và đề nghị đặt Đông Dương dưới chế độ ủy trị. Nhưng
khi Hoa Kỳ cần sự hỗ trợ của Anh và Pháp trong cuộc đối đầu với Liên Xô thì
Tổng thống Roosevelt đã cho Pháp tham gia vào ủy trị quốc tế ở Đông Dương
và sau đó đồng ý chỉ đặt Đông Dương dưới chế độ ủy trị quốc tế nếu Pháp tự
nguyện làm điều đó. Đến khi Tổng thống Truman lên thay đã ủng hộ Pháp quay
trở lại Việt Nam. Cho nên những ý tưởng hay lời hứa hoa mĩ đều không có ý
nghĩa.
Và tất nhiên tìm hiểu chính sách của Hoa Kỳ và Anh đối với Việt Nam để
thấy được tác động của những chính sách này đến tình hình Việt Nam, dưới sự
lãnh đạo của Đảng và Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã tận dụng thời cơ
“ngàn năm có một” để tiến hành Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám thành
công dẫn đến sự ra đời của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Những chính
sách của Hoa Kỳ và Anh đối với Việt Nam trong giai đoạn 1941 – 1946 cũng
giúp chúng ta lý giải được một phần tại sao Hoa Kỳ can thiệp vào Việt Nam sau
khi nhân dân ta kháng chiến chống Pháp thành công. Để có thể hiểu được rằng:
Nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình khó khăn gian khổ trong cuộc đấu
7
tranh giành độc lập, sau kháng chiến chống Pháp là đấu tranh chống đế quốc Mỹ
xâm lược.
6. Mục tiêu của đề tài
Nghiên cứu đề tài nhằm khái quát được những nét cơ bản nhất trong chính
sách của các nước Hoa Kỳ và Anh. Qua đó có thể khẳng định rằng: tuy là đồng
minh chống phát xít, nhưng mỗi nước có những “ý đồ” khác nhau và một nơi
thể hiện điều đó là Đông Dương trong giai đoạn 1941 – 1946, qua trường hợp
Việt Nam. Tùy từng thời điểm, sự thay đổi của tình hình trong nước và thế giới,
các nước đồng minh đã điều chỉnh và thay đổi chính sách của họ đối với Việt
Nam để đảm bảo lợi ích một cách toàn diện nhất. Trong bối cảnh, Hoa Kỳ và
Anh theo đuổi những kế hoạch khác nhau đối Đông Dương, Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm bắt được những điều kiện thuận lợi
cho cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc đưa đến sự thành công của Cách
mạng tháng Tám 1945.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần dẫn luận, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phần phụ lục,
luận văn có ba chương với những nội dung chính:
-
Chương 1: Lập trường của Hoa Kỳ và Anh đối với Đông Dương
trước cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương
-
Chương 2: Chính sách của các nước Đồng minh Hoa Kỳ và Anh
đối với Đông Dương trong Chiến tranh Thái Bình Dương (đến ngày 9.3.1945)
-
Chương 3: Chính sách của Hoa Kỳ và Anh đối với Đông Dương từ
khi Nhật đảo chính Pháp (đến 3.1946)
8
Chương 1
LẬP TRƯỜNG CỦA HOA KỲ VÀ ANH ĐỐI VỚI ĐÔNG DƯƠNG
TRƯỚC CUỘC CHIẾN TRANH THÁI BÌNH DƯƠNG
1.1. Nhật Bản xâm chiếm Đông Dương
1.1.1. Vai trò của Đông Dương đối với phát xít Nhật
Nhật Bản là một quốc gia nghèo về tài nguyên thiên nhiên và trong bối
cảnh, hầu hết các nước Châu Á ở những mức độ khác nhau đều phụ thuộc hoặc
trở thành thuộc địa của chủ nghĩa thực dân phương Tây thì với cuộc cải cách
Minh Trị Duy tân 1868, Nhật Bản là nước duy nhất ở Châu Á thoát khỏi số phận
một nước thuộc địa hay phụ thuộc, tiến theo con đường tư bản chủ nghĩa. Là đế
quốc “sinh sau đẻ muộn”, chủ nghĩa tư bản Nhật ra đời và lớn mạnh vào thời kỳ
nhiều nước tư bản đang chuyển sang giai đoạn đế quốc. Ở phương Đông, hầu
như thị trường thuộc địa đã phân chia xong. Vì vậy, để tranh giành khu vực ảnh
hưởng, giới tư bản Nhật, một mặt ra sức tăng cường bóc lột nhân dân trong
nước, mặt khác tiến hành các cuộc chiến tranh thôn tính. Sau hai cuộc chiến
tranh với Trung Hoa (1894 – 1895) và Nga (1904 – 1905), Nhật Bản đã trở
thành một đế quốc ở Á Đông. Với thắng lợi này, vị thế của Nhật Bản trên trường
quốc tế được nâng lên. Và cũng chính từ chiến thắng oanh liệt này, người Nhật
đủ tự tin bắt đầu toan tính đến việc bành trướng, tham gia vào cuộc giành giật thị
trường, cạnh tranh lợi ích với các cường quốc phương Tây ở Châu Á. Nước
Nhật với cuộc cải cách Minh Trị Duy tân đã trở thành “anh cả da vàng”, một
tấm gương cho nhiều nước lân bang noi theo, hướng tới con đường cải cách, tự
cường dân tộc… Hơn thế nữa, nhiều sĩ phu yêu nước từ Trung Quốc, Ấn Độ,
Inđônêxia… đã đến Nhật với mong muốn tìm kiếm sự hậu thuẫn của người “anh
cả” này cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của họ. Đây chính là bối cảnh
9
lịch sử đã dẫn Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh và nhiều chí sĩ Việt Nam đến
Nhật vào những năm 1905-1908. Trong bối cảnh đó, lần đầu tiên, chính giới
Nhật Bản “để mắt” tới Việt Nam, lúc đó đang là thuộc địa của Pháp nằm trong
Liên bang Đông Dương.
Tuy vậy cho đến giữa những năm 1930, sự lưu tâm của Nhật Bản đối với
xứ Đông Dương vẫn chưa đậm nét. Chỉ từ khi chính phủ quân phiệt Nhật bắt tay
vào việc chuẩn bị kế hoạch bành trướng, phát động chiến tranh xâm lược ở Châu
Á thì xứ Đông Dương thuộc Pháp mới được họ thực sự quan tâm đặc biệt.
Tháng 7 năm 1937, Nhật Bản phát động cuộc chiến tranh xâm lược toàn Trung
Quốc. Chỉ sau một thời gian ngắn, quân Nhật nhanh chóng tiến xuống phía
Nam. Tháng 10 năm 1938, quân Nhật chiếm được Quảng Châu, áp sát biên giới
Việt – Trung. Cũng chính từ thời điểm này quân Nhật chính thức đặt vấn đề xâm
lược Đông Dương.
Đối với phát xít Nhật, việc chiếm Đông Dương vào thời điểm lúc bấy giờ
đóng vai trò then chốt - “chìa khoá” thành công cho mọi nỗ lực tiến hành chiến
tranh ở Châu Á. Cụ thể là, Bắc Việt Nam với tuyến đường sắt Hải Phòng – Hà
Nội – Vân Nam là một trong hai huyết mạch giao thông chính cung cấp viện trợ
quân sự từ các nước đồng minh cho chính phủ Trùng Khánh của Tưởng Giới
Thạch. Bởi theo cách nhìn của giới cầm quyền Tôkyô thì “dây rốn của chính
quyền Trùng Khánh chạy dài tới Anh và Hoa Kỳ”. Chính giới Nhật Bản cho
rằng để đánh gục sự kháng cự của Trùng Khánh thì phải bằng mọi giá cắt đứt
tuyến đường viện trợ này. Bên cạnh đó, mục đích không kém phần quan trọng
của quân đội Nhật khi chiếm Đông Dương chính là tạo ra một bàn đạp chiến
lược cho các bước tiến công xâm lược tiếp theo. Một “điểm tựa” tối ưu để “phía
Bắc đánh Hoa Nam, Đông đánh Phi Luật Tân, Nam đánh Mã Lai, Inđônêxia,
Australia và Tây đánh Mianma, Ấn Độ”. Đây chính là một trong những nhân tố
10
giúp quân Nhật chiếm lĩnh vị trí “thượng phong” trên chiến trường Châu Á –
Thái Bình Dương tính đến năm 1943.
Tuy nhiên việc thực hiện âm mưu xâm lược Đông Dương của giới quân
phiệt Nhật vấp phải nhiều cuộc tranh luận gay gắt dẫn tới mối bất hoà sâu sắc
trong nội bộ giới lãnh đạo Tôkyô về phương thức xâm chiếm Đông Dương.
Trong khi giới quan chức ngoại giao chủ trương xâm chiếm Đông Dương một
cách hoà bình, tức là tìm cách đạt được các mục đích nói trên bằng các biện
pháp ngoại giao, thì giới lãnh đạo quân sự muốn tấn công Đông Dương, thủ tiêu
nền thống trị của thực dân Pháp và đặt Đông Dương dưới sự thống trị trực tiếp
của Nhật, nghĩa là bằng biện pháp quân sự. Mặc dù hai phương án nói trên khác
nhau căn bản về thủ đoạn, nhưng lại đồng nhất với nhau trong mục đích cuối
cùng: bành trướng chiến tranh ở Châu Á.
Tháng 9.1940, quân Nhật kéo vào Bắc Đông Dương, tiếp đó giúp đội
quân Thái Lan đánh Campuchia, rồi ép Pháp phải nhường đất cho Thái Lan.
Chính phủ thuộc địa Pháp ở Đông Dương ký hiệp định 23.9.1940 và các hiệp
định tiếp theo chấp nhận yêu cầu của Nhật chiếm đóng Đông Dương. Từ đó,
nhân dân Đông Dương sống dưới ách thống trị “một cổ hai tròng” của Pháp –
Nhật và thực dân Pháp trở thành “con chó giữ nhà” cho Nhật. Năm 1941, quân
đội Nhật tiếp tục chiếm đóng ở nhiều cứ điểm khác nhau của miền Nam Đông
Dương.
Tuy nhiên, tùy thuộc vào diễn biến cuộc chiến tranh Thái Bình Dương mà
trong mỗi giai đoạn cụ thể Đông Dương giữ vai trò khác nhau trong chiến lược
chiến tranh của Nhật Bản và do đó chính sách của Nhật đối với Đông Dương
cũng thay đổi theo. Trước trận Trân Châu Cảng, đối với Nhật, Đông Dương có ý
nghĩa như một căn cứ hậu cần và một căn cứ quân sự, từ đó có thể tấn công
Trung Quốc. Sau trận Trân Châu Cảng, Đông Dương vừa tiếp tục giữ vai trò là
11
căn cứ hậu cần chiến lược, vừa là bàn đạp tấn công Đông Nam Á. Tuy vậy, từ
giữa năm 1943, hình thái chiến tranh thay đổi, khi quân đội Đồng Minh bắt đầu
chuyển sang phản công, đẩy phe Trục nói chung và quân đội Nhật nói riêng vào
thế bị động, từng bước bị đẩy lùi trên khắp các chiến trường thì vị trí của Đông
Dương trong chiến lược chiến tranh của Nhật bắt đầu thay đổi. Đặc biệt là sau
khi quân Nhật bị thất bại nặng nề cả trên chiến trường Philippin (4.1945), Miến
Điện (5.1945) và trước nguy cơ thực dân Pháp ở Đông Dương tiến hành “kháng
chiến” chống Nhật khi quân Đồng Minh đổ bộ vào thì Đông Dương trở thành
“cầu nối chiến lược” có tầm quan trọng sống còn, nối liền quân Nhật trên lục địa
Châu Á với lực lượng hải quân ở Đông Nam Á. Nếu mất “cây cầu này” thì
không những toàn bộ quân Nhật ở Đông Nam Á sẽ bị đánh tan mà các cánh
quân Nhật ở Hoa Nam cũng rơi vào tình thế bị bủa vây. Chính vì thế mà quân
Nhật buộc phải giữ Đông Dương bằng mọi giá. Cho nên Nhật đã tiến hành đảo
chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương vào đêm 9.3.1945, nhằm độc chiếm xứ
thuộc địa này.
Có thể thấy rằng: Đầu những năm 1940, Đông Dương đã trở thành một tụ
điểm cho các hoạt động chính trị quốc tế tại miền tây Thái Bình Dương. Vị trí
địa chính trị của Đông Dương là rất quan trọng đối với Nhật Bản. Đông Dương
là con đường đi miền Nam Trung Quốc, nơi mà người Nhật đang chiến đấu. Một
số lượng quan trọng vật tư được chuyển đến Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch
qua Đông Dương. Đông Dương cũng là một con đường không thể thiếu để
người Nhật tiến về phần còn lại của Đông Nam Á trong tương lai.
Khi đặt vấn đề xâm lược Đông Dương, giới cầm quyền Tôkyô không chỉ
xem Đông Dương là vị trí “chiến lược quan trọng”, có thể xâm nhập vào Trung
Quốc từ phía Nam và mở rộng xâm lược xuống vùng Đông Nam Á nhằm gạt bỏ
những ảnh hưởng của các nước phương Tây khỏi khu vực này mà còn xem xứ
12
sở này là nơi cung cấp tài nguyên phục vụ chiến tranh, trong đó chủ yếu là thóc
gạo. Đông Dương, trong đó có Việt Nam được gọi là “bát cơm của Châu Á”,
ngoài cây lúa còn có nhiều loại cây công nghiệp và khoáng sản “khu vực giàu có
về lúa gạo, cao su, than đá và quặng sắt”[18, tr 192]. Qua đó, chúng ta thấy rằng
Đông Dương thuộc Pháp trong Thế chiến thứ hai đã giúp cho Nhật tạo ra một bệ
đỡ vật chất quan trọng cho các nỗ lực chiến tranh của nước Nhật tại Châu Á.
Quân phiệt Nhật Bản trong kế hoạch bành trướng, làm chủ Châu Á đã chọn
Đông Dương làm căn cứ chiến lược. Vì vậy, ngay từ đầu chính giới Nhật tìm
mọi cách nắm giữ cho được vị trí này. Ngoài ra, Đông Dương còn là nơi cung
cấp tiềm lực cho chiến tranh của Nhật ở Châu Á – Thái Bình Dương. Do vậy,
khi Nhật chiếm được Đông Dương, phát xít Nhật đã thực hiện ở đây một chính
sách thuộc địa thực sự, cuốn xứ sở này vào guồng máy chiến tranh của Nhật.
Nhân dân Đông Dương phải chịu cảnh “một cổ hai tròng” dưới ách thống trị của
Pháp - Nhật.
Đông Dương có vị trí kinh tế, quân sự như thế nào đối với Nhật thì
nó
cũng có ý nghĩa quan trọng như thế đối với các nước Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Trung
Quốc. Với Hoa Kỳ, từ năm 1941 khi Nhật nhảy vào Việt Nam, địa bàn này trở
thành mối quan ngại đặc biệt của Tổng thống Roosevelt vì chiếm được Việt
Nam sẽ có được một căn cứ quan trọng mở rộng ra khắp Đông Nam Á và vơ vét
nguồn cao su mà nền công nghiệp này rất cần. Cho nên cả Nhật Bản và Hoa Kỳ
đều có ý định chiếm lấy xứ Đông Dương. Ngày 19.7.1941, Đại sứ Hoa Kỳ tại
Pháp đã truyền đạt trực tiếp cho thống chế Petain quan điểm của Tổng thốn
Roosevelt, tuyên bố rằng, nếu Nhật thắng, họ sẽ chiếm xưa Đông Dương, nhưng
nếu quân Đồn mình thắng thì Mỹ sẽ chiếm Đông Dương [24, tr 87]. Anh và
Trung Quốc càng quan tâm về vị trí chính trị của khu vực này bởi Ấn Độ thuộc
Anh nằm gần Đông Dương và Trung Quốc thì sát biên giới các nước này.
13
1.1.2. Sự thỏa thuận Nhật - Pháp
Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ ở Châu Âu (1.9.1939), đầu
tháng 6.1940 phát xít Đức tấn công Pháp. Ngày 14.6.1940, nước Pháp thất thủ.
Ngay lúc này, Nhật liền chụp lấy cơ hội để ép thực dân Pháp ở Đông Dương
chấp nhận nhượng bộ. Ngày 19.6.1940, quân Nhật gởi cho toàn quyền Georges
Catroux một bản tối hậu thư đòi phải đóng cửa hoàn toàn biên giới Việt – Trung.
Cuối mùa hè năm 1940, Chính phủ Vichy đã thoả thuận công nhận những quyền
lợi tối cao của Nhật Bản trong các lĩnh vực kinh tế và chính trị ở Viễn Đông với
hy vọng sự chiếm đóng của Nhật sẽ chỉ là tạm thời và giới hạn ở Bắc Kỳ. Ngày
29.6.1940, một phái đoàn quân sự Nhật đã đến Hà Nội để kiểm soát việc đóng
cửa biên giới. Đây là bước thứ nhất trong quá trình đầu hàng nhục nhã của chính
quyền thực dân Pháp trước sưc ép của quân phiệt Nhật.
Ngay từ khi phát động chiến tranh, để hợp lý hoá và hỗ trợ cho việc bành
trướng xuống phương Nam nói chung và xứ Đông Dương nói riêng, chính giới
Nhật Bản công bố cái gọi là “Khu vực Đại Đông Á thịnh vượng chung” hay còn
gọi là “Thuyết Đại Đông Á” (Dai Toa Kyoei Ken). Nội dung cốt lõi của “Thuyết
Đại Đông Á” núp dưới chiêu bài: thành lập khu vực thịnh vượng chung Đại
Đông Á, tức là sẽ xây dựng khu vực này thành khu vực thịnh vượng và phát
triển các quan hệ tốt đẹp giữa các quốc gia dựa theo 5 nguyên tắc: ngoại giao
liên hợp – quân sự đồng minh – kinh tế hợp tác – văn hoá giao lưu – chính trị
độc lập. Thứ hai là bảo vệ nhân dân Châu Á, giúp nhân dân Châu Á chống lại
chính sách bất công về kinh tế, chính trị của các đế quốc Anh, Pháp, Hoa Kỳ và
quyết tâm thực hiện thắng lợi thuyết Đại Đông Á. Tuy nhiên, thực tế lịch sử
chứng minh, giới cầm quyền Nhật đi ngược lại lời hoa mỹ đó, nó chỉ là tấm bình
phong cho sự thống trị của đế quốc Nhật Bản tại các quốc gia chiếm đóng trong
Chiến tranh thế giới thứ hai. Song song với việc công bố “thuyết Đại Đông Á”,
14
chính giới Nhật vạch kế hoạch xâm chiếm Đông Dương làm cơ sở cho việc xây
dựng “khu vực thịnh vượng chung Đại Đông Á”.
Thực chất của chính sách này là bằng những chiêu bài “đồng văn, đồng
chủng” và những hứa hẹn “giải phóng” các nước Châu Á thoát khỏi ách thống
trị của các “đế quốc da trắng”, cùng nhau xây dựng thịnh vượng chung và bình
đẳng, Nhật Bản mưu đồ tranh giành các thuộc địa rộng lớn của các đế quốc
phương Tây ở khu vực này; khai thác, vơ vét các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực
phục vụ cho các kế hoạch xâm lược.
Trước sự gia tăng sức mạnh của Nhật ở Đông Dương, Hoa Kỳ đã cảm
thấy lo ngại và kêu gọi Vichy từ chối các yêu cầu cho phép Nhật sử dụng những
căn cứ quân sự tại Đông Dương nhưng không thể cung cấp gì nhiều hơn là một
sự bảo đảm hỗ trợ mơ hồ, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã tuyên bố với Đại sứ Pháp
vào ngày 6 tháng 8 năm 1940 rằng: “Chúng tôi đã làm và đang làm mọi thứ có
thể trong khuôn khổ chính sách đã thành lập của chúng tôi để giữ cho tình hình
vùng Viễn Đông ổn định, chúng tôi đã dần dần thực hiện các bước khác nhau,
mục đích là để gây áp lực trên kinh tế Nhật, rằng hạm đội của chúng tôi đang
đồn trú ở Hawaii, và rằng những diễn biến mà chúng tôi đang theo đuổi, như đã
được nêu ra ở trên, là đưa ra một dấu hiệu rõ ràng về ý định và hành động của
chúng tôi trong tương lai” [47]. Đại sứ Pháp trả lời rằng: “Theo ý kiến của ông,
cụm từ “trong khuôn khổ các chính sách đã thiết lập của chúng tôi” gắn kết đến
sự miễn cưỡng rõ ràng của Chính phủ Mỹ trong việc xem xét việc sử dụng quân
đội ở vùng Viễn Đông cụ thể tại thời điểm này, có nghĩa là rằng Hoa Kỳ sẽ
không sử dụng quân đội hay hải quân nhằm hỗ trợ bất kỳ vị trí nào để chống lại
mọi toan tính xâm lược của Nhật tại Đông Dương. Đại sứ sợ rằng rằng Chính
phủ Pháp, dưới áp lực hiển hiện của Chính phủ Nhật, buộc sẽ phải nhượng bộ
…”[47]. Những lo sợ của Đại sứ Pháp đã thành sự thật.
- Xem thêm -