Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Chế độ bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật và thực tiễn thực hiện (kèm phụ l...

Tài liệu Chế độ bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật và thực tiễn thực hiện (kèm phụ lục)

.DOC
25
127
140

Mô tả:

Pháp luật người khuyếết tật MỤC LỤC MỞ BÀI....................................................................................................................1 NỘI DUNG...............................................................................................................1 I. Khái quát chung về chế độ bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật.........1 1. Một số khái niệm...........................................................................................1 2. Ý nghĩa của bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật....................................2 3. Nguyên tắc cơ bản của bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật...................3 II. Nội dung chế độ bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật...........................4 1. Chế độ trợ cấp xã hội, hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng......................5 2. Chế độ nuôi dưỡng người khuyết tật trong cơ sở bảo trợ xã hội.................9 3. Cơ sở chăm sóc người khuyết tật................................................................11 III. Thực tiễn thực hiện...................................................................................13 KẾT LUẬN............................................................................................................15 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................16 PHỤ LỤC 1............................................................................................................17 PHỤ LỤC 2............................................................................................................21 0 Pháp luật người khuyếết tật MỞ BÀI Vẫn biết rằng cuộc sống vốn không công bằng. Nhưng xét ở một mức độ nào đó, con người vẫn luôn đi tìm những cơ hội, tự tạo ra cho mình và cho xã hội những cơ may để khiến cuộc sống trở nên công bằng hơn. Một trong những ví dụ tiêu biểu chính là trường hợp người khuyết tật và chế đội bảo trợ với nhóm người này. Người khuyết tật vốn “yếu thế” hơn những người bình thường, họ có thể gặp phải khiếm khuyết về sức khỏe, sự khó khăn về kinh tế, hay bất hạnh về cuộc sống, và tất cả khiến họ bị hạn chế trong cơ hội tiếp cận và hòa nhập cuộc sống. Và chế độ bảo trợ xã hội ra đời như một biện pháp làm cân bằng hơn cuộc sống của nhóm người kém may mắn này. Những biện pháp bảo vệ đối tượng yếu thế có sự tham gia của Nhà nước chính là nội dung của bảo trợ xã hội. Trong bài này em xin làm rõ chủ đề: “Chế độ bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật và thực tiễn thực hiện.” NỘI DUNG I. Khái quát chung về chế độ bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật 1. Một số khái niệm Dựa trên quan điểm chung của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) và riêng ở Việt Nam, có thể hiểu bảo trợ xã hội là sự giúp đỡ của nhà nước, xã hội và cộng động bằng những biện pháp và các hình thức khác nhau đối với các đối tượng gặp rủi ro, bất hạnh, nghèo đói... vì nhiều nguyên nhân dẫn đến không đủ khác năng tự lo liệu được cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình nhằm giúp họ tránh được mối đe dọa của cuộc sống thường nhật, giúp họ vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng. Theo khái niệm này, đối tượng bảo trợ xã hội chính là những người gặp khó khăn, rủi ro, biến cố, bất hạnh trong cuộc sống vì nhiều nguyên nhân khác nhau cần có sự giúp đỡ. Những đối tượng được kể đến đầu tiên trong hầu hết các quy định của pháp luật bảo trợ xã hội các quốc gia đều là nhóm người khuyết tật, người già cô đơn, trẻ em mồ côi thiếu người nuôi dưỡng... 1 Pháp luật người khuyếết tật Bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật được hiểu là tổng hợp các cơ chế, chính sách và các giải pháp của nhà nước và cộng đồng xã hội nhằm trợ giúp và bảo vệ cho người khuyết tật, trước hết và chủ yếu là những khoản trợ cấp, hỗ trợ và các chi phí khác nhằm giúp cho đối tượng ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng. Theo đó nội dung của bảo trợ xã hội cho người khuyết tật cũng chính là các nội dung của bảo trợ xã hội nói chung áp dụng với đối tượng hưởng là người khuyết tật khi thỏa mãn các điều kiện hưởng trong các chế độ trợ cấp, hỗ trợ. 2. Ý nghĩa của bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật Người khuyết tật luôn chiếm một tỉ lệ nhất định trong dân số mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, theo báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, ước tính cả nước có khoảng 5,3 triệu người khuyết tật, chiếm 6,34% dân số cả nước. Xem xét về thể trạng và cơ hội tạo thu nhập đảm bảo cuộc sống cho thấy với những khuyết tật của mình, nhóm đối tượng này đã trở thành yếu thế so với những người bình thường. Họ cần giúp đỡ, hỗ trợ để đảm bảo cuộc sống. Với trách nhiệm đảm bảo và chăm lo đời sống cho các thành viên xã hội, Nhà nước xác định trách nhiệm của mình đối với cuộc sống của người khuyết tật, trước hết và cơ bản là khoản trợ cấp, hỗ trợ nuôi dưỡng trong chế độ bảo trợ xã hội. Việc xem xét ý nghĩa của bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật không chỉ dừng lại ở ý nghĩa về kinh tế như một sự phân phối lại thu nhập xã hội một cách công bằng mà còn có ý nghĩa về mặt xã hội, chính trị và pháp luật. Trước hết, dưới góc độ kinh tế, bảo trợ xã hội có ý nghĩa thiết thực đối với đời sống của người khuyết tật và gia đình họ thông qua khoản trợ cấp hỗ trợ, góp phần đảm bảo cho nhu cầu sinh sống tối thiểu của người khuyết tật. Bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật là một biện pháp kinh tế góp phần đẩy lùi nghèo đói, khắc phục rủi ro, thúc đẩy kinh tế, phát triển. Các khoản trợ cấp bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật còn có ý nghĩa là công cụ phân phối lại tiền bạc, của cải và dịch vụ có lợi cho các thành viên yếu thế, thu hẹp dần sự chênh lệch mức sống, giảm 2 Pháp luật người khuyếết tật bớt bần cùng, nghèo đói. Việc cung cấp các khoản trợ giúp xã hội từ nguồn tài chính công đó không vì mục đích kinh doanh, lợi nhuận và mang ý nghĩa phân phối lại thu nhập xã hội theo hướng công bằng, đảm bảo lợi ích xã hội đối với người khuyết tật nói riêng và toàn bộ dân chúng nói chung. Thứ hai, dưới góc độ chính trị xã hội, bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật còn là biện pháp hỗ trợ tích cực của xã hội đối với mỗi thành viên của mình khi gặp rủi ro, hạn chế về sức khỏe; góp phần làm giảm thiểu những bất ổn xã hội, ổn định xã hội, ổn định chính trị bởi lẽ khi rơi vào cảnh túng quẫn, phân biệt đối xử con người sẽ dễ nảy sinh những hành vi lệch lạc về chuẩn mực đạo đức. Đây sẽ là nền tảng cơ bản thúc đẩy phát triển bền vững về kinh tế xã hội và chính trị mỗi quốc gia. Thứ ba, dưới góc độ pháp luật, bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật là một trong những nội dung của pháp luật an sinh xã hội, điều chỉnh việc trợ giúp vật chất và tinh thần cho nhóm đối tượng có vị thế bất lợi, thiệt thòi, ít có cơ may trong cuộc sống như những người bình thường khác. Bảo trợ xã hội cho người khuyết tật với các chế độ trợ cấp được thiết lập trên cơ sở đảm bảo quyền con người. Mỗi con người sinh ra trong xã hội đều có quyền được sống, được bình đẳng, được thương yêu, đùm bọc, che chắn, bảo vệ trước những biến cố bất lợi, đặc biệt là khi sự sống bị đe dọa. Quyền này đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn nhân quyền của Liên hợp quốc ngày 10/12/1948: “mọi người đều có quyền hưởng một mức sống đủ đảm bảo sức khỏe và nhu yếu của mình cùng gia đình, nhất là về ăn uống, nhà ở, thuốc men…” (Điều 22 Tuyên ngôn nhân quyền). Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội và những đặc thù riêng mà mỗi quốc gia đều luật hóa nội dung này ở mức độ khác nhau để tổ chức thực hiện. Từ đó có thể thấy, bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật là quyền của mỗi thành viên xã hội và là trách nhiệm, nghĩa vụ của cả cộng đồng. 3. Nguyên tắc cơ bản của bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật 3 Pháp luật người khuyếết tật + Người khuyết tật có quyền được hưởng bảo trợ xã hội không có sự phân biệt theo tiêu chí nào. + Mức trợ cấp bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật không phụ thuộc vào sự đóng góp, thu nhập hoặc mức sống của họ mà chủ yếu phụ thuộc vào mức độ khuyết tật và nhu cầu thực tế của đối tượng. + Thực hiện bảo trợ xã hội cân đối giữa nhu cầu thực tế của người khuyết tật và phù hợp với khả năng đáp ứng của điều kiện kinh tế xã hội. + Đa dạng hóa, xã hội hóa hoạt động bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật, phát huy khả năng vươn lên hòa nhập cộng đồng. II. Nội dung chế độ bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật Trên phương diện pháp luật quốc tế, ngày 13/12/2006, tại kì họp lần thứ 61 của Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Công ước về quyền của người khuyết tật. Đây là một văn bản quy phạm pháp luật quốc tế đầu tiên của xã hội loài người, khẳng định mọi tiếp cận của người khuyết tật đều dựa trên quyền của người khuyết tật. Tại điều 28 Công ước quy định về mức sống và bảo trợ xã hội: “Các quốc gia thành viên công nhận quyền của người khuyết tật có được mức sống đầy đủ cho bản thân và gia đình họ, bao gồm có đủ thức ăn, quần áo và nhà ở, và có quyền không ngừng cải thiện điều kiện sống. Các quốc gia thành viên thực thi những bướ phù hợp để bảo vệ và thúc đẩy việc công nhận quyền đó mà không có sự phân biệt đối xử vì lí do khuyết tật”. Để đảm bảo quyền này, công ước cũng đề xuất những biện pháp đảm bảo thực hiện quyền. Những quy định này là nguồn pháp luật cơ bản mà các quốc gia phê chuẩn công ước phải nội luật hóa đảm bảo thực hiện. Ngày 22/10/2007, Việt Nam đã kí cam kết tham gia Công ước về quyền của người khuyết tật và nhanh chóng nội luật hóa thực hiện. Kế thừa thành tựu lập pháp và các nội dung về bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật, nội dung bảo trợ xã hội cho người khuyết tật ở Việt Nam được quy định trong một chương (chương VIII) trong Luật người khuyết tật 2010, từ Điều 44 tới Điều 48. 4 Pháp luật người khuyếết tật Chế độ bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật là nội dung cơ bản của pháp luật bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật, quy định quyền, nghĩa vụ của nhà nước, tổ chức, cá nhân trong việc hỗ trợ, giúp đỡ cho người khuyết tật thông qua các khoản trợ cấp. Ở Việt Nam, bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật được quan tâm thực hiện từ rất sớm và thực sự được ghi nhận với vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật bằng sự ra đời của Pháp lệnh về người tàn tật ngày 30 tháng 7 năm 1998. Sau 10 năm thực hiện với hệ thống văn bản hướng dẫn đã tạo được môi trường pháp lí thuận lợi bảo vệ và hỗ trợ cho người khuyết tật hòa nhập cộng đồng. Trên phương diện chế độ bảo trợ xã hội cho người khuyết tật, phải kể đến sự ra đời của Nghị định số 07/2000/NĐ-CP ngày 9/3/2000 về chính sách cứu trợ xã hội, Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 về chính sách trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội, Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27/2/2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/NĐ-CP, Chỉ thị số 01/2006/CT-TTg ngày 9/1/2006 về việc đẩy mạnh thực hiện chính sách trợ giúp người tàn tật trong tình hình phát triển kinh tế xã hội hiện nay… và một số các văn bản hướng dẫn của các Bộ, ngành. Điểm mốc đánh dấu sự phát triển của chế độ bảo trợ xã hội nói riêng và pháp luật người khuyết tật nói chung là sự ra đời của Luật người khuyết tật 2010. Theo đó, chế độ bảo trợ xã hội cho người khuyết tật chủ yếu bao gồm chế độ trợ cấp, hỗ trợ cho người khuyết tật và chế độ nuôi dưỡng người khuyết tật tại các cơ sở bảo trợ xã hội. 1. Chế độ trợ cấp xã hội, hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng Đây là chế độ trợ cấp cơ bản của bảo trợ xã hội cho người khuyết tật. Theo quy định của Luật người khuyết tật, để được hưởng khoản trợ cấp và hỗ trợ đối tượng khuyết tật phải đảm bảo điều kiện hưởng. Điều kiện để hưởng trợ cấp xã hội và hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng với hai nhóm đối tượng có sự khác nhau. Đối với chế độ trợ cấp xã hội hàng tháng, cần xác định không phải mọi đối tượng khuyết tật đều được hưởng trợ cấp này mà điều kiện hưởng thực hiện theo nguyên 5 Pháp luật người khuyếết tật tắc lũy thoái từ đối tượng khuyết tật nặng nhất với nhu cầu cấp thiết nhất. Theo Điều 44 Luật người khuyết tật 2010, để hưởng trợ cấp này đối tượng phải được xác định là: + Người khuyết tật nặng. + Người khuyết tật đặc biệt nặng. Như vậy, theo Luật người khuyết tật tiêu chí xác định đối tượng hưởng trợ cấp chỉ dừng lại ở mức độ khuyết tật mà không đề cập đến các điều kiện khác như hoàn cảnh kinh tế, tình trạng tài sản, tình trạng thân nhân… So với pháp luật quốc gia khác, quy định về điều kiện hưởng này tỏ ra “thoáng” hơn. Thông tư số 24/2010/TTLT-BLĐTBXH-BTC ngày 18/8/2010 của liên Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP và Nghị định số 13/2010/NĐ-CP đã quy định điều kiện xác định người tàn tật nặng không có khả năng lao động là: - Đủ 15 tuổi trở lên. - Bị tàn tật, giảm thiểu chức năng không thể lao động được. - Được Hội đồng xét duyệt cấp xã công nhận hoặc bệnh viện cấp huyện trở lên xác nhận. Tiêu chí độ tuổi theo quy định ở đây được đặt trong tương quan chung với Luật lao động, nhằm đảm bảo yêu cầu người khuyết tật không có khả năng lao động khi họ trong độ tuổi lao động. Đối với người không có khả năng tự phục vụ được xác định là: - Người khuyết tật không có khả năng tự phục vụ sinh hoạt cá nhân. - Được Hội đồng xét duyệt cấp xã hoặc bệnh viện cấp huyện trở lên xác nhận. Bên cạnh chế độ trợ cấp với bản thân đối tượng khuyết tật, luật cũng quy định quyền lợi cho thân nhân, gia đình và người nhận nuôi người khuyết tật thông 6 Pháp luật người khuyếết tật quan chế độ hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng (Khoản 2 Điều 44 Luật người khuyết tật). Những đối tượng được hỗ trợ kinh phí nuôi người khuyết tật bao gồm: - Gia đình có người khuyết tật đặc biệt nặng đang trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc người đó. - Người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật đặc biệt nặng. - Đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Luật người khuyết tật quy định phạm vi đối tượng hưởng hỗ trợ kinh phí nuôi dưỡng mở rộng hơn nhiều so với quy định trước đây. Việc bổ sung thêm 2 nhóm đối tượng là người nhận nuôi dưỡng chăm sóc người khuyết tật đặc biệt nặng và người khuyết tật mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng thể hiện sự tiến bộ trong xu hướng xã hội hóa thực hiện và sự đảm bảo quyền của bà mẹ trẻ em. Hơn nữa, luật hiện hành cũng không đưa ra điều kiện về yêu cầu số lượng người khuyết tật như trong quy định trước đây tại Nghị định 67/2007/NĐ-CP (có từ 02 người khuyết tật nặng trở lên). Những quy định này cho thấy việc đảm bảo quyền cho người khuyết tật nói chung và đặc biệt với những người khuyết tật nặng ngày càng được bảo vệ hơn lên trong quy định của pháp luật về người khuyết tật ở Việt Nam. Để được hưởng trợ cấp, hỗ trợ hàng tháng đối tượng phải đảm bảo thủ tục với quy định về hồ sơ, trình tự xin hưởng trợ cấp, hỗ trợ. Hồ sơ của đối tượng bao gồm: (i) Đơn đề nghị hưởng trợ cấp của đối tượng hoặc gia đình, người thân, người giám hộ theo mẫu quy định; (ii) Sơ yếu lí lịch của đối tượng hưởng trợ cấp và (iii) Biên bản họp hội đồng xét duyệt trợ cấp xã hội tại xã, phường, thị trấn hoặc văn bản xác nhận của bệnh viện cấp huyện trở lên. Trường hợp có ý kiến thắc mắc, khiếu nại, tố cáo sau khi đã niêm yết danh sách công khai cần có văn bản kết luận của Hội đồng xét duyệt cấp xã. Hồ sơ được gửi tới ủy ban nhân dân cấp xã xét duyệt. Trình tự thủ tục xét duyệt hưởng trợ cấp được quy định tại Điều 4 Thông tư liên tịch số 24/2010/TTLT-BLĐTBXH-BTC. Theo đó, trong thời hạn 20 ngày kể 7 Pháp luật người khuyếết tật từ ngày tiếp nhận đủ hồ sơ, Hội đồng xét duyệt trợ cấp cấp xã tổ chức họp, xét duyệt hồ sơ đối tượng (chương II Luật người khuyết tật), nếu đủ điều kiện hưởng sẽ niêm yết công khai tại trụ sở UBND xấp xã trong vòng 7 ngày và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng. Hết thời gian niêm yết nếu không có ý kiến thắc mắc, khiếu nại thì Hội đồng hoàn thiện hồ sơ và trình Chủ tịch UBND cấp xã có văn bản gửi Phòng lao động – thương binh xã hội xem xét giải quyết. Trường hợp có khiếu nại, tố cáo của công dân thì trong thời hạn 10 ngày Hội đồng xét duyệt phải tiến hành xác minh và đưa ra kết luận công khai. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị của cấp xã, Phòng lao động thương binh xã hội có trách nhiệm thẩm định trình Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện ra quyết định cho từng đối tượng. Có thể thấy, quy định về thủ tục hưởng trợ cấp của người khuyết tật khá chặt chẽ. Về chế độ hưởng, mức trợ cấp hàng tháng và hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng được Chính phủ quy định cụ thể. Mức trợ cấp này được xác định và điều chỉnh trong tương quan mối quan hệ chung với mức trợ cấp của các đối tượng chính sách khác, phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước và điều kiện thực tế. Việc đáp ứng nhu cầu trợ giúp cho người khuyết tật nói riêng và các đối tượng xã hội khác nói chung phải được tính toán cân đối với khả năng đáp ứng và điều kiện kinh tế - xã hội từng giai đoạn cụ thể của đất nước, nếu không sẽ ảnh hưởng đến các chính sách kinh tế, phát triển khác. Do mục đích của trợ cấp bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật là nhằm hỗ trợ, giúp đỡ ở mức độ cần thiết đảm bảo các nhu cầu sinh sống cơ bản của người khuyết tật nên mức trợ cấp được xác định trên cơ sở của chi phí sinh hoạt tối thiểu (không phải tiền lương tối thiểu hay mức sống tối thiểu). Mức trợ cấp hiện hành được thiết kế bằng việc quy định mức chuẩn (hệ số 1) và xác định các mức trợ cấp xã hội hàng tháng thấp nhất tương ứng với mức độ suy giảm sức khỏe, có tính đến yếu tố hoàn cảnh gia đình. Để đảm bảo công bằng cho đối tượng hưởng, trường 8 Pháp luật người khuyếết tật hợp người khuyết tật thuộc diện hưởng các mức khác nhau thì được ưu tiên hưởng mức cao nhất. Khoản 3 Điều 44 Luật người khuyết tật quy định đối với người khuyết tật là trẻ em, người cao tuổi được hưởng mức cao hơn đối tượng có cùng mức độ khuyết tật. Trường hợp đối tượng không đảm bảo được cuộc sống ở cộng đồng sẽ được xem xét tiếp nhận vào cơ sở bảo trợ xã hội để nuôi dưỡng. Những đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng khi chết được hỗ trợ chi phí mai tang. Mức chuẩn xác định mức trợ cấp xã hội và hỗ trợ hàng tháng được điều chỉnh khi mức sống tối thiểu của dân cư thay đổi. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của địa phương, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định mức trợ cấp xã hội, hỗ trợ kinh phí nuôi dưỡng, mai táng phí cho phù hợp nhưng không thấp hơn mức thấp nhất do Chính phủ quy định. Trên cơ sở đó mức trợ cấp của người khuyết tật sống ở địa phương được xác định theo quy định của địa phương và đương nhiên cũng sẽ có sự khác nhau nhất định giữa các địa phương. Bên cạnh khoản trợ cấp, hỗ trợ từ nguồn tài chính công, Nhà nước cũng chú trọng tới việc phát huy tối đa khả năng của bản thân đối tượng, gia đình và cộng đồng trong việc đảm bảo và nâng cao chất lượng cuộc sống người khuyết tật. 2. Chế độ nuôi dưỡng người khuyết tật trong cơ sở bảo trợ xã hội Nuôi dưỡng người khuyết tật tại các cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước là một chế độ nhân đạo và đặc biệt có ý nghĩa đối với đối tượng người khuyết tật. Theo Điều 45 Luật người khuyết tật, đối tượng người khuyết tật được tiếp nhận vào cơ sở bảo trợ xã hội chỉ được giới hạn là những đối tượng khuyết tật đặc biệt nặng, không có nơi nương tựa, không tự lo được cuộc sống tại cộng đồng. Thực tế cho thấy, hoàn cảnh sống của những đối tượng này vô cùng khó khăn, không có sự chăm sóc, hỗ trợ thường xuyên hàng ngày, tính mạng họ có thể bị đe dọa. Để được tiếp nhận đối tượng người khuyết tật vào cơ sở bảo trợ xã hội thì đối tượng, gia đình hoặc người giám hộ phải hoàn thiện hồ sơ xin tiếp nhận vào cơ sở bảo trợ. Hồ sơ bao gồm đơn xin tiếp nhận vào cơ sở bảo trợ, sơ yếu lí lịch của 9 Pháp luật người khuyếết tật đối tượng, biên bản họp xét duyệt cấp xã, giấy xác nhận khuyết tật và các giấy tờ liên quan. Hồ sơ được gửi tới ủy ban nhân dân cấp xã, trong thời hạn nhất định, hội đồng xét duyệt cấp xã tổ chức họp, xét duyệt đối tượng và thông báo kết quả công khai, nếu không có thắc mắc khiếu nại sẽ hoàn thiện hồ sơ gửi lên phòng lao động – thương binh và xã hội xem xét giải quyết, chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện là người có thẩm quyền ra quyết định đối với việc tiếp nhận đối tượng vào nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ. Khi được tiếp nhận, cơ sở bảo trợ có trách nhiệm lập và quản lí hồ sơ đối tượng. Theo Khoản 2 Điều 45 Luật người khuyết tật, chế độ bảo trợ xã hội đối với đối tượng người khuyết tật sống tại các cơ sở bảo trợ được đảm bảo bằng nhà nước thông qua kinh phí nuôi dưỡng người khuyết tật, bao gồm: - Trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng. - Chi phí mua sắm tư trang, vật dụng sinh hoạt hàng ngày. - Chi phí mua thẻ bảo hiểm y tế. - Chi phí mua thuốc chữa bệnh thông thường. - Chi phí mua dụng cụ, phương tiện hỗ trợ phục hồi chức năng. - Chi phí mai táng khi đối tượng chết. - Chi phí cho vệ sinh cá nhân hàng tháng đối với người khuyết tật là nữ. Mức trợ cấp nuôi dưỡng người khuyết tật đặc biệt nặng trong cơ sở bảo trợ xã hội cũng được quy định trên cơ sở hệ số mức trợ cấp chuẩn do Chính phủ quy định trong từng giai đoạn cụ thể. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của địa phương, chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định mức mua sắm tư trang, vật dụng phục vụ sinh hoạt đời sống hàng ngày, mua thuốc chữa bệnh thông thường và vệ sinh hàng tháng đối với phụ nữ. Mức hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế được thực hiện theo quy định của Luật bảo hiểm y tế. Theo đó, đối tượng này được đảm bảo 100% kinh phí mua thẻ bảo hiểm y tế từ ngân sách nhà nước. 10 Pháp luật người khuyếết tật Nhìn chung, chế độ nuôi dưỡng đối với người khuyết tật trong cơ sở bảo trợ tương đối toàn diện với việc đảm bảo các nhu cầu sinh sống tối thiểu, đặc biệt Luật cũng quy định cụ thể về lợi ích chăm sóc y tế và khám chữa bệnh cho đối tượng người khuyết tật. Với những đối tượng khuyết tật nặng, đây là một quyền lợi thiết thực và đặc biệt có ý nghĩa đối với cuộc sống của họ. Bằng hoạt động xã hội hóa thực hiện, nhà nước khuyến khích thành lập các cơ sở bảo trợ xã hội khác với những hỗ trợ, ưu đãi nhất định. Hiện nay song song với hệ thống cơ sở bảo trợ xã hội của nhà nước, hệ thống các cơ sở bảo trợ xã hội của các tổ chức, cá nhân với mục đích nhân đạo đóng góp vai trò quan trọng trong việc đảm bảo đời sống những người khuyết tật không thể tự lo liệu được cuộc sống. 3. Cơ sở chăm sóc người khuyết tật Cơ sở chăm sóc người khuyết tật là cơ sở nuôi dưỡng, cung cấp dịch vụ tư vấn, trợ giúp người khuyết tật. Với nội dung hoạt động của mình, các cơ sở chăm sóc người khuyết tật không chỉ dừng lại ở hoạt động nuôi dưỡng mà chú trọng tới việc chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng và hòa nhập cộng đồng. Các cơ sở này đang chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động hòa nhập cộng đồng trên quan điểm tiến bộ về người khuyết tật. Theo Khoản 2 Điều 47 Luật người khuyết tật, cơ sở chăm sóc người khuyết tật bao gồm: - Cơ sở bảo trợ xã hội. - Cơ sở dịch vụ hỗ trợ người khuyết tật. - Trung tâm hỗ trợ người khuyết tật sống độc lập. - Cơ sở chăm sóc người khuyết tật khác. Đối với những cơ sở chăm sóc người khuyết tật công lập, Nhà nước đảm bảo đầu tư cơ sở vật chất và đảm bảo kinh phí hoạt động. Đối với các cơ sở khác ngoài công lập Nhà nước chỉ hỗ trợ với những giới hạn nhất định bằng những ưu tiên, ưu đãi trong hoạt động. Điều kiện thành lập, hoạt động, giải thể cơ sở chăm sóc người khuyết tật được quy định cụ thể đối với từng loại cơ sở. 11 Pháp luật người khuyếết tật Đối với cơ sở bảo trợ xã hội, pháp luật quy định cụ thể nhiệm vụ, kinh phí hoạt động, quản lí tài chính chế độ báo cáo đối với các cơ sở bảo trợ xã hội. Điều kiện, thủ tục thành lập, tổ chức hoạt động và giải thể của cơ sở bảo trợ xã hội được quy định trong Nghị định 68/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008. Sau khi hoàn thiện hồ sơ xin thành lập, đơn vị gửi tới cơ quan thẩm định có thẩm quyền thực hiện nghiệp vụ thẩm định dự án. Thẩm quyền thành lập cơ sở bảo trợ xã hội được quy định: (i) Bộ trưởng các bộ, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có quyền quyết định thành lập và hoạt động đối với cơ sở thuộc quyền quản lí; (ii) Chủ tịch UBND Tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương quyết định hoặc phân cấp quyết định thành lập cơ sở bảo trợ xã hội hoạt động trên địa bàn phạm vi cấp tỉnh, thành phố và các cơ sở công lập hoạt động trên phạm vi cấp huyện và (iii) Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định thành lập cơ sở bảo trợ xã hội ngoài công lập trên phạm vi cấp huyện. Đối với các cơ sở dịch vụ hỗ trợ người khuyết tật, trung tâm hỗ trợ người khuyết tật sống độc lập và các cơ sở chăm sóc người khuyết tật khác, điều kiện thành lập được đề xuất với những yêu cầu về địa điểm cơ sở, điều kiện về cơ sở vật chất chăm sóc người khuyết tật phù hợp, chứng minh nguồn tài chính, tài sản chi cho hoạt động của cơ sở, đội ngũ nhân viên với những tiêu chuẩn cụ thể…Các cơ sở chăm sóc người khuyết tật phải đảm bảo định mức về nhân viên tư vấn, chăm sóc người khuyết tật trên số lượng người khuyết tật theo quy định đáp ứng được điều kiện hành nghề. Hồ sơ đăng kí hoạt động của các cơ sở chăm sóc người khuyết tật sau khi được hoàn thiện gửi tới cơ quan quản lí nhà nước trong lĩnh vực lao động xã hội thẩm định. Thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng kí hoạt động của các cơ sở thuộc về ủy ban nhân dân theo sự phân cấp cụ thể tương ứng với thẩm quyền ra quyết định thành lập cơ sở bảo trợ xã hội. Luật cũng quy định các trường hợp tạm đình chỉ, thu hồi giấy chứng nhận đăng kí hoạt động, giải thể các cơ sở chăm sóc người khuyết tật trong các trường hợp vi phạm pháp luật, không đủ điều kiện hoạt động… 12 Pháp luật người khuyếết tật Điều 48 Luật người khuyết tật quy định các cơ sở phải tuân thủ điều kiện hoạt động, thực hiện đầy đủ các quy chuẩn về nuôi dưỡng, cung cấp dịch vụ tư vấn, trợ giúp người khuyết tật tương ứng với từng loại cơ sở. Các cơ sở cũng phải thực hiện cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất để đảm bảo tiếp cận với đối tượng người khuyết tật. Từ góc độ của bảo trợ xã hội, những quy định về cơ sở chăm sóc người khuyết tật là cơ sở pháp lí quan trọng cho việc đảm bảo thực hiện quyền của người khuyết tật. Bên cạnh các cơ sở công lập được đảm bảo hoạt động từ kinh phí của nhà nước, pháp luật cho phép và khuyến khích thiết lập các cơ sở bảo trợ xã hội ngoài công lập với những điều kiện nhất định hướng tới việc đảm bảo và nâng cao hơn chất lượng cuộc sống, khắc phục những rào cản ý thức, tâm lý cho người khuyết tật, giúp họ nhanh chóng hòa nhập cộng đồng. III. Thực tiễn thực hiện Chính sách bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật là một trong những chính sách xã hội thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, là một trong những nội dung cơ bản trong hệ thống an sinh xã hội hiện nay của nước ta. Thực hiện quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước về công tác bảo trợ xã hội, trong những năm qua cùng với việc tham mưu tổ chức triển khai thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các chính sách trên lĩnh vực Người có công, lĩnh vực lao động thì ở lĩnh vực xã hội, chính sách bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật cũng được tổ chức thực hiện kịp thời, đồng bộ, đạt được những kết quả quan trọng, đời sống của đối tượng và gia đình được cải thiện hơn trước, tạo được niềm vui, niềm tin và chỗ dựa vững chắc cho đối tượng bảo trợ xã hội, từ đó khẳng định tính đúng đắn về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Theo thống kê, Việt Nam hiện có trên 5,3 triệu người khuyết tật, chiếm 6,34% dân số. Người khuyết tật ở độ tuổi lao động từ 16-55 đối với nữ và từ 16-60 đối với nam, chiếm trên 69%. Một thực tế là hơn 80% người khuyết tật sống ở 13 Pháp luật người khuyếết tật nông thôn với các điều kiện về cơ sở hạ tầng, điều kiện sống, phương tiện sinh hoạt chuyên dung còn nhiều thiếu thốn, do vậy họ gặp nhiều trở ngại về đi lại và giao tiếp với cộng đồng, xã hội. Trình độ học vấn của người tàn tật cũng rất thấp, gần 36% không biết chữ, chỉ có 20,7% có trình độ tiểu học và 24,5% trung học cơ sở. Đại bộ phận người khuyết tật không thể sống tự lập, khoảng 70% phải sống dựa vào gia đình. Cả nước có 58,18% số người tàn tật có việc làm, tự nuôi sống mình và tham gia đóng góp cho xã hội bằng những công việc khác nhau. Tỷ lệ người tàn tật chưa có việc làm là 30,43%. Vùng đồng bằng sông Hồng và Ðông Nam Bộ có số người tàn tật chưa có việc làm chiếm tỷ lệ cao, tương ứng là 41,86% và 35,77%. Có thể nói, người khuyết tật gặp khá nhiều khó khăn trong đời sống, sinh hoạt, cần phải có sự hỗ trợ của nhà nước cũng như của cộng đồng. Theo báo cáo của Bộ lao động – Thương binh và Xã hội đến năm 2008, các địa phương đã thực hiện trợ cấp xã hội hàng tháng cho 395.962 người khuyết tật nghèo và 8.599 hộ có từ hai người khuyết tật trở lên, nuôi dưỡng tập trung 9.798 người khuyết tật trong 300 cơ sở bảo trợ xã hội. So với năm 1998, số người khuyết tật được hưởng các chính sách giúp xã hội tăng gấp 4 lần. Các chế độ trợ giúp cũng đã được điều chỉnh tăng từ 45.000 đồng/tháng năm 2000 lên 65.000 đồng/ tháng năm 2004 và 120.000 đồng năm 2007. Bên cạnh đó, số lượng các cơ sở bảo trợ xã hội tăng nhanh. Tính đến tháng 12/2008, cả nước có khoảng 571 cơ sở bảo trợ xã hội. Tuy nhà nước đã thực hiện tốt công tác, chế độ nuôi dưỡng người khuyết tật trong cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở chăm sóc người khuyết tật, nhưng do cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội của đất nước còn nhiều khó khăn, thiếu nguồn lực bao gồm cả nhân lực và vật lực để thực hiện ( thiếu đội ngũ y bác sĩ cộng đồng, cơ sở y tế thấp kém, thiếu giáo viên dạy hòa nhập cung như chuyên biệt, giáo viên dạy nghề; thiếu cán bộ xã hội ở cơ sở, phương tiện giao thông,...nên có một số lượng lớn đối tượng người khuyết tật chưa được quan tâm chăm sóc, giúp hòa nhập cộng đồng một 14 Pháp luật người khuyếết tật cách tận tình, chu đáo. Về iệc giải quyết chế độ cấp thẻ BHYT cho đối tượng người khuyết tật, UBND các phường, xã nên thực hiện kịp thời, không để người dân đi lại nhiều lần, gây tốn kém tiền của và công sức, ảnh hưởng tới quyền lợi của người khuyết tật. Công tác tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật như Luật người khuyết tật 2010; Nghị định số 07/2000/NĐ-CP ngày 9/3/2000 về chính sách cứu trợ xã hội, Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 về chính sách trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội, Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27/2/2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/NĐ-CP… cần được tăng cường. Điều đó cần đến vai trò chủ trì điều phối của ngành Lao Động Thương binh và Xã hội từ trung ương đến địa phương ở nhiều nơi, sự phối hợp chặt chẽ và linh hoạt giữa các ngành cũng như sự tích cực tham gia, góp ý của các cơ quan, tổ chức đoàn thể nhằm đảm bảo quyền lợi cho người khuyết tật khi thực hiện chế độ bảo trợ xã hội đối với nhóm đối tượng này. Nhìn chung, tuy có một số bất cập, hạn chế trong việc thực hiện, nhưng có thể kết luật chế độ bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật của Nhà nước ta hiện nay là khá tốt, có nhiều tích cực. KẾT LUẬN Trong thời đại công nghệ khoa học phát triển vùn vụt hiện nay, nhóm người yếu thế nói chung và người khuyết tật nói riêng dường như vẫn thường dễ bị tổn thương, khó bảo đảm theo kịp sự tăng tốc của kinh tế - xã hội. Chế độ bảo trợ xã hội là một yếu tố thể hiện sự quan tâm của nhà nước, gia đình và cộng đồng tới những người khuyết tật trong mọi linh vực của đời sống xã hội, đồng thời là một biện pháp vô cùng quan trọng để bảo vệ cuộc sống những người khuyết tật, qua đó giúp họ có thể tự tin hòa nhập được với xã hội. 15 Pháp luật người khuyếết tật DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO  Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật người khuyệt tật Việt Nam, Nxb. CAND, 2011  Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật an sinh xã hội, Nxb. Tư pháp, 2009  Luật người khuyết tật 2010  Nghị định 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội  Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27/2/2010 về sửa đổi bổ sung một số điều của nghị định 67/2007/NĐ-CP về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội  Nghị định 68/2008/NĐ-CP ngyà 30/5/2008 quy định điều kiện, thủ tục thành lập, hoạt động và giải thể cơ sở bảo trợ xã hội  Thông tư 24/2010/TTLT-BLĐTBXH-BTC ngày 18/8/2010 hướng dẫn thi hành Nghị định 67/2007/NĐ-CP và Nghị định 13/2010/NĐ-CP  Nguyễn Hiền Phương, Pháp luật an sinh xã hội – Những vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb. Tư Pháp, 2010  Lê Bạch Dương, Đặng Nguyên Anh, Khuất Thu Hồng và Robert Leroy Bach, Bảo trợ xã hội cho những nhóm thiệt thòi ở Việt Nam, Nxb. Thế Giới, 2005  Liên Hợp Quốc, Công ước quốc tế về quyền của Người khuyết tật, 2006, Điều 28  ILO, Công ước 102 ngày 28/6/1952 quy định những quy phạm tối thiểu về an sinh xã hội  Internet. 16 Pháp luật người khuyếết tật PHỤ LỤC 1 Thủ tục đề nghị hưởng trợ cấp xã hội đối với người tàn tật nặng a) Trình tự thực hiện: - Người có yêu cầu chuẩn bị đầy đủ hồ sơ theo quy định nộp tại Ủy ban nhân dân cấp xã. Ủy ban nhân dân cấp xã nộp hồ sơ tại bộ phận một của Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc tại Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội các huyện. - Cán bộ tiếp nhận hồ sơ kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ. Nếu hồ sơ chưa đầy đủ, đúng qui định, thì hướng dẫn để bổ sung, làm lại hồ sơ theo qui định. Nếu hồ sơ đầy đủ, đúng qui định, cán bộ tiếp nhận và bàn giao hồ sơ cho bộ phận chuyên môn để giải quyết. - Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội thụ lý hồ sơ và trình Lãnh đạo Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt hồ sơ. - Trả kết quả cho công dân tại nơi tiếp nhận hồ sơ. b) Cách thức thực hiện: Trực tiếp tại trụ sở cơ quan hành chính nhà nước. c) Thành phần, số lượng hồ sơ: - Thành phần hồ sơ, gồm: + Đơn đề nghị hưởng trợ cấp xã hội (Mẫu số 1); + Sơ yếu lý lịch có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đối tượng đang cư trú; + Văn bản xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền kết luận về tình trạng tàn tật; + Biên bản xét duyệt đối tượng của Hội đồng xét duyệt cấp xã (mẫu số 4); - Số lượng hồ sơ: 01 bộ. d) Thời hạn giải quyết: 10 ngày làm việc. đ) Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: Cá nhân 17 Pháp luật người khuyếết tật e) Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính: - Cơ quan có thẩm quyền quyết định theo quy định: Ủy ban nhân dân cấp huyện. - Cơ quan trực tiếp thực hiện thủ tục hành chính: Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội. - Cơ quan phối hợp (nếu có): Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp huyện; Ủy ban nhân dân cấp xã. g) Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Quyết định hành chính. h) Lệ phí: Không. i) Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính: Không. k) Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính: - Nghị Định số 67/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 13/4/2007 về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội ; - Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27/02/2010 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội ; - Thông tư liên tịch số 24/2010/TTLT-BLĐTBXH-BTC của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và Bộ Tài Chính ngày 18/8/2010 về việc hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội và Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27 tháng 02 năm 2010 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội; - Quyết định số 2116/QĐ-UBND ngày 16/8/2010 của Chủ tịch UBND tỉnh Hải Dương về việc phê duyệt mức trợ cấp hàng tháng cho các đối tượng bảo trợ xã hội theo Nghị định 13/2010/NĐ-CP của Chính phủ. l) Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai: 18 Pháp luật người khuyếết tật Mẫu số 1 (Ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 24/2010/TTLT-BLĐTBXH-BTC ngày 18/8/2010) CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ----------------.................... , ngày tháng năm 20 ĐƠN ĐỀ NGHỊ HƯỞNG TRỢ CẤP XÃ HỘI Kính gửi: - Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã (phường, thị trấn)............................ - Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện (quận, thị xã, thành phố)........... Tỉnh, thành phố......................................................................... Tên tôi là: ............................................. Nam, nữ............................................... Sinh ngày....................tháng.......................năm ................................................. Quê quán:............................................................................................................ Hiện có hộ khẩu thường trú tại ........................................................................... Xã (phường, thị trấn) ............................. huyện (quận, thị xã, TP)..................... Tỉnh..................................................................................................................... Nêu hoàn cảnh cá nhân, gia đình, dạng đối tượng............................................. ............................................................................................................................. Vậy tôi làm đơn này đề nghị ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. Xác nhận của Trưởng thôn xác nhận trường hợp ông (bà).................. nêu trên là đúng đề nghị UBND xã, huyện xem xét cho ........................................ (Ký, ghi rõ họ tên) Người viết đơn ( Ký, ghi rõ họ tên) Xác nhận và đề nghị của UBND cấp xã UBND xã................................ 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan