Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và những vấn...

Tài liệu Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và những vấn đề cần sửa đổi bổ sung

.DOCX
15
49
134

Mô tả:

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU…………………………...…………………………………..………......2 NỘI DUNG……………………………………………………………...…………....….3 I.Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000……………......……………………………………………...………………….…..3 1.Tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng……….……………..…3 1.1.Căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng…..………………… ..3 1.2.Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung……….…….…5 1.3.Chia tài sản chung của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2000……..7 2.Tài sản riêng của vợ, chồng………………………………………….…….…8 2.1.Căn cứ xác lập tài sản riêng của vợ, chồng………….………………..…..8 2.2.Quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản riêng………………….9 II.Một số kiến nghị cần sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000…………..…………………….…10 1.Đối với tài sản chung của vợ chồng…………….……...………………..……10 1.1.Căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng……………………..…..….10 1.2.Xác định tài sản chung của vợ chồng trong quan hệ “hôn nhân thực tế” sau ngày 01/01/2003…………………………………………………………. …...11 1.3.Về nguyên tắc chia đôi tài sản chung của vợ chồng…….…………….…11 1.4.Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng….……………………………….11 2.Đối với tài sản riêng của vợ chồng………….……………………….…. …….12 2.1.Về căn cứ, nguồn gốc xác lập tài sản riêng của vợ chồng………………12 2.2.Về nghĩa vụ của vợ, chồng được thực hiện từ tài sản riêng……………….12 KẾT LUẬN..………………….……………………………………………..……….…13 1 LỜI MỞ ĐẦU Gia đình là tế bào của xã hội, là nền tảng cơ bản, thể hiện tính chất và kết cấu của xã hội. Gia đình có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Và để cho gia đình tồn tại và phát triển, cần phải có các điều kiện vật chất - cơ sở kinh tế của gia đình, nuôi sống gia đình. Do vậy, chế độ tài sản của vợ chồng luôn được nhà làm luật quan tâm xây dựng như là một trong các chế định cơ bản, quan trọng nhất của pháp luật về hôn nhân và gia đình. Vợ, chồng trước hết với tư cách là công dân, có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Tài sản của vợ, chồng thuộc phạm trù tài sản riêng của công dân đã được Hiến pháp (Đ58, hiến pháp 1992) và Bộ Luật Dân sự năm 2005 ghi nhận. Do tính chất đặc biệt của quan hệ hôn nhân được xác lập tính cộng đồng, sau khi kết hôn, hai vợ chồng ở vào tình trạng “ăn chung, đổ lộn”, cùng chung sức, chung ý chí trong việc tạo dựng tài sản, xây dựng gia đình hòa thuận, hạnh phúc vì sự ổn định và phồn vinh của xã hội. Tính chất và mục đích của quan hệ hôn nhân được xác lập đòi hỏi cần phải có một quy chế pháp lí đặc biệt nhằm điều chỉnh vấn đề tài sản của vợ chồng là cơ sở để vợ chồng thực hiện các quyền và nghĩa vụ tài sản của mình liên quan đến tài sản của vợ chồng trong suốt thời kì hôn nhân, là cơ sở pháp lí để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng với nhau và giữa vợ chồng với những người khác. Chính vì lẽ đó mà Nhà nước bằng pháp luật phải quy định về chế độ tài sản của vợ chồng. Và văn bản pháp luật mới nhất sau khi sửa đổi là Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 đã quy định chế độ cộng đồng tạo sản của vợ chồng tương đối cụ thể và có nhiều điểm mới. Thực hiện và áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng những năm qua góp phần vào sự ổn định các quan hệ HN&GĐ, tạo cơ sở pháp lí thực hiện các quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được của pháp luật điều chỉnh vấn đề tài sản của vợ chồng, quá trình thực hiện và áp dụng Luật HN&GĐ năm 2000 về chế độ tài sản của vợ chồng cho thấy còn khá nhiều bất cập và vướng mắc. Do vậy, để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này em đã chọn đề tài nghiên cứu là “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và những vấn đề cần sửa đổi bổ sung”. 2 NỘI DUNG I. Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 1. Tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng 1.1. Căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng 1.1.1. Tài sản chung của vợ chồng được xác lập trong “thời kì hôn nhân” Tính cộng đồng của quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, mục đích nhằm đảm bảo đời sống chung của gia đình đòi hỏi pháp luật quy định căn cứ quan trọng, đầu tiên để xác định tài sản chung của vợ chồng là “thời kì hôn nhân”. Nó dẫn tới các hệ lụy sau: Một là, tài sản chung của vợ chồng không cần phải cả hai vợ chồng cùng trực tiếp tạo ra tài sản đó. Hai là, tài sản chung của vợ chồng được tạo dựng không phụ thuộc vào điều kiện vợ chồng ở chung hay ở riêng vì điều quan trọng theo luật định là tài sản mà “vợ, chồng tạo ra trong thời kì hôn nhân” là tài sản chung của vợ chồng. Ba là, quyền bình đẳng giữa vợ chồng đối với tài sản chung khi thực hiện quyền sở hữu không bị phụ thuộc bởi công sức đóng góp của vợ chồng. Trong điều kiện thực tế của từng cặp vợ chồng, kể từ khi kết hôn và trong suốt thời kì hôn nhân, do điều kiện về sức khỏe, nghề nghiệp, chuyên môn… đã dẫn tới thu nhập thực tế của mỗi bên vợ, chồng nhiều ít, cao thấp khác nhau nhưng không phải như vậy mà có sự chênh lệch giữa vợ chồng khi thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản chung. Mặt khác, theo luật định, tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất (khoản 1 Điều 27 luật hôn nhân và gia đình năm 2000; khoản 1 Điều 219 bộ luật Dân sự năm 2005), mà “sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu không được xác định đối với tài sản chung” (khoản 1 Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2005); và sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng là loại sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia khi quan hệ hôn nhân chấm dứt hoặc khi vợ hoặc chồng có yêu cầu lý do chính đáng. Đối với tài sản chung của vợ chồng, vợ chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt ngang nhau và luôn có tỷ lệ giá trị phần tài sản bang nhau trong khối tài sản chung đó. Đây là những đặc điểm dường như chỉ có và được áp dụng trong quan hệ nhân thân do tính cộng đồng của hôn nhân chi phối. Bốn là, sở hữu chung hợp nhất về tài sản của vợ chồng theo luật định, giữa vợ chồng không thể thỏa thuận nhằm thay đổi chế độ tài sản chung này. Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định là chế độ cộng đồng tạo sản, được áp dụng đối với các cặp vợ chồng khi quan hệ hôn nhân được xác lập và chế độ tài sản này được thực hiện trong suốt thời kì hôn nhân; mặt khác, chế độ biệt sản cũng không được quy định theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Vì vậy, trong các trường hợp cần phải chia tài sản chung của vợ chồng theo luật đinh Tòa án căn cứ theo những quy định của pháp luật về chế độ tài sản chung của vợ chồng để chia. 3 1.1.2. Tài sản chung của vợ chồng được xác lập dựa vào nguồn gốc tài sản bao gồm các tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra trong thời kì hôn nhân (Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000) Đây là loại tài sản phổ biến trong khối tài sản chung của vợ chồng. Sau khi kết hôn, quan hệ vợ chồng được xác lập, vợ chồng cùng chung sức đồng lòng trong việc tạo dựng tài sản để “nuôi sống” gia đình, bảo đảm các nhu cầu của đời sống chung, đáp ứng các nghĩa vụ chăm sóc lẫn nhau, nuôi dưỡng và giáo dục các con… Hành vi “tạo ra” tài sản của vợ chồng được hiểu là vợ chồng dựa theo công việc, chuyên môn của mình đã trực tiếp tạo ra tài sản đó bằng chính sức lao động của mình như: xây nhà ở, đóng bàn ghế, giường tủ,… Cũng có thể vợ chồng sử dụng tiền bạc của mình mà thuê người khác trực tiếp tạo ra những tài sản đó thong qua các hợp đồng cụ thể. Hành vi tạo ra tài sản của vợ, chồng còn được hiểu là vợ, chồng đã sử dụng tiền bạc, tài sản của mình, thông qua các hợp đồng để mua sắm các loại tài sản đó, chuyển quyền sở hữu tài sản từ người khác sang quyền sở hữu của vợ chồng; đảm bảo cho các nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng của gia đình hoặc để vợ chồng đầu tư sản xuất, kinh doanh. Như vậy, những tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra trong thời kì hôn nhân thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. 1.1.3. Tài sản chung của vợ chồng bao gồm các thu nhập hợp pháp của vợ chồng trong thời kì hôn nhân Đây được coi là loại tài sản chủ yếu thuộc tài sản chung của vợ chồng. Thu nhập của vợ chồng thuộc khối tài sản chung của vợ chồng là những lợi ích vật chất mà vợ, chồng có được do tham gia lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh. Theo tính chất nghề nghiệp, chuyên môn, công việc mà vợ chồng thực hiện, vợ chồng được hưởng thành quả lao động hoặc các lợi nhuận do kinh doanh mang lại, cũng như các hoa lợi, lợi tức thu được từ các loại tài sản của vợ chồng trong quá trình lao động sản xuất, kinh doanh. Trong đời sống xã hội hiện nay, thu nhập chủ yếu của các cặp vợ chồng thường là tiền lương, tiền công lao động, những thu nhập và tài sản do vợ chồng làm kinh tế gia đình, hoặc lợi nhuận thông qua việc sản xuất, kinh doanh. Hiện nay, về căn cứ xác lập tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng, liên quan đến các loại hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kì hôn nhân, có những quan điểm không thống nhất khi xác định các loại hoa lợi, lợi tức đó thuộc khối tài sản chung của vợ chồng hay vẫn là tài sản riêng của vợ, chồng. Xét dưới góc độ thuần túy của pháp luật dân sự thì cho rằng chỉ chủ sở hữu tài sản mới có quyền thu lợi phát sinh từ tài sản riêng đó. Vì vậy, phải coi hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kì hôn nhân là tài sản riêng của vợ, chồng. Tuy nhiên, trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, do tính cộng đồng của quan hệ hôn nhân, vợ chồng cùng chung sức, chung ý chí tạo dựng tài sản chung nhằm bảo đảm nhu cầu đời sống chung cho gia đình, cho nên, một trong những đặc điểm của căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng là tài sản của vợ chồng không nhất thiết phải do cả hai vợ chồng cùng trực tiếp tạo ra mà chỉ cần một bên vợ, chồng tạo ra được trong thời kì hôn nhân. 1.1.4.Tài sản chung của vợ chồng bao gồm những tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng choc hung (khoản 1 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000) 4 Đây là trường hợp xác lập tài sản chung của vợ chồng dựa trên quyền định đoạt của chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật về thừa kế. Trong thời kì hôn nhân, vợ chồng được người khác tặng cho chung tài sản hoặc được hưởng thừa kế chung một khối di sản. Những tài sản này thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Nếu trong hợp đồng tặng cho chung hoặc di chúc để lại thừa kế chung cho vợ chồng mà chủ sở hữu tài sản đã xác định tỷ lệ tài sản từ trước cho mỗi bên vợ, chồng thì về nguyên tắc những tài sản đó sẽ thuộc tài sản riêng của vợ, chồng; chỉ là tài sản chung khi vợ, chồng tự nguyện nhập vào khối tài sản chung hay vợ chồng thỏa thuận đó là tài sản chung. Trường hợp vợ chồng cùng hàng thừa kế theo quy định của pháp luật về thừa kế tài sản thì tài sản được thừa kế “theo hàng thừa kế” đó thuộc tài sản riêng của vợ, chồng; chỉ là tài sản chung khi vợ chồng tự nguyện nhập vào tài sản chung hoặc có thỏa thuận là tài sản chung của vợ chồng. 1.1.5.Tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn (khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000) Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Theo quy định tại Nghị định số70/2001/NĐ-CP ngày 03/01/2001 của Chính phủ thì: - Quyền sử dụng đất mà cả vợ hoặc chồng hoặc mỗi bên vợ hay chồng được Nhà nước giao, kể cả giao khoán là tài sản chung của vợ chồng. - Sau khi kết hôn, quyền sử dụng đất mà cả vợ và chồng hay chỉ một bên vợ hoặc chồng được Nhà nước cho thuê là tài sản chung của vợ chồng, cũng là tài sản chung của vợ chồng đối với đất mà vợ chồng nhận thế chấp quyền sử dụng đất của người khác. - Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận. 1.1.6. Tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm những tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung; những tài sản không đủ chứng cứ xác định là tài sản riêng (khoản 3 Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000) Thực tế cho thấy, khi có tranh chấp, giữa vợ chồng khó chứng minh được một số tài sản thuộc khối tài sản chung của vợ chồng hay là tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Vì vậy, trên nguyên tắc bảo đảm quyền tự định đoạt tài sản của vợ chồng, giữa vợ chồng có thể thỏa thuận cho rằng tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng hoặc là tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Tuy nhiên, vấn đề này rất phức tạp và trong quá trình giải quyết gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Nhằm bảo đảm nguyên tắc công bằng và hợp lí, khoản 3 Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã dự liệu: “Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung”. Đây là nguyên tắc suy đoán về nguồn gốc tài sản của vợ chồng, lần đầu tiên được quy định trong luật hôn nhân và gia đình của Nhà nước ta. 1.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung 1.2.1. Vợ chồng bình đẳng trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung Với tư cách là đồng chủ sở hữu tài sản chung, vợ, chồng bình đẳng khi thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản chung. Vợ, chồng cùng bàn bạc, thỏa thuận sử dụng tài sản chung nhằm bảo đảm đời sống chung của gia đình, sao cho việc sử dụng, định đoạt tài sản chung 5 đem lại lợi ích nhiều nhất cho cuộc sống chung của vợ chồng; bảo đảm nghĩa vụ nuôi dưỡng, giáo dục các con, cũng như quyền lợi của các thành viên khác trong gia đình. Do tính cộng đồng của quan hệ hôn nhân và cuộc sống chung của vợ chồng đòi hỏi (tất yếu) vợ chồng phải có quan hệ giao dịch với những người khác liên quan đến tài sản chung, nhằm đảm bảo nhu cầu của gia đình, của vợ chồng. Chính vì thế, nhà làm luật phải dự liệu: Đối với những giao dịch thông thường, liên quan đến những tài sản “không có giá trị lớn” nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hằng ngày của gia đình, thì hành vi xử sự của vợ, chồng khi định đoạt tài sản chung đó luôn được pháp luật coi là có sự thỏa thuận đương nhiên của cả hai vợ chồng (mặc dù chỉ có một bên vợ hoặc chồng định đoạt tài sản). Đối với những tài sản chung có giá trị lớn thì khi định đoạt, phải có sự thỏa thuận đồng ý của hai vợ chồng (tivi, tủ lạnh, ôtô, tàu, thuyền đánh cá, quyền sử dụng đất, nhà ở…). Nếu pháp luật quy định hợp đồng liên quan đến tài sản chung của vợ chồng có giá trị lớn phải được kí kết bằng văn bản (hợp đồng mua bán nhà, chuyển quyền sử dụng đất…) thì hình thức của hợp đồng phải tuân theo qui định của pháp luật; nếu chỉ có một bên trực tiếp kì thì phải có giấy ủy quyền cho vợ, chồng, kí thay, hợp đồng mới có hiệu lực. Theo Khoản 3 Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn, hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận…”. Hoặc các giao dịch đó có liên quan đến việc định đoạt tài sản riêng thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng nhưng đã đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi ích phát sinh từ tài sản đó là nguồn sống duy nhất của gia đình đều phải có sự thỏa thuận (đồng ý) của vợ chồng theo đúng hình thức (văn bản) mà pháp luật qui định. I.2.2. Đăng kí quyền sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng Đăng kí quyền sở hữu của vợ chồng liên quan đến các loại tài sản chung có giá trị lớn (nhà ở, quyền sử dụng đất, xe máy, tàu, thuyền vận tải…) là rất cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của vợ chồng đối với các tài sản đó. Thông qua việc đăng kí quyền sở hữu, Nhà nước bằng pháp luật công nhận và bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp của vợ chồng đối với các tài sản trong khối tài sản chung của vợ chồng. Mặt khác, điều chỉnh được các hành vi xử sự của vợ chồng, của những người khác khi kí kết các hợp đồng liên quan trực tiếp đến tài sản chung của vợ chồng và còn là căn cứ pháp lí nhằm giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng với nhau và lien quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của những chủ thể khác khi quyền lợi của họ được bảo đảm trực tiếp từ tài sản chung của vợ chồng. Đăng kí quyền sở hữu là một thủ tục (pháp lý) hành chính để Nhà nước công nhận, bảo hộ quyền sở hữu của công dân. Một trong những qui định cụ thể của Luật HN&GĐ năm 2000 liên quan đến quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung là nội dung của khoản 2 điều 27: “Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật qui định phải đăng kí quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng”. Giải pháp mà khoản 3, điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 và các văn bản khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền qui định, hướng dẫn áp dụng Luật vẫn theo nguyên tắc chung: tài sản mà vợ, chồng có được trong thời kì hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng. Nếu bên đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu cho rằng đó là tài sản riêng của mình thì có nghĩa vụ phải chứng minh, nếu không chứng minh được là tài sản riêng thì tài sản đó 6 là tài sản chung của vợ chồng. Đối với trường hợp mà vợ chồng ly hôn hoặc đã chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân, mỗi bên vợ, chồng đã được chia phần tài sản trong khối tài sản chung của vợ chồng, theo Khoản 4 Điều 5 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP thì bên được chia phần tài sản bằng hiện vật đã đăng kí quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng mà có ghi tên cả vợ và chồng có quyền yêu cầu cơ quan đăng kí tài sản cấp lại giấy tờ đăng kí quyền sở hữu hoặc sử dụng tài sản. Lẽ đương nhiên, khi vợ chồng ly hôn hoặc đã chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân thì phần tài sản mà mỗi bên vợ, chồng được chia thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng. I.2.3. Nghĩa vụ tài sản chung của vợ chồng Khoản 2 Điều 28 Luật HN&GĐ năm 2000 qui định: “Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng”. Tài sản chung của vợ chồng là cơ sở kinh tế nhằm đáp ứng những lợi ích của vợ, chồng và các thành viên gia đình. Tính tất yếu phải có tiền bạc, tài sản của vợ chồng để bảo đảm cho gia đình tồn tại và phát triển; bảo đảm nghĩa vụ chăm sóc lẫn nhau giữa vợ chồng; nghĩa vụ nuôi dưỡng giáo dục con cái… Theo yêu cầu của pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội, vợ chồng cùng chung sức, chung ý chí tạo dựng tài sản nhằm thỏa mãn tốt nhất cho đơì sống chung của gia đình. Khi thiết lập các giao dịch xuất phát từ tài sản chung của vợ chồng nhằm bảo đảm nhu cầu chung của gia đình, vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt các giao dịch mà theo qui định của pháp luật phải có sự đồng ý của cả vợ chồng; việc ủy quyền phải được lập thành văn bản. Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó. Những giao dịch mà vợ, chồng thiết lập với người khác nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hằng ngày của cuộc sống gia đình thì pháp luật luôn coi là đã có sự thỏa thuận mặc nhiên của cả hai vợ chồng; nếu liên quan đến tài sản có giá trị lớn mới cần phải có sự thỏa thuận của hai vợ chồng. Trong cuộc sống chung của vợ chồng nhiều khi tài sản chung của vợ chồng không đáp ứng đủ với quyền lợi của gia đình, vợ, chồng đã phải “vay, mượn” tiền bạc, tài sản của người khác vì nhu cầu của gia đình. Đó chính là những khoản nợ mà vợ chồng phải có nghĩa vụ thanh toán trả cho người chủ nợ. khối tài sản cộng đồng phải được đảm bảo cho các món nợ đó. Theo nguyên tắc: Nếu là nợ chung thì cả vợ và chồng mới phải có nghĩa vụ trả nợ, còn nếu vợ, chồng vay nợ sử dụng vào mục đích riêng, bảo đảm cho nhu cầu riêng thì người vợ, chồng đó phải có nghĩa vụ thanh toán bằng tài sản riêng mà không buộc người chồng, vợ kia phải liên đới trách nhiệm. Bên cạnh đó, một giải pháp được xem là một trong những qui định mới của Luật HN&GĐ 2000 (Điều 25) đã dự liệu: “Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình”. Như vậy, nếu một bên vợ, chồng vay nợ nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì món nợ đó được bảo đảm thanh toán bằng tài sản chung của vợ chồng. I.3. Chia tài sản chung của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2000 1.3.1. Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân 7 Quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của mỗi bên vợ, chồng cũng như quyền lợi của những người khác có liên quan đến tài sản chung của vợ, chồng. Về phương diện chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân, Luật HN&GĐ năm 2000 cho phép hai vợ chồng tự thỏa thuận chia sản chung bằng văn bản hoặc yêu cầu toàn án giải quyết. Việc chia tài sản chung trước hết sẽ do vợ chồng tự quyết và thỏa thuận với nhau bằng văn bản. Nếu không thể thỏa thuận được với nhau thì vợ chồng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Hậu quả pháp lí sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân, Đ30 Luật HN&GĐ 2000 đã qui định: “Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi hoa lợi, lới tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng”. Như vậy vợ chồng có thể thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án chia một phần hay toàn bộ tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân. I.3.2. Chia tài sản của vợ chồng khi vợ chồng ly hôn Ly hôn – một hiện tượng xã hội. Theo nguyên tắc chung, khi phán quyết ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật, quan hệ vợ chồng được chấm dứt. Với trường hợp thuận tình ly hôn, vợ chồng thỏa thuận được với nhau về việc phân chia tài sản chung và vấn đề giao con chưa thành niên cho bên nào nuôi dưỡng, giáo dục trực tiếp và mức phí tổn cấp dưỡng nuôi con là một điều kiện thuận lợi để tòa án công nhận thuận tình ly hôn. Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được với nhau, có yêu cầu toàn án giải quyết, để đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ chồng và những người khác có lợi ích liên quan đến tài sản của vợ chồng, trước khi quyết định tòa án cần phải xác định về vấn đề tài sản chung của vợ chồng: đâu là tài sản riêng của vợ, chồng; những tài sản nào thuộc khối tài sản chung; những ai có quyền và lợi ích liên quan đến tài sản của vợ chồng; đối với tài sản chung của vợ chồng thì xem xét thu nhập thực tế của vợ, chồng, công sức đóng góp trong việc tạo dựng, quản lí tài sản chung; những tài sản nào được chia bằng hiện vật hoặc phải thanh toán bằng tiền; điều kiện, hoàn cảnh, nghề nghiệp của vợ, chồng khi ly hôn; hai vợ chồng sống riêng hoặc cùng sống chung với gia đình bên nhà chồng (vợ)… khi chia tòa phải áp dụng các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng và các nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng (từ Đ95 đến Đ99 Luật HN&GĐ 2000). Trong đó, quy định theo Đ95 Luật HN&GĐ 2000 bao gồm các nguyên tắc chung về việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn; đặc biệt chia tài sản chung của vợ chồng. I.3.3. Chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ, chồng chết trước hoặc bị Tòa án tuyên bố đã chết Về nguyên tắc, tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, phần tài sản của người vợ, chồng chết sẽ được chia theo di chúc của người chết. Nếu vợ, chồng chết trước có để lại di chúc định đoạt tài sản của mình trong khối tài sản chung cho người chồng, vợ còn sống được hưởng thì di sản đó thuộc quyền sở hữu của người chồng, vợ. Khi có yêu cầu, tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia đôi, phần tài sản của vợ, chồng đã chết trong khối tài sản chung sẽ được chia cho những người thừa kế theo pháp luật của người chết. Người chồng, vợ còn sống được hưởng một suất thừa kế cùng với cha, mẹ và các con của người chết, vì những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau (khoản 2 Điều 676 BLDS năm 2005). 8 2. Tài sản riêng của vợ, chồng 2.1. Căn cứ xác lập tài sản riêng của vợ, chồng 2.1.1. Tài sản riêng của vợ, chồng bao gồm tài sản mà mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn Tài sản mà vợ, chồng có được trước khi kết hôn có thể do chính công sức của vợ, chồng tạo ra theo tính chất nghề nghiệp, công việc của mình; cũng có thể tài sản đó có được do người khác chuyển dịch quyền sở hữu của mình cho vợ, chồng thông qua các giao dịch dân sự. Vì thế, trước khi kết hôn, với tư cách cá nhân, theo qui định của pháp luật dân sự mà vợ, chồng có thể xác lập quyền sở hữu của mình đối với những tài sản phát sinh. 2.1.2. Tài sản riêng của vợ, chồng bao gồm tài sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kì hôn nhân Xét về nguồn gốc tài sản, những tài sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kì hôn nhân thuộc quyền sở hữu riêng của vợ, chồng. Luật HN&GĐ 2000 qui định những tài sản này thuộc khối tài sản riêng của vợ, chồng nhằm bảo đảm quyền tự định đoạt của các chủ sở hữu tài sản, theo qui định của pháp luật dân sự, chuyển dịch tài sản của mình cho mỗi bên vợ, chồng được hưởng. Đối với trường hợp, chủ sở hữu tuyên bố cho chung hai vợ chồng khối tài sản nào đó, tuy nhiên họ lại xác định kỷ phần giá trị tài sản từ trước cho mỗi bên vợ, chồng được hưởng thì về nguyên tắc phần tài sản đó thuộc quyền sở hữu riêng của mỗi bên vợ, chồng. Đối với trường hợp vợ, chồng cùng hàng thừa kế theo pháp luật, phần di sản mà mỗi bên vợ, chồng được hưởng theo suất thừa kế là bằng nhau, về nguyên tắc sẽ thuộc khối tài sản riêng của vợ, chồng, chỉ là tài sản chung khi vợ, chồng tự nguyện nhập vào khối tài sản chung hoặc vợ chồng có thỏa thuận là tài sản chung. 2.1.3. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm đồ dung, tư trang cá nhân Đây là quy định mới của Luật HN&GĐ 2000 khi xác định những đồ dùng, tư trang cá nhân là tài sản riêng của vợ, chồng. Qui định này là cần thiết và phù hợp với thực tế cuộc sống, bởi vì mọi cá nhân cũng như vợ, chồng trong đời sống hằng ngày và công việc theo tính chất nghề nghiệp của mình đều cần đến đồ dùng phụ vụ cho nhu cầu sinh hoạt của cá nhân hoặc cho công việc. Rõ ràng, Luật qui định các đồ dùng và tư trang cá nhân là tài sản riêng của vợ, chồng nhằm bảo đảm quyền tự do cá nhân và cuộc sống riêng tư của vợ, chồng. 2.1.4. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm những tài sản mà vợ, chồng được chia khi tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân Khác với Luật HN&GĐ 1986 chưa dự liệu về hậu quả pháp lí và quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng đối với những tài sản, sau khi đã chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân, Điều 30 Luật HN&GĐ 2000 đã qui định về vấn đề này. Trên cơ sở đó, Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/01/2001 đã ghi nhận: “sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân, những tài sản mà vợ, chồng đã được chia; hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản đó; thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp khác của vợ, chồng sau khi đã chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân đều thuộc tài sản riêng của vợ, chồng”. 2.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản riêng 9 2.2.1. Quyền của vợ, chồng đối với tài sản riêng Với tư cách là chủ sở hữu tài sản của mình, vợ, chồng có toàn quyền sở hữu đối với tài sản riêng, không phụ thuộc bới ý chí của bên người chồng, vợ kia. Đối với tài sản riêng của vợ, chồng, mỗi bên sẽ tự quản lí tài sản riêng của mình. Trong trường hợp, vợ hoặc chồng không thể tự mình quản lí tài sản riêng và cũng không ủy quyền cho người khác quản lí thì bên người chồng, vợ kia có quyền quản lí tài sản riêng đó. Trong việc quản lí tài sản riêng của vợ, chồng mình, người chồng, vợ có nghĩa vụ bảo quản, giữ gìn các tài sản đó như tài sản của mình, nếu làm hư hại thất thoát mà không có lý do chính đáng thì có nghĩa vụ phải bồi thường (khi có yêu cầu). Đối với tài sản riêng, vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung của vợ chồng (khoản 2 Điều 33 Luật HN&GĐ 2000). 2.2.2. Nghĩa vụ được thực hiện bằng tài sản riêng của vợ, chồng Trong trường hợp cuộc sống chung của gia đình gặp nhiều khó khăn, tài sản chung của vợ chồng không đủ bảo đảm cho những nhu cầu sinh hoạt thiết yếu hằng ngày của gia đình mà người vợ, chồng có tài sản riêng thì người đó có nghĩa vụ sử dụng tài sản riêng của mình nhằm đáp ứng nhu cầu cần thiết đó của gia đình, đảm bảo cuộc sống của vợ chồng và các con. Nghĩa vụ này của vợ, chồng xuất phát từ việc đảm bảo lợi ích chung của gia đình. Theo qui định của pháp luật vợ, chồng phải bằng tài sản riêng của mình để bảo đảm thực hiện các loaị nghĩa vụ sau đây: Một là, nghĩa vụ trả các khoản nợ mà vợ, chồng đã vay của người khác từ trước khi kết hôn mà không vì nhu cầu đời sống chung của gia đình. Hai là, nghĩa vụ trả các khoản nợ mà vợ, chồng đã vay của người khác trong thời kì hôn nhân sử dụng vào mục đích riêng, không đáp ứng nhu cầu và lợi ích chung của gia đình. Ba là, nghĩa vụ trả các khoản nợ phát sinh trong quá trình quản lí, sử dụng, định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp nợ phát sinh khi vợ, chồng đã tiến hành khai thác các hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng trong thời kì hôn nhân mà vợ chồng không có thỏa thuận những hoa lợi đó vẫn thuộc tài sản riêng của mỗi người. Bốn là, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại khi vợ, chồng là người quản lí di sản thừa kế mà đã có hành vi thực hiện các giao dịch nhằm tẩu tán hoặc làm hư hỏng, mất mát di sản. Năm là, các khoản nợ phát sinh khi thực hiện nghĩa vụ về tài sản gắn liền với nhân thân vợ, chồng như các khoản chi phí cho con riêng của mình. Sáu là, nghĩa vụ cấp dưỡng mà vợ, chồng phải thực hiện liên đới với các thành viên trong gia đình. Bảy là, nghĩa vụ bồi thường khoản tiền cấp dưỡng mà vợ, chồng là người được giao quản lí nhưng đã làm tiêu tán hoặc sử dụng không đúng mục đích. Tám là, nghĩa vụ trả các khoản nợ phát sinh dựa trên cơ sở vợ, chồng đã có hành vi tự mình tiến hành các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình. Chín là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh từ hành vi trái pháp luật của vợ, chồng. 10 Về nguyên tắc, đối với các khoản nợ và nghĩa vụ phát sinh trên đây, vợ, chồng có nghĩa vụ thanh toán, bồi thường bằng tài sản riêng của mình. Cũng có thể nghĩa vụ tài sản của vợ, chồng được thực hiện bằng tài sản chung cuả vợ chồng khi vợ chồng thỏa thuận. II. Một số kiến nghị cần sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 1.Đối với tài sản chung của vợ chồng 1.1. Căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng - Xác định tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân Theo Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000, căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng, trước hết dựa vào thời kì hôn nhân. Tuy nhiên, theo qui định của pháp luật dân sự và HN&GĐ, trong một số trường hợp cụ thể, việc xác định thời kì hôn nhân chưa được luật dự liệu; các văn bản hướng dẫn áp dụng của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng chưa đề cập tới các vấn đề liên quan đến nguyên tắc xác lập tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân đối với các trường hợp này. - Xác định tài sản chung của vợ, chồng bị Tòa án tuyên bố chết, mà sau đó lại trở về (Đ26 Luật HN&GĐ 2000, Đ83 BLDS 2005) Trường hợp này pháp luật mới chỉ dự liệu quan hệ hôn nhân được khôi phục (nếu người chồng, vợ kia chưa kết hôn với người khác), còn về vấn đề tài sản chung của vợ chồng thì xác định ntn? Đây là vấn đề còn nhiều quan điểm chưa thống nhất về mặt lí thuyết. Thiết nghĩ, Điều 26, Luật HN&GĐ 2000 và Điều 83 của BLDS Việt Nam 2005 nên chỉnh sửa theo hướng: khi phán quyết của tòa án tuyên bố vợ, chồng chết có hiệu lực pháp luật, quan hệ hôn nhân chấm dứt; kể cả trường hợp sau này, vì lí do nào đó mà người vợ, chồng đã bị tuyên bố chết lại trở về cũng không thể “đương nhiên” phục hồi quan hệ hôn nhân được (dù người vợ, chồng kia chưa kết hôn với người khác). Nếu vợ, chồng muốn tái hợp chung sống với nhau, họ phải đăng kí kết hôn theo thủ tục chung. Tức là sẽ phát sinh một quan hệ hôn nhân mới, thời kì hôn nhân mới, dù chủ thể vẫn là vợ, chồng đó. Như vậy, chế độ tài sản mới giữa vợ chồng được phát sinh theo luật định, áp dụng trong thời kì hôn nhân mới này. - Xác định tài sản chung của vợ, chồng trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân, sau đó lại khôi phục chế độ tài sản chung Luật HN&GĐ năm 2000 (Điều 29, 30) không quy định rõ vấn đề khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng sau khi đã chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân, nhiều hậu quả pháp lý còn chưa được pháp luật hôn nhân và gia đình dự liệu. Chính vì thế có một số ý kiến cho rằng cần phải bổ khuyết vào Luật Hôn nhân và gia đình những vấn đề sau: Thứ nhất, những lí do chính đáng để vợ chồng chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân bao gồm những lí do nào. Thứ hai, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân (có thể) do vợ chồng tự thỏa thuận với nhau nhưng dứt khoát phải được tòa án công nhận hoặc phải được công chứng, chứng thực theo qui định của pháp luật, nhằm hạn chế tối đa hành vi của vợ, 11 chồng lợi dụng việc chia tài sản chung để tẩu tán, trốn tránh nghĩa vụ tài sản đối với người khác. Thứ ba, sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân (dù chia một phần hay toàn bộ tài sản chung của vợ chồng) thì chế độ tài sản chung của vợ chồng phải được coi là chấm dứt; phần tài sản mà vợ, chồng đã được chia; hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản đó; thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp khác của vợ, chồng sau khi đã chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân đều thuộc tài sản riêng của vợ, chồng. Thứ tư, chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân không làm chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật. Luật cần dự liệu về nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau, đối với con chung và nghĩa vụ đóng góp tài sản chung nhằm bảo đảm đời sống chung của gia đình. Mặt khác, luật cần dự liệu trường hợp sau khi đã chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân, một thời gian sau vợ chồng mới có yêu cầu ly hôn hoặc một bên vợ, chồng chết trước, những tài sản nào thuộc khối tài sản chung của vợ chồng thì mới chia. Thứ năm, vấn đề khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng, theo Điều 9, Điều 10 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP, cần dự liệu rõ thêm các vấn đề sau: khôi phục các tài sản chung của vợ chồng sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, không chỉ là việc thỏa thuận của vợ chồng xem xét những tài sản nào là tài sản chung của vợ chồng, mà ở đây cần phải hiểu rằng việc khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng là “khôi phục căn cứ pháp lí xác lập tài sản chung của vợ chồng”. Bởi lẽ theo nguyên tắc chung, toàn bộ tài sản mà vợ, chồng tạo ra trong thời kì hôn nhân đều thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Căn cứ này đã tạm chấm dứt khi vợ chồng thỏa thuận chia tài sản chung của mình trong thời kì hôn nhân. Đối với trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân thực chất là đã chấp nhận “chế độ biệt sản” giữa vợ chồng, sau khi đã chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân. Mặc dù vậy, nó vẫn phải được điều chỉnh bởi pháp luật, chứ không phụ thuộc vào sự thỏa thuận của vợ chồng. Trường hợp đã chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân, sau đó vợ chồng muốn khôi phục lại chế độ tài sản chung, vẫn phải tuân theo những qui định của pháp luật. 1.2. Xác định tài sản chung của vợ chồng trong quan hệ “hôn nhân thực tế” sau ngày 01/01/2003 Trong trường hợp này, sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng kí kết hôn, quan hệ vợ chồng thực tế sẽ không được pháp luật công nhận, quan hệ tài sản giữa họ không thể được áp dụng như đối với quan hệ hôn nhân hợp pháp; nghĩa là các qui định về chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ 2000 sẽ không được áp dụng đối với họ. 1.3. Về nguyên tắc chia đôi tài sản chung của vợ chồng Để có quan điểm thống nhất khi áp dụng, Luật HN&GĐ 2000 cần dự liệu cụ thể nguyên tắc chia đôi tài sản chung của vợ chồng trong cả ba trường hợp khi ly hôn, trong thời kì hôn nhân và khi một bên vợ, chồng chết trước. Nguyên tắc này xuất phát từ đặc điểm của sở hữu chung hợp nhất, tài sản chung của vợ chồng được tạo dựng không phụ thuộc bởi công sức, mức thu nhập sao, thấp, nhiều, ít khác nhau giữa vợ chồng và nguyên tắc vợ chồng bình 12 đẳng khi thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản chung, trong đó tỷ lệ phần quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung luôn được tính là bằng nhau. 1.4. Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng Luật cần dự liệu cụ thể (bổ sung khoản 2 Điều 28 Luật HN&GĐ 2000) về tài sản chung của vợ chồng được bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng bao gồm: + Các khoản nợ phát sinh nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình. + Các khoản nợ liên quan đến việc tạo lập, quản lí, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng. + Các khoản nợ liên quan đến tài sản riêng của vợ, chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống của gia đình. + Các khoản nợ phát sinh có liên quan đến công việc mà cả hai vợ chồng cùng thực hiện. + Các khoản nợ theo thỏa thuận của hai vợ chồng. 2. Đối với tài sản riêng của vợ chồng 2.1. Về căn cứ, nguồn gốc xác lập tài sản riêng của vợ chồng Từ những vướng mắc trong thực tế giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng, để bảo đảm tính thống nhất khi áp dụng, Luật HN&GĐ 2000 cần bổ khuyết các vấn đề sau: - Đối với căn cứ xác lập tài sản riêng của vợ, chồng còn bao gồm những tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản riêng của một bên, trừ trường hợp, sự thỏa thuận đó có căn cứ rõ ràng là nhằm tẩu tán tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ tài sản của vợ, chồng đối với người khác. - Đối với những tài sản mà vợ, chồng được hưởng do cùng hàng thừa kế theo pháp luật, về nguyên tắc thuộc tài sản riêng của vợ, chồng; chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận. - Luật cần qui định cụ thể nguồn gốc tài sản là đồ dùng, tư trang cá nhân bao gồm những gì thuộc tài sản riêng của vợ, chồng. Mặt khác, khi có tranh chấp về loại tài sản này, theo từng trường hợp cụ thể mà xem xét đồ dùng, tư trang cá nhân có nguồn gốc và giá trị như thế nào so với khối tài sản chung của vợ chồng và mức thu nhập thực tế của vợ, chồng để xác định chính xác và hợp lí tài sản riêng của vợ, chồng. - Khoản 1, Điều 27 Luật HN&GĐ 2000 của Nhà nước ta cần cụ thể hóa hơn về vấn đề hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kì hôn nhân khi xác định là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng. 2.2. Về nghĩa vụ của vợ, chồng được thực hiện từ tài sản riêng Theo khoản 3 Điều 33 Luật HN&GĐ 2000, nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên vợ, chồng được thanh toán từ tài khoản riêng của người có nghĩa vụ. Tuy nhiên, qui định này còn quá chung chung, chưa có căn cứ cụ thể để xác định loại nghĩa vụ tài sản này. Một số nhận định cho rằng, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng bao gồm các nghĩa vụ sau: - Nghĩa vụ trả các khoản nợ mà vợ, chồng đã vay của người khác từ trước khi kết hôn mà không vì đời sống chung của gia đình. - Nghĩa vụ trả các khoản nợ mà vợ, chồng đã vay của người khác trong thời kì hôn nhân sử dụng vào mục đích riêng, không đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình. 13 - Nghĩa vụ trả các khoản nợ phát sinh trong quá trình quản lí, sử dụng, định đoạt tài sản riêng. Trừ trường hợp, nợ phát sinh khi vợ, chồng đã tiến hành khai thác các hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng trong thời kì hôn nhân mà vợ chồng không có thỏa thuận những lợi tức đó vẫn thuộc tài sản riêng của vợ chồng. - Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại khi vợ, chồng là người quản lí di sản thừa kế mà đã có hành vi thực hiện các giao dịch nhằm tẩu tán hoặc làm mất mát, hư hỏng di sản. - Các khoản nợ phát sinh khi thực hiện nghĩa vụ về tài sản gắn liền với nhân thân vợ, chồng. - Nghĩa vụ cấp dưỡng mà vợ, chồng phải thực hiện liên đới đối với các thành viên trong gia đình. - Nghĩa vụ bồi thường khoản tiền cấp dưỡng mà vợ, chồng là người được giao quản lí nhưng đã là tiêu tán hoặc sử dụng không đúng mục đích. - Nghĩa vụ trả các khoản nợ phát sinh dựa trên cơ sở vợ, chồng đã có hành vi tự mình tiến hành các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình. - Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh từ hành vi trái pháp luật của vợ, chồng. 14 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan