Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chén thuốc độc của vũ đình long dưới góc nhìn thể loại (2016)...

Tài liệu Chén thuốc độc của vũ đình long dưới góc nhìn thể loại (2016)

.PDF
65
247
79

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA: NGỮ VĂN ************ PHẠM THỊ DUNG “CHÉN THUỐC ĐỘC” CỦA VŨ ĐÌNH LONG DƢỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lí luận văn học HÀ NỘI - 2016 TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA: NGỮ VĂN ************ PHẠM THỊ DUNG “CHÉN THUỐC ĐỘC” CỦA VŨ ĐÌNH LONG DƢỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lí luận văn học Ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS. MAI THỊ HỒNG TUYẾT HÀ NỘI - 2016 LỜI CẢM ƠN Trong quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp: “Chén thuốc độc” của Vũ Đình Long dưới góc nhìn thể loại, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu từ phía nhà trường, các thầy cô, gia đình và bạn bè. Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ts. Mai Thị Hồng Tuyết, người đã dành nhiều thời gian và tâm huyết, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành khóa luận. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện để tôi kịp hoàn thành khóa luận này. Cuối cùng tôi xin được cảm ơn gia đình, bạn bè, những người đã luôn bên cạnh, động viên, khuyến khích cho tôi trong suốt thời gian qua. Hà Nội, ngày 11 tháng 5 năm 2016 Người viết Phạm Thị Dung LỜI CAM ĐOAN Dưới sự hướng dẫn, chỉ bảo nhiệt tình của Ts. Mai Thị Hồng Tuyết, sau một thời gian cố gắng, tôi đã hoàn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp: “Chén thuốc độc” của Vũ Đình Long dưới góc nhìn thể loại. Tôi xin cam đoan rằng số liệu nghiên cứu trong bài viết này là trung thực, không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng tất cả những thông tin trích dẫn trong khóa luận đã được ghi rõ nguồn gốc. Hà Nội, ngày 11 tháng 5 năm 2016 Người viết Phạm Thị Dung MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................................1 3. Mục đích, mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................4 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ..............................................................................4 4.1. Đối tượng nghiên cứu...........................................................................................4 4.2. Phạm vi nghiên cứu ..............................................................................................4 5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................5 6. Đóng góp của khóa luận ..........................................................................................5 7. Cấu trúc của khóa luận ............................................................................................6 PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................................7 Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỂ LOẠI KỊCH ...........................7 1.1. Sự phát triển của thể loại kịch ở nước ta trước thế kỷ XX .................................7 1.2. Sự ra đời và phát triển của thể loại kịch nói ........................................................7 1.2.1. Những tiền đề cho sự ra đời của thể loại kịch nói ............................................9 1.2.2. “Chén thuốc độc” như là sự khởi đầu của kịch nói Việt Nam ........................13 1.2.3. Sức sống của kịch nói trên hành trình phát triển.............................................15 Chƣơng 2. “CHÉN THUỐC ĐỘC” – TÁC PHẨM KẾ THỪA TRUYỀN THỐNG KỊCH ........................................................................................................20 2.1. Sự kế thừa truyền thống kịch của phương Tây ..................................................20 2.1.1. Sự kế thừa luật tam duy nhất trong kịch Cổ điển Pháp...................................20 2.1.2. Sự kế thừa nguyên tắc cấu trúc trong kịch cổ điển Pháp ................................23 2.2. Sự kế thừa truyền thống kịch của Việt Nam ......................................................25 2.2.1. Sự kế thừa nhân vật .........................................................................................25 2.2.1.1. Nhân vật cô hồn, thầy bói ............................................................................25 2.2.1.2. Nhân vật tiểu thư trong sáng, cả tin .............................................................27 2.2.1.3. Nhân vật “Sở Khanh” ...................................................................................28 2.2.2. Sự kế thừa ngôn ngữ .......................................................................................29 Chƣơng 3. “CHÉN THUỐC ĐỘC” - TÁC PHẨM ĐỊNH HÌNH PHONG CÁCH THỂ LOẠI ..................................................................................................31 3.1. Xung đột kịch .....................................................................................................31 3.1.1. Khái niệm xung đột kịch .................................................................................31 3.1.2. Đặc điểm của xung đột trong “Chén thuốc độc” ............................................33 3.1.3. Ý nghĩa của xung đột kịch trong "Chén thuốc độc" .......................................36 3.2. Hành động kịch ..................................................................................................38 3.2.1. Khái niệm hành động kịch ..............................................................................38 3.2.2. Đặc điểm của hành động kịch trong “Chén thuốc độc” ..................................39 3.3. Nhân vật kịch .....................................................................................................41 3.3.1. Khái niệm nhân vật kịch .................................................................................41 3.3.2. Hệ thống nhân vật trong “Chén thuốc độc” ....................................................41 3.3.2.1. Nhân vật thầy Thông Thu ............................................................................42 3.3.2.2. Nhân vật cụ Thông và cô Thông ..................................................................44 3.3.2.3. Một số nhân vật phụ khác ............................................................................45 3.4. Ngôn ngữ kịch ....................................................................................................47 3.4.1. Khái niệm ngôn ngữ kịch ................................................................................47 3.4.2. Đặc điểm ngôn ngữ trong "Chén thuốc độc" ..................................................47 3.5. “Chén thuốc độc” dưới góc nhìn lịch sử và thời đại ..........................................49 3.5.1. Tính thuyết giáo nặng nề .................................................................................49 3.5.2. Tâm lý nhân vật mờ nhạt.................................................................................51 3.5.3. Cốt truyện và xung đột kịch đơn giản, khiên cưỡng .......................................52 KẾT LUẬN ..............................................................................................................54 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Ngày nay, kịch nói được biểu diễn hàng đêm ở khắp các sân khấu từ Nam tới Bắc. Nó đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của người Việt Nam. Nó tỏ ra có ưu thế đặc biệt, thích ứng kịp với cuộc sống đang thay đổi, với xã hội Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới. Nó có khả năng đi tiên phong trong việc thể hiện thực tiễn xã hội đa dạng và phức tạp, miêu tả được những mâu thuẫn của đời sống xã hội và cảm thức con người hiện đại trong từng thời kỳ. Ít ai biết rằng, trong lịch sử, tác phẩm “Chén thuốc độc” ra đời vào tháng 9 năm 1921, được xem là vở kịch mở màn, ghi dấu tên tuổi của nhà viết kịch Vũ Đình Long - người khai sơn phá thạch cho kịch nói Việt Nam. Vở kịch này có ý nghĩa rất lớn lao trong lịch sử hình thành và phát triển của thể loại. Nó đã giúp định hình một thể loại kịch mới mà trước đó chưa từng tồn tại trong nghệ thuật kịch truyền thống Việt Nam. Vì vậy, vở kịch “Chén thuốc độc” được xem là nền tảng, là cơ sở để từ đó kịch nói Việt Nam phát triển và có được những tác phẩm giá trị gắn liền với những tên tuổi lớn như Nguyễn Huy Tưởng, Lưu Quang Vũ,… Hơn nữa, tuy chương trình giảng dạy ở nhà trường Phổ thông hiện có trích một số vở kịch nói như: “Vũ Như Tô”, “Bắc Sơn” của Nguyễn Huy Tưởng; “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, “Tôi và chúng ta” của Lưu Quang Vũ song chúng tôi nhận thấy việc dạy học còn có những hạn chế nhất định do tài liệu về đặc trưng thể loại còn ít và giáo viên chưa hình dung được dòng chảy của thể loại. Vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Chén thuốc độc” của Vũ Đình Long dưới góc nhìn thể loại để có được những hiểu biết cụ thể nhất về kịch nói. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Vở kịch “Chén thuốc độc” của Vũ Đình Long ngay từ khi mới ra đời đã tạo được tiếng vang trên văn đàn văn nghệ Việt Nam. Các các bài báo, các cuộc hội thảo liên tiếp được mở ra xoay quanh vở kịch này. Từ khi mới ra đời, tác phẩm đã được đăng trên tạp chí “Hữu Thanh”, số 4-5 do Tản Đà làm chủ bút. Ngay sau đó, hàng loạt các bài báo, các tạp chí viết về sự kiện 1 này. Về vị trí mở đường của tác phẩm, báo chí Hà thành lúc bấy giờ đồng thanh đánh giá: “Ngày hôm nay, 22/10/1921, là một ngày kỷ niệm lớn trong văn hóa sử nước ta sau này chép đến lối văn kịch có lẽ sẽ bắt đầu từ bản kịch “Chén thuốc độc” của Vũ Đình Long” [Dẫn theo 20]. PGS.TS. Nguyễn Thị Minh Thái cũng có bài viết: “Vũ Đình Long – người kéo màn sân khấu Việt hiện đại” trên trang “TuanVietNam.vietnamnet.vn”, trong đó có nhấn mạnh: “Người đầu tiên trong công cuộc khai sơn phá thạch cho sân khấu Việt hiện đại chính là nhà viết kịch Vũ Đình Long, với “Chén thuốc độc”, kịch 3 hồi” [13]. Trong bài viết, tác giả cũng khẳng định: “Đó là một “cú hích” cách mạng, khởi đầu cho quá trình gồm một chuỗi những chuyển động tất yếu, để dẫn đến buổi công diễn lần đầu vở: “Chén thuốc độc” ngày 22/10/1921”. Ngô Tự Lập trong bài viết “Vũ Đình Long- nhà viết kịch tiên phong”, khẳng định: “Với vở kịch 3 hồi nổi tiếng “Chén thuốc độc”, được sáng tác và công diễn trên sân khấu Nhà hát lớn Hà Nội ngày 22-10-1921, Vũ Đình Long còn là một trong những cha đẻ của sân khấu Việt Nam hiện đại”[9]. Bài viết cũng đưa ra lời khẳng định của ông Dương Nhữ Tiếp nói trong bài diễn thuyết nhân buổi công diễn vở kịch “Chén thuốc độc” của Vũ Đình Long như sau: “Cái sự thực trong nghề diễn kịch ấy, ở nước ta chưa từng có bao giờ, cái bước thí nghiệm của chúng tôi này mới là lần thứ nhất, nghĩa là chưa bao giờ có bản tuồng tả phong tục An Nam diễn theo đúng thể cách An Nam, như bản kịch: “Chén thuốc độc: của ông Vũ Đình Long mà chúng tôi diễn ngày hôm nay” [Dẫn theo 9]. Như vậy, xoay quanh sự ra đời của vở kịch “Chén thuốc độc” đã có rất nhiều ý kiến đánh giá, và họ cùng thống nhất quan điểm đây là vở kịch nói đầu tiên trong lịch sử nước ta. Về nội dung tư tưởng của tác phẩm, bài viết : “Vũ Đình Long và vở kịch mở đường cho kịch nói Việt Nam” của Trần Thư đăng trên chuyên mục “văn chương và dư luận” của trang “Toquoc.vn” cho rằng: “Chén thuốc độc” là một tác phẩm mang tính hiện thực sâu sắc, dám đi thẳng và nhìn nhận hiện thực đang tồn tại trong xã hội thành thị Việt Nam lúc bấy giờ để thấy được thái độ phê phán sâu sắc đối với lối sống đó” [18]. Nhà nghiên cứu Phan Trọng Thưởng cũng đánh giá: “Trước sự xâm nhập của lối sống phương Tây, xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX đã diễn 2 ra những thay đổi khá căn bản. Bên cạnh việc phát triển theo quy luật lịch sử và văn hoá, có không ít những cái kệch cỡm, lai căng, biểu hiện của lối sống vị kỷ, chạy theo lợi ích cá nhân, chà đạp lên đạo lý thuần phong mỹ tục của dân tộc. Vũ Đình Long đã đứng trên lập trường đạo đức phong kiến để phê phán, nhân danh những cái mới, cái tiến bộ, nhìn nhận rõ vấn đề đạo đức xã hội trong buổi giao thời” [Dẫn theo 18]. Khi bàn về các nhân vật trong vở kịch, PGS.TS.Nguyễn Thị Minh Thái nhận thấy: “Bảng nhân vật của ông chia theo giới tính nam nữ rõ ràng, 13 nhân vật nam và 5 nhân vật nữ. Tính kịch dựa trên trục cơ bản là xung đột nội bộ trong một gia đình Hà Nội giàu có, gồm hai thế hệ : thầy Thông Thu và vợ chồng thầy thông Thu, em gái thầy Thông Thu, cùng vài nhân vật vệ tinh của gia đình” [13]. Trần Thư, cũng trong bài viết “Vũ Đình Long và vở kịch mở đường cho kịch nói Việt Nam” đã khẳng định về sự đổi mới trong việc tăng số lượng nhân vật chính và đặc biệt đề cao vai trò trong việc cách tân “mỗi nhân vật của mình là một cái Tôi hoàn toàn không ước lệ, không xây dựng bằng sự chuyển thể, phóng đại với mục đích ca ngợi, tôn vinh, họ hiện lên rất chân thực, rất đời thường khiến chúng ta đểu có cảm giác gần gũi. Đây là điều mà kịch sân khấu cũng như những thể loại khác trước đó hoặc chưa làm được hoặc chưa sâu sắc và nổi bật” [18]. Nhiều ý kiến đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế của vở kịch, tác giả bài viết “Nhìn nhận thêm về vị trí của Vũ Đình Long” cho rằng: “Vũ Đình Long vẫn nhân danh truyền thống, đại diện cho truyền thống là chính chứ chưa phải là nhân danh toàn cái mới” [20]. “Hạn chế lớn nhất của vở kịch “Chén thuốc độc” là tính thuyết giáo, một căn bệnh có nguồn gốc cả từ trong nghệ thuật truyền thống dân tộc lẫn nguồn gốc từ kịch cổ điển Châu Âu” [20]. Như vậy, lịch sử nghiên cứu về vở kịch “Chén thuốc độc” của Vũ Đình Long đã có một số bài báo, tạp chí viết về vấn đề này. Tuy nhiên, vẫn chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống về vở kịch “Chén thuốc độc”, đặc biệt xem nó dưới góc độ thể loại văn học. Kết quả nghiên cứu của các công trình nói trên là nguồn tài liệu phong phú để tôi hoàn thành khóa luận của mình. Tiếp nhận 3 những ý kiến của các tác giả đi trước, bài viết của chúng tôi tiếp tục nghiên cứu vở kịch “Chén thuốc độc” của Vũ Đình Long dưới góc nhìn thể loại. 3. Mục đích, mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài khóa luận nhằm hướng đến những mục đích, mục tiêu cơ bản sau: Bài viết đi vào nghiên cứu những nhân tố chi phối đến sự ra đời của kịch nói nói chung và vở kịch “Chén thuốc độc” của Vũ Đình Long nói riêng, đồng thời đi sâu vào nghiên cứu sự định hình phong cách thể loại mà vở kịch mang lại. Từ đó, bài viết nhằm cung cấp kiến thức chung về một số đặc trưng cơ bản của kịch nói một thể loại kịch mới xuất hiện vào đầu thế kỷ XX ở Việt Nam. Ngoài ra, bài viết cũng giúp người đọc hiểu biết thêm về một vở kịch mở màn cho lịch sử kịch nói của Việt Nam – vở “Chén thuốc độc” của Vũ Đình Long. Qua đó, người đọc thấy được vai trò và những đóng góp quan trọng của Vũ Đình Long trong việc khai sinh ra thể loại kịch mới. Để đạt được điều đó, bài viết có nhiệm vụ: Thứ nhất, bài viết trình bày khái quát những vấn đề chung về thể loại kịch và sự ra đời của tác phẩm kịch: “Chén thuốc độc”. Thứ hai, bài viết làm rõ sự kế thừa truyền thống văn học Đông – Tây của vở kịch “Chén thuốc độc”. Thứ ba, bài viết nêu bật lên sự định hình phong cách thể loại kịch nói mà vở kịch mang lại, đồng thời nhìn nhận tác phẩm dưới góc nhìn lịch sử và thời đại để thấy được những tồn tại cần khắc phục. Qua nghiên cứu, bài viết làm bật lên giá trị văn học, giá trị nghệ thuật của vở kịch “Chén thuốc độc”, đồng thời gìn giữ một thành tựu văn học đáng ghi nhận của nền văn học nói chung và sân khấu kịch nói riêng. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Xem xét vở kịch “Chén thuốc độc” (Vũ Đình Long) từ góc độ thể loại. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Chúng tôi nghiên cứu kịch bản tác phẩm chứ chưa có điều kiện đi sâu vào tác 4 phẩm như một tác phẩm diễn xướng trên sân khấu. - Chúng tôi nghiên cứu kịch bản này như là kết quả của việc kế thừa thể loại kịch truyền thống và như là sự định hình thể loại kịch nói song chủ yếu dừng lại ở những vấn đề cốt lõi nhất. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để triển khai đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp phân tích - tổng hợp: Phương pháp này để đánh giá các hiện tượng và rút ra các nhận định khái quát về vai trò, ý nghĩa của vở kịch trong tiến trình phát triển của kịch nói Việt Nam. - Phương pháp hệ thống: Phương pháp này nhằm chỉ ra các đặc điểm của xung đột kịch, nhân vật kịch, hành động và ngôn ngữ kịch trong vở kịch “Chén thuốc độc”, từ đó hình thành đặc trưng thể loại kịch. - Phương pháp so sánh: Phương pháp này nhằm làm rõ sự giống nhau và khác nhau giữa các thể loại kịch (kịch hát – kịch nói) để thấy được những đóng góp của vở kịch. - Phương pháp văn hóa – lịch sử: Nhìn vở kịch trong bối cảnh lịch sử và thời đại để thấy được những thành công và hạn chế của kịch nói thời kỳ đầu. 6. Đóng góp của khóa luận Với nội dung nghiên cứu về vở kịch nói đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, đề tài khóa luận đã có những đóng góp khoa học nhất định. Trên cơ sở khảo sát sự ra đời và phát triển của kịch nói Việt Nam, chúng tôi đã bước đầu ghi nhận được những đóng góp và hạn chế của vở kịch “Chén thuốc độc” (Vũ Đình Long) đối với nền Văn học nước nhà. Từ việc nghiên cứu những thành tựu chung, chúng tôi đã làm nổi bật vai trò, vị trí quan trọng của vở kịch trong sự định hình phong cách thể loại kịch nói. Đây được xem là đóng góp mới mẻ của khóa luận. Cùng với tất cả những đóng góp tích cực về mặt khoa học, đề tài khóa luận còn có đóng góp quan trọng về Văn hóa – tư tưởng và Giáo dục đào tạo: - Về Văn hóa – tư tưởng: Trong thời đại công nghiệp hiện nay, hình thức nghệ thuật văn hóa như kịch 5 đang dần bị mai một. Giới trẻ hiện không còn dành nhiều sự quan tâm và niềm yêu mến đối với những nét văn hóa này. Đời sống công nghiệp đã chiếm lĩnh phần lớn thời gian của họ. Điều đó đã dẫn đến tình trạng người Việt không hiểu được nghệ thuật Việt. Đây là tình trạng cần báo động. Vì vậy, khi lựa chọn đề tài về kịch nói, báo cáo đã cung cấp những tri thức về một loại hình nghệ thuật kịch có ảnh hưởng từ phương Tây, nhưng đã ăn sâu, bén rễ và phát triển mạnh mẽ trong nghệ thuật kịch của Việt Nam từ những thập niên đầu của thế kỷ XX. Từ đó, báo cáo hướng người đọc đến sự hiểu biết và khơi nguồn niềm yêu mến với nghệ thuật kịch nói Việt Nam. - Về Giáo dục- đào tạo: Đề tài đã cung cấp những kiến thức căn bản, phục vụ cho quá trình đọc hiểu tác phẩm văn học trong nhà trường. 7. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung khóa luận được trình bày theo cấu trúc 3 chương: Chương 1. Những vấn đề chung về thể loại kịch Chương 2. “Chén thuốc độc” – tác phẩm kế thừa truyền thống kịch Chương 3. “Chén thuốc độc” – tác phẩm định hình phong cách thể loại kịch nói 6 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỂ LOẠI KỊCH 1.1. Sự phát triển của thể loại kịch ở nƣớc ta trƣớc thế kỷ XX Trong lịch sử văn học Việt Nam, thế kỷ XX được coi là dấu mốc quan trọng đánh dấu những chuyển biến của các thể loại văn học, đặc biệt là kịch. Trước thế kỷ XX, kịch Việt Nam được hình thành và phát triển chủ yếu là kịch hát với hai thể loại tuồng và chèo. Đây là hai thể loại chính, có sự phát triển mạnh mẽ trong lịch sử nghệ thuật truyền thống. Theo Đỗ Hương: “Tuồng và chèo – hai thể loại sân khấu tiêu biểu của cộng đồng dân cư Việt, đã trở thành tinh túy nghệ thuật của kịch hát nói riêng, văn hóa truyền thống Việt Nam nói chung” [8]. “Có nguồn gốc và cùng mang trong mình hơi thở văn hóa dân gian và triết lý Á Đông, tuồng và chèo trong biến thiên của lịch sử và môi trường tồn tại đã hình thành, bồi đắp bản sắc riêng ngay tại cái nôi chung của văn hóa dân tộc” [8]. Cả hai thể loại này đều có chung nguồn gốc từ nền diễn xướng dân gian dân tộc với các trò diễn cổ. Vào khoảng thế kỷ X, nghệ thuật tuồng được thai nghén từ một bộ môn hát xướng trong dân gian miền Bắc, khi được đưa vào cung đình, chỉnh đốn, biên soạn, dần hình thành và phát triển. Sự kiện Lý Nguyên Cát (1285) với vở diễn “Tây Vương mẫu hiến bàn đào” có ý nghĩa quan trọng trong việc định hình sự phát triển của nghệ thuật tuồng trong cung đình. Đến thời Nguyễn, tuồng được biệt đãi. Nhà nước phong kiến triều Nguyễn “muốn xây dựng thành quốc kịch”, đã quy tụ nhiều nho sỹ, nghệ sỹ tài năng từ các địa phương về kinh đô Huế để “chuyên tâm hoàn thiện sân khấu tuồng”, “xây cất Thanh bình thự trong thành nội làm nơi biểu diễn tuồng cho Vua, Hoàng tộc và các quan lại thưởng lãm như một thứ nhà hát cung đình” [15, tr.144]. Vào khoảng thế kỷ XVIII – XIX, nghệ thuật tuồng đã phát triển phồn thịnh đạt tới đỉnh cao với nhiều tác gia tác phẩm mẫu mực. Chèo ra đời muộn hơn. Kinh đô Hoa Lư – Ninh Bình được coi là đất tổ của sân khấu chèo và người sáng lập ra là Phạm Thị Trân, một vũ ca tài ba trong Hoàng cung nhà Đinh vào thế kỷ X. Tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng của đạo Khổng, từ thế kỷ XV, chèo rời xa cung 7 đình để phát triển mạnh mẽ trong lòng những vùng nông thôn Việt Nam. Như vậy, có thể thấy, nếu như sự phát triển của tuồng gắn liền với đời sống Cung đình thì chèo gắn với đời sống của người dân thôn dã. “Nếu chèo là nét văn hóa, tâm hồn của cư dân nông nghiệp lúa nước làng quê Bắc Bộ, thì tuồng là bản tráng ca của người anh hùng, là khí phách, bản lĩnh, là cuộc sống triều chính của dân tộc. Nét trữ tình trong chèo, chất anh hùng ca bi tráng trong tuồng, hay nét tương đồng từ lối tư duy truyền thống đã tạo nên giá trị nghệ thuật mang tính mẫu mực” [8]. Đến thế kỷ XIX, chèo và tuồng có sự giao thoa, ảnh hưởng lẫn nhau. Đặc biệt là ảnh hưởng của tuồng đến nghệ thuật chèo trong việc khai thác một số tích truyện như Tống Trân, Phạm Tải,… Với bề dày phát triển, chèo và tuồng đã gặt hái được nhiều thành tựu với các tác phẩm có giá trị. Một số vở chèo tiêu biểu như: “Bài ca giữ nước”, “Chu Mãi Thần”, “Đồng tiền vạn lịch”, “Hoàng Trìu kén vợ”, “Kim Nham”, “Lưu Bình – Dương Lễ”, “Nghêu, Sò, Ốc, Hến”, “Quan âm Thị Kính”, “Tuần ty đào Huế”, “Từ Thức gặp tiên”, “Trần Tử Lệ”, “Trương viên”,…Về tuồng, những vở tuồng nổi tiếng như: “Sơn Hậu”, “Tam nữ đồ vương”, “Diễn Võ Đình”, “Ngoại tổ dâng đầu”,“Phụng Nghi Đình”, “Đào Phi Phụng”, “Lý Thiên Luông”,… Việc đưa ra những kiến thức chung nhất về tuồng, chèo không nhằm đến việc nghiên cứu sự định hình của kịch hát mà chỉ là nền tảng để ta thấy được sự ra đời của kịch nói đầu thế kỷ XX là tất yếu. Bàn về vấn đề này, Nguyễn Văn Thành nhận định: “Tuồng vốn mang đậm tính bác học và chèo có gốc gác dân gian” [15, tr. 144]. Điều này đồng nghĩa với đối tượng tiếp nhận của tuồng chủ yếu là giới trí thức, quý tộc cung đình; đối tượng của chèo mới dừng lại ở một bộ phận nông thôn Việt Nam. Như vậy, nền kịch nghệ nước ta vẫn còn để lại một khoảng trống rất lớn khi chưa hình thành được loại hình nghệ thuật phù hợp với thị hiếu của công chúng thành thị. Bên cạnh đó, tuồng và chèo có thói quen khai thác những đề tài trong sách vở nên khi “cố nhích lại gần với cuộc sống hiện tại, thì tỏ ra không có triển vọng” [15, tr. 144]. Nhân vật chỉ có hai loại: trung và nịnh, chín và lệch với ngôn ngữ nhân vật mang đậm tính ước lệ, tượng trưng, chỉ phù hợp với sân khấu tự sự, 8 chưa thể hiện phong phú được thế giới con người trong đời sống thực tại. Chính vì vậy, khi “quá trình bác học hóa, cung đình hóa tuồng đang tiến hành thì bị ngưng trệ vì thời thế thay đổi với sự kiện Pháp gây hấn phát động chiến cuộc thôn tính Việt Nam, nổ súng vào cảng Đà Nẵng năm 1856, chiếm Sài Gòn 1859, hai lần tấn công Hà Nội trong các năm 1873 và 1882… Rút cuộc Pháp dùng thế mạnh áp đảo về mặt quân sự buộc triều đình nhà Nguyễn ký hàng ước […] thừa nhận quyền đô hộ của Pháp trên toàn lãnh thổ nước ta […]. Cũng trong bối cảnh này, sân khấu chèo hoạt động sau lũy tre làng đang trên đường định hình hóa cũng đành phải bỏ dở” [15, tr. 144]. Trước tình hình đó, lịch sử văn học đòi hỏi sự ra đời của một thể loại kịch mới có khả năng bao quát được hiện thực đời sống, thỏa mãn được nhu cầu giải trí và thưởng thức nghệ thuật của công chúng thành thị. Sự xuất hiện của kịch nói vào những thập niên đầu của thế kỷ XX đã phần nào đáp ứng được những yêu cầu cơ bản đó. 1.2. Sự ra đời và phát triển của thể loại kịch nói Đến đầu thế kỷ XX, nước ta vẫn chỉ tồn tại và phổ biến những bộ môn sân khấu ở dạng thức kịch hát với những biến thể khác nhau như tuồng và chèo. Công chúng lúc này chưa hề biết đến kịch nói với tư cách là một loại hình nghệ thuật nhận thức và tái hiện thực tại. Sự xuất hiện của kịch nói vào những thập niên đầu thế kỷ XX như một chặng mới trong hành trình phát triển thể loại. 1.2.1. Những tiền đề cho sự ra đời của thể loại kịch nói Sự ra đời của một nền văn hoá và nghệ thuật mới trước ngưỡng cửa thế kỷ XX do những điều kiện lịch sử và xã hội cụ thể của một đất nước thuộc địa nửa phong kiến quyết định. Chế độ thực dân Pháp thúc đẩy quá trình thâm nhập và phổ biến rộng rãi những kiến thức mới, những tư tưởng chính trị, triết học và nghệ thuật mới cũng như những thành tựu khoa học – kỹ thuật ở Việt Nam. Hai mươi năm đầu thế kỉ XX đánh dấu một mốc quan trọng đối với lịch sử, xã hội và văn hóa Việt Nam. Đây là những năm tháng bản lề, chứng kiến sự thay đổi có tính chất căn bản nhất và sâu nhất, chi phối trực tiếp đến văn học. Nhiều sản phẩm văn hóa được du nhập từ phương Tây xuất hiện. Nhưng sự du nhập đó không diễn ra một chiều mà là quá 9 trình hết sức phức tạp, trong đó, vai trò chủ động của người bản địa đóng vai trò quyết định. Một nền nghệ thuật đỉnh cao bao giờ cũng là sự thấm nhuần các giá trị văn hóa của thời đại và các điều kiện văn hóa tiên quyết. Bởi những yếu tố này là điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ sau này khi nó được chủ thể sáng tạo tiếp nhận và cải biến các yếu tố khách quan thành vốn sống, vốn văn hóa của riêng mình. Chính những yếu tố thuộc về văn hóa xã hội vừa đóng vai trò như bối cảnh văn hóa, là nền tảng, là tiền đề cho những kết tinh giá trị tinh thần, lại vừa là chất xúc tác cho sự phát triển của loại hình. Các yếu tố có tác động trực tiếp đến sự ra đời của kịch nói, đó là các đô thị hiện đại, các thiết chế văn hóa như hệ thống giáo dục trường Pháp- Việt và dịch thuật. Tiền đề cơ bản và có tác động rõ rệt nhất đến việc hình thành kịch nói đó là sự hình thành các đô thị hiện đại. Sự ra đời và phát triển của đô thị là yếu tố căn cốt để nảy sinh các nền văn học mới. Vào những thập niên đầu của thế kỷ XX, đặc biệt sau cuộc cải cách thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, đời sống đô thị ở nước ta có những chuyển biến rõ rệt. Sự đa dạng của cơ cấu kinh tế kéo theo sự ra đời của các tầng lớp, giai cấp mới như tư sản, tiểu tư sản, công nhân, trí thức với những nghề nghiệp: viên chức, ký lục, thông ngôn, nghệ sĩ, những người làm nghề tự do,…Với sự thay đổi về giai cấp, nhu cầu đời sống của con người cũng thay đổi. Theo Nguyễn Văn Thành: “Tầng lớp cư dân đô thị theo đó hành thành cùng với những điều kiện làm ăn sinh sống khác hẳn trước kia đã từng bước xác lập những đòi hỏi mới về lối sống, về quan hệ giữa người với người, theo đó hình thành thị hiếu thẩm mĩ ngả theo xu hướng Âu hóa” [15, tr. 144]. Một bộ phận không nhỏ người Pháp ở Việt Nam thời kỳ này cũng mang đến những nhu cầu đòi hỏi về việc thưởng thức những loại hình nghệ thuật phương Tây. “Theo tư liệu ngay từ năm 1863, số lượng người Pháp ở Sài Gòn đông dần, dẫn đến nhu cầu và việc một số gánh hát Pháp từ chính quốc đến Sài Gòn trình diễn kịch (đrame) cho bộ phận ngoại kiều này” [15, tr. 144-145]. Các cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động của kịch nói bắt đầu được xây dựng ở các đô thị lớn: “Năm 1900, Pháp khánh thành Nhà hát lớn tại thành phố Sài Gòn thiết kế nội ngoại thất dập theo mô hình nhà hát Paris… Tại 10 Hà Nội, Nhà hát lớn thành phố chính thức hoạt động vào năm 1911. Ít năm sau thành phố cảng Hải Phòng, một Nhà hát lớn tương tự nhưng có quy mô nhỏ hơn cũng được dựng lên” [15, tr. 145]. Mặt khác, đô thị cũng là nơi tập trung mâu thuẫn xã hội, không chỉ ở quyền lợi, kinh tế, nghĩa vụ mà còn là những xung đột về tư tưởng khi những thế hệ các nhà Nho vẫn còn tồn tại song song với những hệ tư tưởng mới của trí thức Tây học. Điều này tạo nên sự phức tạp của văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đây chính là mảnh đất màu mỡ để kịch nói phát triển, bởi lẽ yếu tố căn cốt nhất của kịch được hình thành dựa trên xung đột. Có thể nói, sự phát triển của đô thị, sự ra đời của các cơ sở hạ tầng hiện đại cùng những nhu cầu thiết yếu trong thị hiếu của công chúng, tất cả đã tạo nên tiền đề thuận lợi cho việc truyền bá kịch nói của văn hóa Pháp vào Việt Nam. Một tiền đề quan trọng khác của kịch nói, theo Nguyễn Văn Thành, đó là “sự ra đời hệ thống nhà trường Pháp – Việt ở khắp ba miền nhằm thay thế dần cho các nhà trường Nho học đang mất dần học sinh” [15, tr. 145]. Cùng với chính sách cai trị về kinh tế, Pháp đã xây dựng hệ thống trường học nhằm đưa những lý thuyết từ phương Tây để “đồng hóa” người Việt. Đây là một tác nhân rất lớn dẫn tới sự thay đổi quan niệm sống của người Việt. Những kiến thức khoa học, những triết thuyết tư tưởng, mĩ học và văn hóa mang căn tính Tây phương được giảng dạy trong trường học như một chân trời mới lạ. Tất cả đã thấu nhập vào thanh niên Việt như là một cuộc Âu hóa về mặt tư tưởng, mĩ học, khiến cho học sinh trở nên yêu và khâm phục nền văn minh phương Tây, văn hóa Pháp và mẫu quốc. Và chính trong môi trường này, lần đầu tiên người ta biết đến một hình thái văn học mới, khác lạ so với mô hình văn chương truyền thống. Học sinh được tiếp xúc và tiếp thu những kiến thức (dù rất hạn chế) về sân khấu Pháp và trước hết là sân khấu cổ điển. Một trong số đó là thể loại kịch nói. Người học được làm quen với các kịch bản bất hủ nhất của những tác gia nổi tiếng nhất như Moliére, P.Corneille,… Những vở kịch được giới thiệu phần lớn là kịch cổ điển Pháp, bao gồm bi kịch và hài kịch. Qua đó, người học được tiếp thu những nguyên tắc, những đặc trưng, thậm chí cách viết một vở kịch. Từ đó, lớp thanh niên trong trường Pháp- Việt tích lũy được một lượng 11 kiến thức khá chuẩn mực, hình thành một ý niệm bài bản về một thể loại mới lạ. Đây là kiến thức nền có tính phổ thông đầu tiên về kịch tại việt Nam. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với sự khai sinh một thể loại kịch mới ở Việt Nam. Nói về vấn đề này, nhà viết kịch Học Phi đã bộc lộ: “Thế hệ chúng tôi khi bỏ bút lông, cầm bút sắt ngay ở cấp tiểu học được làm quen với tiếng Pháp, lên Trung học trình độ tiếng Pháp đã tương đối vững để có thể đọc nguyên văn […] kịch với ba tác gia thuộc chủ nghĩa cổ điển Pháp thế kỷ XVII” [Dẫn theo 15, tr. 146]. Khi mới cầm bút viết kịch, Học Phi thú nhận: “Chịu ảnh hưởng rất đậm của Corneille nhưng thời gian sau bị cuốn hút vì sự diễn tả tinh tế mà sâu sắc những giằng co ghê gớm trong nội tâm nhân vật” [Dẫn theo 15, tr. 146]. Có thể thấy, hệ thống trường Pháp –Việt đã tạo tiền đề về văn bản học, chính thống hóa và phổ thông hóa những kiến thức đầu tiên về kịch. Chính điều này đã khiến cho những ý niệm về kịch đã hình thành ngay từ rất sớm, và lại hình thành ở một thế hệ thanh niên hấp thu văn hóa phương Tây một cách có hệ thống nhất. Cùng với sự giáo dục của Pháp, các hoạt động dịch thuật cũng là tiền đề quan trọng góp phần thúc đẩy sự ra đời của kịch nói. Đầu thế kỷ XX, sự xuất hiện của chữ Quốc ngữ là một sự lựa chọn tối ưu cho văn học thời đại khi yêu cầu giản tiện, nhanh chóng được đề cao. Với các hoạt động giáo dục của Pháp ở Việt Nam, một nền văn học theo mô hình phương Tây đang dần được thai nghén. Việc dịch tác phẩm Pháp văn sang tiếng Việt trở thành công việc bức thiết, vừa đáp ứng nhu cầu độc giả, nhưng quan trọng hơn, đáp ứng nhu cầu kiến tạo một nền văn học mới lấy văn học Pháp làm mẫu hình. Thông qua báo chí, dịch thuật đã đảm đương nhiệm vụ giới thiệu trước công chúng toàn bộ tinh hoa của văn học Pháp. Ở tất cả các thể loại mà văn học Việt Nam có thể học tập, tiếp thu được thì các trí thức – dịch giả đều chọn lọc những tác phẩm ưu tú nhất như là những mẫu hình nghệ thuật lí tưởng. Đối với kịch, đây là một thể loại mới lạ chưa từng có trong lịch sử văn học nước nhà, vai trò của dịch thuật lại càng trở nên quan trọng. Việc lựa chọn trường phái kịch nào, tác phẩm của tác giả nào có liên quan mật thiết đến sự phát triển của kịch sau này. Những dịch giả quan trọng nhất thời kì này là Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn 12 Vĩnh, đã ý thức rất rõ cái tính tiền định mà việc dịch thuật đem đến cho nền kịch nước nhà. Họ tìm đến với các tác phẩm của Moliére và Racine, hai kịch gia theo trường phái kịch cổ điển và công bố rộng rãi trên các tạp chí, tạo điều kiện cho công chúng được tiếp xúc. Từ đó, kịch nói bắt rễ sâu vào thành thị và hình thành nên nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của người dân. Song nếu chỉ diễn đi diễn lại những vở kịch cổ điển của Pháp thì phải khắc phục rất nhiều khó khăn. Vì vậy, công chúng đòi hỏi sự ra đời của kịch nói trong nước. Có thể thấy, dịch thuật đóng vai trò rất quan trọng cho sự ra đời của nền kịch nói Việt Nam. Tóm lại, kịch nói ra đời và phát triển ở nước ta vào đầu thế kỷ XX là một xu hướng tất yếu, giải quyết yêu cầu chung của thời đại. Những tiền đề được nhắc đến trên đây, tuy chưa thực sự đầy đủ song là những tiền đề cơ bản dẫn đến sự hình thành kịch nói ở Việt Nam. 1.2.2. “Chén thuốc độc” như là sự khởi đầu của kịch nói Việt Nam Nếu như trước đây, “kịch nói được biết đến qua các vở kịch của Pháp được các dịch giả sân khấu dịch từ những vở kịch nổi tiếng của Cooc-nây, Môlie và được công diễn với dàn diễn viên người Việt và khán giả chủ yếu là người Pháp và một số ít tư sản, trí thức thì với sự ra đời của vở kịch “Chén thuốc độc” của Vũ Đình Long với tấm lòng tự tôn dân tộc và nhiệt huyết của một nghệ sĩ đã đưa sân khấu kịch nói gần gũi hơn với công chúng Việt Nam” [18]. Đây được xem là dấu mốc mở đầu cho sự phát triển mới. “Chén thuốc độc” - vở kịch ba hồi, được sáng tác và đăng trên tạp chí “Hữu Thanh” số 4-5, được công diễn vào ngày 22/10/1921 tại Nhà hát lớn Hà Nội. Vở kịch được đánh giá là tác phẩm mở màn cho sự ra đời của kịch nói Việt Nam. Ngay từ khi mới ra đời, “Chén thuốc độc” đã tạo được tiếng vang trên văn đàn Việt Nam. Trên “Hữu Thanh tạp chí” số 3 năm 1921, nhân khi nhận được vở kịch do tác giả gửi đến, chủ bút Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu đã viết: “Vở kịch của ông Vũ Đình Long in ra sau đây, so với văn giới các nước thời chưa dám biết ra làm sao, so với quốc văn sau này cũng chưa dám biết ra làm sao. Nhưng cứ trong áng văn chương hiện thời của ta hiện nay, thời vở kịch của ông tưởng cũng đáng là có giá trị. Ông Vũ Đình Long mang một cái văn tài như thế, sao trước 13 không thấy ông ra với xã hội?... Nay, nhân một ông Vũ Đình Long mà suy nghĩ, trong xã hội chắc cũng còn nhiều người có mang cái văn tài ấy như ông Vũ Đình Long, hơn ông Vũ Đình Long mà ngọc náu đầu non, châu chìm đáy biển, khiến cho kẻ tháng ngày mong mến ngóng nước thu man mác ngọn khiêm hà. Nay, nhân một ông Vũ Đình Long mà tôi sinh ra vô hạn cảm khái cho văn giới nước nhà. Cũng nhân một ông Vũ Đình Long mà tôi có một chút mừng cho văn vận nước ta vậy... In vở kịch này của ông Vũ Đình Long tưởng cũng là có một chút công với quốc văn” [Dẫn theo 20]. Ba tháng sau, nhân lần công diễn đầu tiên của vở kịch, nhiều bài diễn thuyết đã đưa Vũ Đình Long và vở “Chén thuốc độc” lên vị trí mở đầu của kịch cũng như của nền văn học mới. Ông Nguyễn Mạnh Bổng – Tổng thư ký Hội Bắc Kỳ công thương đồng nghiệp đã khẳng định: “Văn học sử nước ta sau này chép đến lối văn kịch có lẽ sẽ kể đầu từ bản kịch “Chén thuốc độc” này của ông Vũ Đình Long. Vì kịch bản nước ta soạn theo lối mới này, ông Vũ Đình Long là người xuất hiện thứ nhất. Bản kịch đầu tiên của ông ở trong làng văn lại là bản kịch xuất sắc hơn... Ngày 22 tháng 10 năm 1921 này thực sự là một ngày kỷ niệm lớn trong văn học sử nước ta về việc diễn kịch theo lối mới mà thuần nhiên dùng văn ta tả những cảnh xã hội ta” [Dẫn theo 19]. Cũng trong đêm công diễn đó, ông Dương Nhữ Tiếp cũng nhận định: “Chúng tôi vốn cảm nhiễm cái văn hóa mới nước Pháp thường nhiệt tâm về việc cải lương hí kịch ở nước ta ngày nay, trông thấy các hí trường từng diễn theo một lối hát cổ của tiền nhân ta để lại, cái cách diễn chẳng qua là đem những điền cố xưa mà phác hoạ ra trên sân khấu, không có một chút gì là tả chân được các cảnh tượng thiên nhiên thích hợp với thời đại phong tục. Cái lối diễn kịch cổ ấy, không phải là không hay, song nó hay ở một cách mập mờ không đúng với sự thực. Ngày nay thế giới ở buổi khai thông, muốn việc gì cũng mong cải lương cho được như thực, bởi vì có thực được thời mới có ảnh hưởng sâu xa đến nhân tâm phong tục. Chúng tôi đối với việc diễn kịch, chỉ là những mong cho được như cái sự thực mà chúng tôi vừa nói ở trên. Cái sự thực trong nghề diễn kịch ấy, ở nước ta chưa từng có bao giờ, cái bước thí nghiệm của chúng tôi này thực mới là lần thứ nhất, nghĩa là chưa bao giờ có bản tuồng tả phong tục An Nam diễn theo đúng thể 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất