Luỏỷn vàn
thaỷc sộ
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
***
ĐÀO MỘNG ĐIỆP
ĐỀ TÀI:
CHẾ ĐỘ DẠY VÀ HỌC NGHỀ THEO
PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2002
122
Luỏỷn vàn
thaỷc sộ
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
***
ĐÀO MỘNG ĐIỆP
ĐỀ TÀI:
CHẾ ĐỘ DẠY VÀ HỌC NGHỀ THEO
PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 6.01.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn:
TS: PHẠM CÔNG TRỨ
Hà Nội - 2002
121
Luỏỷn vàn
thaỷc sộ
MỤC LỤC
***
Lời nói đầu.
1. Tính cấp thiết và tình hình nghiên cứu đề tài...................................... 3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ..................................... 5
3. Phương pháp nghiên cứu..................................................................... 6
4. Những đóng góp chính của luận văn .................................................. 7
5. Kết cấu của luận văn ........................................................................... 7
Chƣơng 1: Khái quát chung về dạy và học nghề và sự điều chỉnh
của pháp luật ......................................................................................... 9
1.1. Quyền học và dạy nghề ................................................................. 9
1.1.1. Quyền học nghề ............................................................................ 9
1.1.2. Quyền dạy nghề ............................................................................ 11
1.2. Quan hệ pháp luật về học nghề ..................................................... 12
1.2.1. Quan hệ học nghề là một trong những quan hệ liên quan trực tiếp
với quan hệ lao động ............................................................................... 12
1.2. Hợp đồng học nghề-cơ sở phát sinh quan hệ pháp luật về học
nghề ......................................................................................................... 16
1.3. Ý nghĩa của việc dạy và học nghề ................................................. 18
1.3.1. Ý nghĩa về kinh tế xã hội .............................................................. 19
1.3.2. Ý nghĩa pháp lý ............................................................................. 23
1.4. Pháp luật quốc tế và nước ngoài trong lĩnh vực dạy và học nghề .. 25
1.4.1. Các công ước của tổ chức lao động quốc tế (ILO) ...................... 25
1.4.2. Pháp luật của một số quốc gia khác ............................................. 27
Chƣơng 2: Chế độ dạy và học nghề và thực tiễn thực hiện ở
Việt Nam................................................................................................. 31
2.1.
Lịch sử hình thành và phát triển của chế độ dạy và học nghề ..... 31
1
Luỏỷn vàn
thaỷc sộ
2.1.1 Chế độ dạy và học nghề giai đoạn 1945-1954 ............................. 31
2.1.2. Chế độ dạy và học nghề giai đoạn 1954-1985 ............................. 34
2.1.3. Chế độ dạy và học nghề giai đoạn 1986-1994 ............................. 40
2.1.4. Chế độ dạy và học nghề giai đoạn 1994 đến nay......................... 43
2.2. Nội dung cơ bản của chế độ dạy và học nghề theo pháp luật lao
động hiện hành ........................................................................................ 47
2.2.1. Những quy định của pháp luật đối với người học nghề ............... 47
2.2.2. Những quy định của pháp luật đối với cơ sở dạy nghề .............. 51
2.2.3. Hợp đồng học nghề .................................................................... 60
2.2.4. Giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực học nghề ........................... 69
2.2.5. Trách nhiệm của Nhà nước và doanh nghiệp trong việc dạy và
học nghề cho người lao động .................................................................. 69
2.3.
Thực tiễn thực hiện chế độ dạy và học nghề trong giai đoạn
hiện nay ................................................................................................... 76
2.3.1. Những kết quả bước đầu về dạy và học nghề ............................. 76
2.3.2. Những tồn tại................................................................................. 81
Chƣơng 3: Sự cần thiết và phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về
dạy và học nghề .................................................................................... 91
3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật về dạy và học nghề ....... 91
3.1.1. Những lý do chủ quan ................................................................... 91
3.1.2. Những lý do khách quan ............................................................... 94
3.2. Phương hướng hoàn thiện và áp dụng pháp luật về dạy và học
nghề ......................................................................................................... 99
3.2.1. Những phương hướng cơ bản ....................................................... 99
3.2.2. Những kiến nghị cụ thể ................................................................. 101
Kết luận ................................................................................................... 111
Danh mục tài liệu tham khảo .................................................................. 113
2
Luỏỷn vàn
thaỷc sộ
LỜI NÓI ĐẦU
***
1. Tính cấp thiết và tình hình nghiên cứu đề tài.
Cổ nhân đã có câu: “Nhất nghệ nhân, nhất thân vinh”, tinh thông
một nghề thì vẻ vang suốt đời. Nếu giỏi một nghề, biết nhiều nghề thì càng
vẻ vang hơn. Muốn tinh thông, giỏi nghề thì phải học, học để làm nghề,
vừa làm nghề vừa học. V.I.Lê Nin đã nói: “Học, học nữa, học mãi”. Tổ
chức hợp tác và phát triển kinh tế Châu Âu cũng nêu khái niệm về chính
sách học tập suốt đời, học tập thường xuyên, cho rằng đời người là một quá
trình không ngừng giao nhau, kết hợp giữa học tập và làm việc. Các nước
phát triển đều thiết lập rất sớm các trung tâm dạy nghề, thời gian học ngắn,
thực hành là chính, nhằm vào những nghề mà thị trường đang cần.
Ở Việt Nam, công tác dạy và học nghề có vai trò quan trọng được
Đảng và Nhà nước đặc biệt coi trọng, nhất là trong giai đoạn hiện nay-giai
đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước. Sự nghhiệp công
nghiệp hóa-hiện đại hóa đòi hỏi một lực lượng lao động có trình độ chuyên
môn kỹ thuật vững vàng, đặc biệt là đội ngũ công nhân, kỹ thuật, nhân viên
nghiệp vụ lành nghề. Trong văn kiện Đại hội Đảng IX về phát triển giáo
dục, đào tạo, khoa học và công nghệ đã chỉ rõ: “Giáo dục và đào tạo cùng
với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Đẩy mạnh phong trào
học tập trong nhân dân bằng những hình thức chính quy và không chính
quy, thực hiện “Giáo dục cho mọi người”, “cả nước trở thành một xã hội
học tập” ”. Thực hiện phương châm “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp
với lao động sản xuất, nhà trường gắn với đời sống xã hội”. Hiện đại hóa
một số trường dạy nghề, tăng nhanh tỷ lệ lao động được đào tạo trong toàn
3
Luỏỷn vàn
thaỷc sộ
bộ lao động xã hội. Khuyến khích phát triển hệ thống các trường, lớp dạy
nghề dân lập và tư thục”. [28, 35-36]
Như vậy, vấn đề dạy và học nghề không chỉ có ý nghĩa đối với bản
thân người lao động, mà hơn thế nữa, nó còn là mục tiêu thúc đẩy sự phát
triển kinh tế-xã hội của đất nước. Dạy và học nghề góp phần nâng cao dân
trí, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ, có khả năng thích ứng với nhu cầu
hiện tại của đất nước và xu thế chung của toàn cầu.
Trong hệ thống pháp luật lao động, học nghề là một chế định chiếm
vị trí quan trọng. Có thể nói, Sắc lệnh 29/SL ban hành ngày 12/3/1947, là
cơ sở pháp lý đầu tiên quy định cho việc thiết lập quan hệ lao động nói
chung và chế độ học nghề nói riêng của nước ta. Qua quá trình phát triển,
đặc biệt là khi Nhà nước ta chuyển sang cơ chế thị trường thì nhu cầu dạy
và học nghề đã trở thành nhu cầu cấp thiết đối với người lao động. Đáp ứng
với xu thế chung, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Khóa IX đã thông qua Bộ luật lao động ngày 23/06/1994, trong đó Bộ luật
dành hẳn chương IV quy định về học nghề. Đặc biệt, mới đây Chính phủ
ban hành Nghị định 02/2001/NĐ-CP ngày 09/01/2001 quy định chi tiết thi
hành Bộ luật lao động và Luật giáo dục về dạy nghề. Có thể nói, đây là một
bước tiến quan trọng trong lịch sử phát triển pháp luật lao động nói chung
và pháp luật về dạy, học nghề nói riêng.
Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện pháp luật về dạy và học nghề,
bên cạnh những mặt tích cực không thể phủ nhận được, như: các bên tham
gia quan hệ học nghề đã được pháp luật tạo một hành lang pháp lý vững
chắc để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, mở rộng mô hình đào tạo để
người học tham gia lựa chọn, dạy nghề ngắn hạn đã phát triển mạnh, tạo cơ
hội cho người lao động có việc làm, các điều kiện đảm bảo chất lượng đào
4
Luỏỷn vàn
thaỷc sộ
tạo bước đầu được cải thiện, thì pháp luật về dạy và học nghề vẫn còn bộc
lộ những điểm chưa hợp lý. Thực tế, việc thực hiện chế độ dạy và học nghề
vẫn còn gặp những vướng mắc, khó khăn, vẫn còn một khoảng cách khá
lớn giữa việc ghi nhận trên văn bản và thực tế áp dụng, nhiều quy định cần
phải có hướng dẫn cụ thể. Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: “Chế độ
dạy và học nghề theo pháp luật lao động Việt Nam” để viết luận văn, với
mong muốn góp phần vào quá trình nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện pháp
luật lao động nói chung và pháp luật về dạy, học nghề nói riêng.
Từ trước đến nay, trong lĩnh vực dạy và học nghề đã được đề cập ở
các mức độ khác nhau trong các bài viết, trong các tạp chí, trong các hội
thảo khoa học và các công trình nghiên cứu như: Đào tạo nghề đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế xã hội những năm đầu thế kỷ XXI của Bộ trưởng Bộ
lao động-thương binh xã hội Nguyễn Thị Hằng; Đào tạo nghề là việc làmquốc sách hàng đầu thế kỷ của GS-TSKH Vũ Đình Cự; Về chiến lược phát
triển sự nghiệp dạy và truyền nghề của GS Viện sĩ Phạm Minh Hạc; Ngành
dạy nghề những chuyển biến tích cực và định hướng phát triển của PGS-TS
Đỗ Minh Cương..., nhưng nhìn chung các công trình, các bài viết nghiên
cứu này chỉ tập trung nghiên cứu, tiếp cận lĩnh vực dạy và học nghề dưới
góc độ kinh tế xã hội hoặc chỉ quan tâm ở một khía cạnh, một phương diện
về dạy và học nghề mà chưa có một công trình tổng hợp nào đánh giá một
cách tổng quan về chế độ dạy và học nghề theo pháp luật lao động Việt
Nam. Lần này, luận văn nghiên cứu đề tài: “Chế độ dạy và học nghề theo
pháp luật lao động Việt Nam” sẽ là công trình đầu tiên xem xét một cách
có hệ thống việc dạy và học nghề dưới góc độ pháp lý.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
5
Luỏỷn vàn
thaỷc sộ
Nhằm làm rõ những vấn đề lý luận của sự điều chỉnh pháp luật đối
với việc dạy và học nghề. Trên cơ sở của việc nghiên cứu hệ thống chế độ
dạy và học nghề, đối chiếu với những vấn đề lý luận, rút ra những kết luận,
đánh giá cần thiết. Từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp
luật về dạy và học nghề, cũng như cơ chế áp dụng chúng có hiệu quả trong
thực tiễn.
Phù hợp với mục đích nghiên cứu nói trên, luận văn giải quyết rõ
những nhiệm vụ chủ yếu sau:
Một là, nghiên cứu những vấn đề thuộc về lý luận của việc dạy và
học nghề dưới góc độ pháp luật như: quyền học nghề, khái niệm dạy và học
nghề, quan hệ pháp luật về dạy và học nghề, ý nghĩa của việc điều chỉnh
pháp luật đối với dạy và học nghề...
Hai là, nghiên cứu những công ước của ILO cũng như kinh nghiệm
điều chỉnh pháp luật của một số nước đối với việc dạy và học nghề, có so
sánh, đối chiếu với pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này.
Ba là, nghiên cứu hệ thống các quy phạm của pháp luật Việt Nam
trong lĩnh vực dạy và học nghề, từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá cần
thiết.
Bốn là, phác thảo phương hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về
dạy và học nghề, đưa ra những kiến nghị có tính chất giải pháp cụ thể.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài, chúng tôi dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lê Nin và những quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng-Nhà nước ta về vấn đề lao động và các vấn đề xã hội liên quan.
Phương pháp luận của triết học biện chứng duy vật Mác-Lê Nin được kết
6
Luỏỷn vàn
thaỷc sộ
hợp với các phương pháp so sánh, tổng hợp, thống kê, quy nạp, phân
tích...đồng thời các quy định của Hiến pháp, Bộ luật lao động, các nghị
định, thông tư...được sử dụng với tư cách là cơ sở pháp lý của quá trình
nghiên cứu.
4. Những đóng góp chính của luận văn.
Là công trình nghiên cứu có hệ thống đầu tiên về chế độ dạy và học
nghề dưới góc độ lý luận và thực tiễn thực hiện, luận văn đưa ra những
nhận xét, phân tích, bình luận các quy định của pháp luật lao động hiện
hành về dạy, học nghề, đồng thời luận văn còn đề xuất, bổ sung hoàn thiện
chế định học nghề, cũng như góp phần hoàn thiện cơ chế áp dụng pháp luật
về dạy, học nghề có hiệu quả trong thực tiễn.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho một
số cơ quan khi xây dựng hoạch định các chính sách và chế định pháp luật
về dạy, học nghề.
Kết quả nghiên cứu được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các
trường đào tạo nghề, cho đối tượng sinh viên và những cá nhân muốn tìm
hiểu, quan tâm trong lĩnh vực dạy, học nghề.
5. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
được chia làm 3 chương.
Chương 1: Khái quát chung về dạy và học nghề và sự điều chỉnh
của pháp luật.
Chương 2: Chế độ dạy và học nghề với thực tiễn thực hiện ở Việt
Nam.
7
Luỏỷn vàn
thaỷc sộ
Chương 3: Sự cần thiết và phương hướng hoàn thiện pháp luật về
dạy và học nghề.
Luận văn được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt tình của TS Phạm
Công Trứ- Bộ Tư pháp.
Tôi xin chân thành cám ơn sự hướng dẫn, chỉ bảo đầy trách nhiệm
của TS Phạm Công Trứ.
Trong một khoảng thời gian nhất định, do những điều kiện khách
quan, chủ quan, với sự hạn chế về thông tin, tài liệu tham khảo và thực tiễn
thực hiện nên luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến chỉ bảo của các thầy cô và toàn thể
các bạn.
Huế - 01.2002.
8
Luỏỷn vàn
thaỷc sộ
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DẠY VÀ HỌC NGHỀ
VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT
***
1.1. QUYỀN HỌC VÀ DẠY NGHỀ.
1.1.1. Quyền học nghề.
Học và dạy nghề là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong thực
tiễn đời sống. Tuy nhiên, ít có sách báo, công trình nghiên cứu làm rõ khái
niệm của những thuật ngữ này.
Trước hết, học nghề được hiểu là quá trình con người bằng khả
năng của mình thực hiện những hoạt động có ý thức nhằm nắm bắt những
yêu cầu kỹ thuật tay nghề ở một mức độ nào đó.
Trong đó, quyền học nghề là khả năng Nhà nước cho phép con
người thông qua hoạt động có ý thức nhằm nắm bắt được những yêu cầu kỹ
thuật tay nghề ở một mức độ nhất định để đáp ứng những nhiệm vụ được
giao trên cơ sở những quy định của pháp luật.
Quyền học nghề là một quyền quan trọng trong các quyền của con
người. Con người muốn có tri thức và tồn tại không có gì khác là phải học
tập. Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế Châu Âu cũng cho rằng “đời
người là quá trình không ngừng giao nhau, kết hợp giữa học tập và làm
việc”, còn theo Lê Nin “học tập là là bậc thang không nấc chót”.
Ngoài ra, thực hiện tốt quyền học nghề cũng chính là điều kiện hỗ
trợ cơ bản để thực hiện tốt các quyền khác của công dân như quyền chính
trị, quyền tự do dân chủ, tự do cá nhân. Công dân khi đã lựa chọn cho mình
9
Luỏỷn vàn
thaỷc sộ
một nghề nghiệp phù hợp với bản thân, điều kiện, hoàn cảnh gia đình, tìm
kiếm được một công việc nhất định thì cuộc sống của họ được bảo đảm, ổn
định và lúc đó công dân mới có ý thức, điều kiện để thực hiện các quyền
khác. Quyền học nghề còn giúp người lao động mở mang kiến thức, nâng
cao dân trí, trình độ. Người lao động một khi đã có tay nghề kỹ thuật cao
họ sẽ giúp xã hội phát triển. Ngược lại, khi xã hội đã phát triển nó tác động
trở lại đối với người lao động. Xã hội đòi hỏi một nền công nghiệp tiên tiến
thì người lao động cũng phải trau dồi kỹ năng tay nghề của mình thông qua
quá trình học nghề để phù hợp với xã hội.
Theo Điều 6 của Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa được Đại hội đồng LHQ thông qua ngày 16/12/1966 thì các quốc
gia tham gia công ước thừa nhận quyền làm việc bao gồm quyền của mọi
người được có cơ hội kiếm sống bằng một công việc mình tự do lựa chọn
hoặc chấp nhận và sẽ có những biện pháp thích đáng để bảo vệ quyền này.
Trong số các biện pháp đó, phải bao gồm việc hướng dẫn về kỹ năng và
nghề nghiệp và các chương trình đào tạo.
Theo Hiến pháp 1992 và Pháp luật lao động Việt Nam thì học nghề
được coi là một trong những quyền cơ bản, tất yếu của công dân. Điều 59
Hiến pháp 1992 quy định “Công dân có quyền học văn hóa và học nghề
bằng nhiều hình thức”. Để cụ thể hóa quyền này, trong Bộ luật lao động tại
Điều 5 cũng ghi nhận công dân sinh ra có quyền làm việc, quyền tự do lựa
chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp.
Không chỉ vậy, tất cả những hoạt động tạo ra việc làm, dạy nghề và học
nghề để có việc làm đều được Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện giúp
đỡ và được pháp luật bảo vệ.
10
Luỏỷn vàn
thaỷc sộ
Điểm then chốt của người học nghề có những nhu cầu đa dạng như:
chuẩn bị cho cuộc sống lao động, tìm được hoặc tạo được việc làm cho
mình, thích ứng với việc đã chọn hoặc tái thích ứng với việc làm mới, tạo
cơ sở để thăng tiến, thu nhận trình độ cao hơn với chất lượng cao hơn, dự
phòng để có thể thích ứng nhanh chóng với hoàn cảnh và điều kiện mới khi
mất việc làm do doanh nghiệp thay đổi cơ cấu, công nghệ. Đáp ứng xu
hướng này, Điều 20 Bộ luật lao động quy định: “Mọi người có quyền tự do
lựa chọn nghề và nơi học nghề phù hợp với nhu cầu việc làm của mình”.
Như vậy, quyền học nghề là một quyền thiết yếu của mỗi công dân
trong xã hội. Pháp luật lao động đã ghi nhận và cụ thể hóa quyền này để
công dân tùy đối tượng, tùy hoàn cảnh, tùy điều kiện của bản thân, gia
đình, tùy khả năng mà lựa chọn cho mình một nghề nghiệp phù hợp. Đảng
và Nhà nước ta luôn coi trọng việc dạy và học nghề và coi đây là một trong
những vấn đề mang tính chiến lược và có ý nghĩa “quốc sách”.
1.1.2. Quyền dạy nghề.
Dạy nghề được hiểu là quá trình truyền đạt, cung cấp, bổ sung
những kiến thức, kỹ năng, trình độ cần thiết về một nghề cụ thể dưới những
hình thức khác nhau nhằm tạo ra một đội ngũ lao động sáng tạo và thích
ứng. Trong đó quyền học nghề và quyền dạy nghề là hai bộ phận không thể
tách rời nhau, nó được đặt trong một chỉnh thể thống nhất, có mối quan hệ
biện chứng hữu cơ đối với nhau. Quyền học nghề, quyền dạy nghề luôn hỗ
trợ cho nhau phát triển, không thể có quyền học nghề nếu thiếu quyền dạy
nghề và ngược lại. Pháp luật lao động cũng ghi nhận và bảo vệ cho các
doanh nghiệp tổ chức được dạy nghề. Điều 20 Bộ luật lao động quy định
“Doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân có đủ điều kiện theo quy định của pháp
luật được mở cơ sở dạy nghề”. Điều 21 của Bộ luật lao động bắt buộc các
11
Luỏỷn vàn
thaỷc sộ
cơ sở dạy nghề phải đăng ký, hoạt động theo quy định về dạy nghề, ngoài
ra pháp luật cũng cho phép các cơ sở dạy nghề được thu học phí, nhưng
phải nộp thuế theo quy định của pháp luật. Nhà nước luôn khuyến khích,
tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đầu
tư xây dựng, phát triển cơ sở dạy nghề đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế,
xã hội của đất nước. Pháp luật cũng quy định các trường hợp ưu tiên phát
triển dạy nghề và có chính sách ưu đãi thích hợp đối với cơ sở dạy nghề
cho thương binh, bệnh binh, người tàn tật, người dân tộc thiểu số, người
học nghề thuộc đối tượng hưởng chính sách xã hội, học các nghề có điều
kiện lao động nặng nhọc, độc hại...Quyền dạy nghề là một trong những
quyền cơ bản được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Điều này được phản
ánh trong các chủ trương, chính sách lớn của Nhà nước và thông qua pháp
luật về dạy, học nghề. Mục đích cơ bản là quyền dạy nghề phải được coi
trọng, phải đáp ứng với nhu cầu của người học nghề đang ngày càng phát
triển trong xã hội và các cơ sở dạy nghề phải mở rộng quy mô, loại hình
đào tạo nghề phong phú kết hợp với việc tạo việc làm cho người học nghề.
Hoạt động dạy nghề là một hoạt động tạo ra đội ngũ công nhân kỹ
thuật, nhân viên nghiệp vụ lành nghề chất lượng cao đủ khả năng tiếp cận
với công nghệ sản xuất tiên tiến, thiết bị kỹ thuật hiện đại, có khả năng
cạnh tranh trong thị trường sức lao động trong nước và quốc tế.
Có thể nói, quyền học nghề và quyền dạy nghề thể hiện đường lối,
chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Thông qua kênh pháp luật,
học nghề và dạy nghề ngày càng được ghi nhận chặt chẽ, cụ thể. Pháp luật
về học nghề, dạy nghề đã tạo một hành lang pháp lý để các chủ thể (người
học và người dạy) tích cực tham gia vào quan hệ này.
1.2. QUAN HỆ PHÁP LUẬT VỀ HỌC NGHỀ.
12
Luỏỷn vàn
thaỷc sộ
1.2.1. Quan hệ học nghề là một trong những quan hệ liên quan
trực tiếp với quan hệ lao động.
Theo Điều 1 Bộ luật lao động quy định về đối tượng điều chỉnh của
Luật lao động là “quan hệ lao động giữa người lao động làm công ăn lương
với người sử dụng lao động và các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp với
quan hệ lao động”.
Quan hệ liên quan trực tiếp với quan hệ lao động là những quan hệ
phái sinh của quan hệ lao động, bao gồm:
- Quan hệ học nghề và tạo việc làm.
- Quan hệ về bồi thường thiệt hại.
- Quan hệ về bảo hiểm xã hội.
- Quan hệ giữa người sử dụng lao động và đại diện của tập thể lao
động.
- Quan hệ về giải quyết tranh chấp lao động và đình công.
- Quan hệ về quản lý lao động.
Có thể nói, quan hệ học nghề là “tiền quan hệ lao động”, là quan hệ
giữa người có nhu cầu học nghề và người có khả năng, điều kiện dạy nghề.
Quan hệ pháp luật về học nghề là quan hệ giữa người học nghề và
cơ sở dạy nghề trong quá trình dạy và học nghề được các quy phạm pháp
luật lao động điều chỉnh, trong đó các chủ thể tham gia quan hệ mang
những quyền và nghĩa vụ nhất định.
Quan hệ pháp luật về học nghề mang những đặc điểm cơ bản sau:
. Thứ nhất, chủ thể tham gia quan hệ học nghề gồm có người học
nghề và cơ sở dạy nghề.
13
Luỏỷn vàn
thaỷc sộ
Người học nghề nếu có nhu cầu và điều kiện học nghề không phân
biệt nam nữ, giới tính, tuổi tác có thể giao kết hợp đồng học nghề để học
một hoặc một số nghề nhất định. Muốn trở thành chủ thể của quan hệ pháp
luật về học nghề thì người học nghề và cơ sở dạy nghề cũng phải có điều
kiện nhất định. Người học nghề phải có năng lực pháp luật và năng lực
hành vi.
Năng lực pháp luật về học nghề là khả năng mà pháp luật quy định
cho công dân có quyền được học nghề và thực hiện những nghĩa vụ về học
nghề.
Năng lực hành vi là khả năng của cá nhân bằng chính hành vi của
mình trực tiếp tham gia vào quan hệ pháp luật về học nghề để gánh vác
những nghĩa vụ và thực hiện những quyền lợi nhất định. Năng lực hành vi
thể hiện thông qua hai điều kiện cần và đủ là thể lực (điều kiện về sức
khỏe) và trí lực (khả năng nhận thức được hành vi của mình và phải đạt
một độ tuổi nhất định).
Như vậy, khi tham gia vào quan hệ pháp luật về học nghề, người
học nghề phải đủ độ tuổi và sức khỏe theo quy định tại Điều 22 bộ luật lao
động “Người học nghề ở cơ sở dạy nghề ít nhất đủ 13 tuổi và phải có đủ
sức khỏe, phù hợp với yêu cầu của nghề theo học”. Pháp luật quy định độ
tuổi 13 là thích hợp cho người học nghề vì quan hệ học nghề với đặc trưng
học thực hành là chính và học trong thời gian ngắn. Ngoài ra, trong một số
trường hợp độ tuổi học nghề có thể cao hơn 13 tuổi áp dụng đối với các
ngành nghề nặng nhọc, độc hại nguy hiểm đòi hỏi người học nghề phải có
sức khỏe và trình độ nhất định. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp pháp
luật thừa nhận sự hạn chế năng lực hành vi của chủ thể khi tham gia quan
hệ học nghề như nghệ thuật xiếc, múa, văn hóa thì độ tuổi học nghề có thể
14
Luỏỷn vàn
thaỷc sộ
thấp hơn 13 tuổi. Tùy mức độ đòi hỏi về thể lực và trí lực của nghề đào tạo,
đặc trưng của nghề đào tạo, mức độ phức tạp của ngành nghề mà pháp luật
có những giới hạn độ tuổi khác nhau trên độ tuổi chuẩn là 13 tuổi. Bộ luật
lao động chỉ đưa ra tiêu chí định hướng chung trong điều kiện bình thường,
còn trong điều kiện cụ thể, ngành nghề cụ thể đã có các tiêu chí riêng biệt
do Bộ lao động-thương binh xã hội quy định.
Cơ sở dạy nghề là một bên trong quan hệ pháp luật về học nghề với
chức năng cơ bản là dạy nghề. Tuy nhiên việc dạy nghề đạt hiệu quả cao
hay thấp lại phụ thuộc vào chất lượng giảng dạy của người dạy và thái độ ý
thức của người học nghề. Trong đó hoạt động dạy và học nghề thường diễn
ra ở một địa điểm nhất định, không gian cụ thể gắn với cơ sở đào tạo.
Người học nghề tìm đến các cơ sở đào tạo nghề để xin vào học, còn cơ sở
dạy nghề tiếp nhận học viên, bố trí giáo viên dạy. Nhiều trường hợp người
dạy nghề không thể tự mở các cơ sở đào tạo nghề tư nhân và cũng không
có điều kiện để trực tiếp ký kết hợp đồng học nghề với người học mà
thường làm việc cho các trung tâm dạy nghề. Nếu người dạy nghề trực tiếp
mở cơ sở dạy nghề thì họ là đại diện cho cơ sở dạy nghề của chính mình.
Theo Điều 1 quy chế hoạt động của cơ sở dạy nghề ban hành kèm theo
quyết định số 1114/LĐ-TBXH-QĐ ngày 12/9/1996 của Bộ trưởng Bộ lao
động-thương binh xã hội thì cơ sở dạy nghề được hiểu là một tổ chức được
thành lập theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng dạy nghề, bổ
túc nghề, bồi dưỡng nghề cho người lao động, theo hợp đồng học nghề.
Chức năng của cơ sở dạy nghề bao gồm: Dạy nghề mới và dạy lại
nghề.
Dạy nghề mới: là dạy nghề cho những người chưa qua học nghề đó.
15
Luỏỷn vàn
thaỷc sộ
Dạy lại nghề: là dạy nghề cho những người đã có nghề, nhưng do
yêu cầu sản xuất, tiến bộ kỹ thuật mà nghề đang làm không còn đáp ứng
đòi hỏi của công việc được giao.
. Thứ hai, xét về mặt nội dung, quan hệ pháp luật về học nghề quy
định quyền và nghĩa vụ của người học nghề và cơ sở dạy nghề theo quy
định của Bộ luật lao động và các văn bản hướng dẫn liên quan.
. Thứ ba, xét về mặt hình thức, các bên khi tham gia quan hệ pháp
luật về học nghề thiết lập quyền và nghĩa vụ cụ thể phát sinh trên cơ sở sự
thỏa thuận trong hợp đồng học nghề và các quy định của pháp luật lao động
bao gồm những vấn đề như mục tiêu đào tạo, địa điểm, học phí, thời gian
học, bồi thường thiệt hại khi vi phạm hợp đồng.
Như vậy, có thể xem hợp đồng học nghề là căn cứ pháp lý quan
trọng làm phát sinh, thiết lập quan hệ giữa người có nhu cầu học nghề và
người có khả năng, điều kiện dạy nghề.
. Thứ tư, trong quá trình sử dụng lao động, người sử dụng có trách
nhiệm đào tạo nghề, nâng cao tay nghề, đào tạo lại, bổ túc nghề cho người
lao động.
Tóm lại, quan hệ pháp luật về học nghề là bộ phận cơ bản thiết yếu,
có mối quan hệ chặt chẽ với các quan hệ khác như việc làm, bảo hiểm xã
hội...để tạo nên những quan hệ liên quan đến quan hệ lao động. Đây là
quan hệ quan trọng không thể thiếu được trong luật lao động.
1.2. HỢP ĐỒNG HỌC NGHỀ-CƠ SỞ PHÁT SINH QUAN HỆ
PHÁP LUẬT VỀ HỌC NGHỀ.
16
Luỏỷn vàn
thaỷc sộ
Theo từ điển tiếng Việt 1995, thì hợp đồng được hiểu là sự thỏa
thuận, giao ước giữa hai hay nhiều bên quy định các quyền lợi, nghĩa vụ
của các bên tham gia, thường được viết thành văn bản.
Bản chất của hợp đồng nói chung là sự thỏa thuận giữa các bên. Chỉ
coi sự thỏa thuận khi cam kết mà các bên đưa ra phù hợp với ý muốn đích
thực của họ. Các cam kết đưa ra do tác động của sự lừa dối, nhầm lẫn
cưỡng bức thì không được coi là sự thỏa thuận. Sự thỏa thuận của các bên
phải phù hợp với những gì các bên cam kết. Tất cả các hợp đồng đều là sự
thỏa thuận, song không phải sự thỏa thuận nào cũng là hợp đồng.
Hợp đồng học nghề cũng là một loại hợp đồng cho nên nó mang
bản chất của một hợp đồng. Theo quy định tại Điều 24 Bộ luật lao động:
“Việc học nghề phải có hợp đồng học nghề giao kết giữa người học nghề
với người dạy nghề hoặc đại diện cơ sở dạy nghề. Hợp đồng học nghề có
thể ký kết bằng văn bản hoặc bằng miệng”. Nếu việc ký kết bằng văn bản,
thì hợp đồng làm thành 2 bản, mỗi bên giữ một bản. Hợp đồng học nghề sẽ
là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật về học nghề, đồng thời nó
cũng là căn cứ quan trọng để giải quyết tranh chấp bất đồng xảy ra.
Theo Điều 28 Nghị định 02/CP ngày 09/01/2001 thì “hợp đồng học
nghề thể hiện các cam kết giữa cơ sở dạy nghề và người học nghề hoặc
giữa cơ sở dạy nghề và tổ chức, cá nhân có nhu cầu đào tạo nghề về quyền,
lợi ích, nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi bên trong thời gian dạy nghề”.
Như vậy, chủ thể của hợp đồng học nghề theo Điều 28, Nghị định 02/CP
ngày 09/01/2001 bao gồm: người học nghề và cơ sở dạy nghề.
Người học nghề: là công dân từ đủ 13 tuổi trở lên có quyền giao kết
hợp đồng học nghề. Trong một số trường hợp đặc biệt độ tuổi này có thể
cao hơn hoặc thấp hơn tùy tính chất công việc do Bộ lao động quy định.
17
Luỏỷn vàn
thaỷc sộ
Cơ sở dạy nghề: bao gồm các cá nhân, pháp nhân phải có đăng ký
hoạt động hoặc được cấp giấy phép hành nghề thỏa mãn những quy định
của pháp luật.
Nội dung chủ yếu của hợp đồng học nghề, bao gồm:
- Tên nghề học.
- Mục tiêu học.
- Thời gian học lý thuyết và thực hành.
- Loại máy móc, thiết bị dùng cho học tập, cách tổ chức thực tập,
phương tiện an toàn vệ sinh lao động.
- Nơi học và nơi thực tập.
- Số học phí phải trả, mức học phí được miễn hoặc giảm (nếu có),
cách trả học phí.
- Hướng giải quyết việc làm cho người học nghề sau khi học xong.
- Bồi thường phí học nghề do vi phạm hợp đồng học nghề theo quy
định của pháp luật.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng học nghề, nếu người học nghề
đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn mà không có lý do chính
đáng, thì không được lấy lại học phí đã nộp.
Trong trường hợp doanh nghiệp nhận người vào học nghề để sử
dụng thì hợp đồng học nghề phải có cam kết về thời gian làm việc cho
doanh nghiệp và phải đảm bảo ký kết hợp đồng lao động sau khi học xong.
Người học nghề sau khi học xong, nếu không làm việc theo cam kết thì
phải bồi thường phí dạy nghề. Phí dạy nghề bao gồm các khoản chi phí cho
18
- Xem thêm -