Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở việt nam trong giai đoạn hiện nay ...

Tài liệu Chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở việt nam trong giai đoạn hiện nay luận văn ths. luật 60.38.60

.PDF
114
16
147

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ------------***----------- Hoàng Nguyên Bình Chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay LUẬN VĂN THẠC SĨ Hà nội – 2006 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ------------***----------- Hoàng Nguyên Bình Chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Vũ Đức Long Hà nội – 2006 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH CON NUÔI CÓ YẾU TỐ 7 NƢỚC NGOÀI 1. Lƣợc sử phát triển vấn đề con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài trong pháp luật Việt Nam 7 1.1 Giai đoạn trước năm 1986 9 1.2 Giai đoạn sau năm 1986 – 2003 10 1.3 Giai đoạn từ năm 2003 đến nay 16 2. Chế định nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài 17 2.1 Khái niệm chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài 17 2.2 Vị trí, vai trò của chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài 20 3. Pháp luật Việt Nam và điều ƣớc quốc tế về nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài 3.1 Pháp luật Việt Nam 21 21 3.1.1 Nguyên tắc điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài 22 3.1.2. Điều kiện nhận nuôi con nuôi 24 3.1.3. Trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết việc nhận con nuôi 28 3.1.4. Hệ quả pháp lý đối với việc nuôi con nuôi 39 3.1.5. Vai trò của các cơ quan giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam 3.1.6. Văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam 3.2 Điều ước quốc tế về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài và Việt Nam ký kết, tham gia 40 42 43 3.2.1. Nội dung cơ bản các HĐTTTP về dân sự 44 3.2.2. Các hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi mà Việt Nam đã ký kết 46 3.3 Một số quy định của một số nước về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài 3.3.1. Nước nhận con nuôi 49 49 3.3.2. Nước cho con nuôi 58 CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VIỆC NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC 62 NGOÀI TẠI VIỆT NAM 1. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI 62 1.1. Tình hình chung 62 1.2. Những kết quả đạt đƣợc trong thời gian vừa qua 65 1.3. Những tồn tại, vƣớng mắc cần phải tháo gỡ 68 1.3.1. Đối tượng trẻ em được làm con nuôi 68 1.3.2. Những vướng mắc về thủ tục, hồ sơ, giấy tờ 69 1.3.3. Tình trạng tồn đọng hồ sơ 72 1.3.4. Thẩm quyền của Cục con nuôi quốc tế Bộ Tư pháp 73 1.3.5. Tính minh bạch trong tài chính 73 1.3.6. Hoạt động của tổ chức con nuôi nước ngoài tại Việt Nam 74 1.3.7. Sự phối hợp giữa các cơ quan chưa có hiệu quả cao 77 1.3.8. Hiện tượng môi giới vẫn còn tồn tại 77 1.3.9. Chưa có tổ chức con nuôi trong nước 78 1.4. Đánh giá việc thực thi các điều ƣớc quốc tế về nuôi con nuôi có yếu nƣớc ngoài 1.4.1 Tình hình ký kết các điều ước quốc tế về nuôi con nuôi giữa Việt Nam và các nước 1.4.2 Tình hình triển khai thực hiện các Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi 78 78 81 1.4.2.1 Hiệp định hợp tác nuôi con nuôi giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Pháp (Hiệp định Việt Pháp) 81 1.4.2.2 Hiệp định hợp tác nuôi con nuôi giữa Việt Nam và Vương quốc Đan Mạch 1.4.2.3 Hiệp định hợp tác nuôi con nuôi giữa Việt Nam và Cộng hòa Italia 1.4.2.4. Hiệp định hợp tác nuôi con nuôi giữa Việt Nam và Cộng hòa Ailen 1.4.2.5. Hiệp định hợp tác nuôi con nuôi giữa Việt Nam và Vương quốc Thuỵ Điển 1.4.2.6. Các hiệp định được ký kết trong năm 2005 84 85 85 86 87 CHƢƠNG 3 KIẾN NGHỊ VỀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM TRONG VẤN ĐỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC 89 NGOÀI 1. KIẾN NGHỊ VỀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM KHẮC PHỤC NHỮNG TỒN TẠI, HẠN CHẾ TRONG CHẾ ĐỊNH CON NUÔI CÓ YẾU TỐ 89 NƢỚC NGOÀI 1.1. Sửa đổi, hoàn thiện chính sách, pháp luật về vấn đề con nuôi nƣớc ngoài 90 1.1.1 Soạn thảo và ban hành Luật nuôi con nuôi 90 1.1.2 Sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật có liên quan 93 1.1.3 Xây dựng cơ chế tài chính rõ ràng, minh bạch 95 1.2. Hoàn thiện về cơ cấu tổ choc 1.2.1 Tăng cường năng lực cho Cục con nuôi – Bộ Tư pháp trong việc xử lý, giải quyết hồ sơ nuôi con nuôi quốc tế. 1.2.2 Tăng cường năng lực cho Sở Tư pháp và các cơ sở nuôi dưỡng trong lĩnh vực con nuôi có yếu tố nước ngoài 1.2.3 Tiêu chuẩn hóa các cơ sở nuôi dưỡng được phép cho trẻ em làm con nuôi 1.2.4 Cho phép tổ chức trong nước hoạt động trong lĩnh vực con nuôi có yếu tố nước ngoài 95 95 97 97 98 2. TIẾN HÀNH KÝ KẾT CÔNG ƢỚC LA HAY 1993 VỀ BẢO VỆ TRẺ EM VÀ HỢP TÁC TRÊN LĨNH VỰC CON NUÔI NƢỚC NGOÀI 98 2.1. Những thuận lợi 99 2.2. Những khó khăn 102 KẾT LUẬN 105 TÀI LIỆU THAM KHẢO 107 BIỂU ĐỒ Biểu đồ số 1.1: Số lượng trẻ em làm con nuôi qua các năm 2 Biểu đồ số 1.2: Số trẻ em Việt Nam làm con nuôi các nước từ 1998 – 2003 14 Biểu đồ số 1.3: Số lượng trẻ em làm con nuôi Thụy Điển 53 Biểu đồ số 2.1: Số lượng trẻ em VN làm con nuôi Ailen qua các năm 85 HỘP SỐ Hộp số 1.1: Quá trình hình thành chế định nuôi con nuôi, những mốc văn bản pháp luật quan trọng 8 Hộp số 1.2: Khó khăn khi xin trẻ em Việt Nam làm con nuôi 11 Hộp số 1.3: Quy định về Cơ quan trung ương 17 Hộp số 1.4: Sự quan tâm của các nước trên thế giới về nuôi con nuôi 21 Hộp số 1.5: Vai trò và MQH theo quy định của pháp luật của các cơ quan quản lý Nhà nước Việt Nam trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. 41 Hộp số 2.1: Đứa con nuôi và cuộc gặp mặt của hai người Mỹ 64 Hộp số 2.2: Người Canada chúng tôi 66 Hộp số 2.3: Số lượng văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam 67 Hộp số 2.4: Bỏ con vì lỡ lầm, nghèo khó 71 Hộp số 2.5: Địa bàn hoạt động của các văn phòng con nuôi nước ngoài tại VN 76 Hộp số 2.6: Hiện tượng môi giới con nuôi nước ngoài 77 Hộp số 2.7: Đức và Việt Nam thống nhất về hiệp định cho và nhận con nuôi 80 Hộp số 3.1: Vấn đề Việt Nam gia nhập công ước La Hay 1993 101 CHỮ VIẾT TẮT CP Chính phủ HNGĐ Hôn nhân gia đình HĐTTTP Hiệp định tương trợ tư pháp HĐNN Hội Đồng Nhà nước TW Trung ương UBND Uỷ ban nhân dân MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Vấn đề nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng luôn là vấn đề nhậy cảm và được các quốc gia quan tâm vì đây là vấn đề mang tính nhân đạo cao. Trên thế giới, vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đã xuất hiện từ rất lâu nhưng chỉ trở nên mang tầm quốc tế kể từ sau chiến tranh lần thứ hai kết thúc. Chiến tranh đã để lại rất nhiều hậu quả trong đó có vấn đề rất nhiều trẻ em bị mồ côi, bỏ rơi... cần được chăm sóc và nuôi dưỡng. Trong những năm 70 - 80 của thế kỷ 20 nhu cầu xin trẻ em làm con nuôi là rất lớn hầu hết từ các nước phát triển. Trong số những nước cho nhiều con nuôi nhất ở thập kỷ 80 đó là: Hàn Quốc (61.235); Ấn độ (15.325), Côlômbia (14.837), ở thập kỷ 90 là Nga, Trung Quốc [23]... Ở Việt Nam, vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được Nhà nước đặc biệt quan tâm, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách, văn bản pháp quy về cơ chế xử lý vấn đề con nuôi có yếu tố nước ngoài. Đặc biệt, trong những năm qua Việt Nam đang thực hiện chính sách đổi mới và thực hiện chính sách hội nhập quốc tế, vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài có xu thế ngày một phát triển. Sự phát triển này thể hiện ở hai khía cạnh: Thứ nhất, đó là các văn bản pháp luật của Nhà nước về vấn đề này quy định ngày càng chi tiết, cụ thể Và rõ ràng hơn, có thể kể tên một số văn bản như: Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Hiến pháp năm 1992, Pháp lệnh hôn nhân gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài 1993, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nghị định 68 quy định chi tiết hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài... Ngoài ra, các hiệp định tương trợ tư pháp và hiệp định về nuôi con nuôi cũng gia tăng về số lượng và đang hướng tới việc gia nhập công ước đa phương về lĩnh vực này. 1 Thứ hai, số lượng trẻ em Việt Nam làm con nuôi nước ngoài có tăng, đồng thời quy trình xin được quy định chặt chẽ hơn tránh được những hiện tượng trục lợi, cò mồi, đảm bảo tính nhân đạo và nghiêm minh của pháp luật. Biểu đồ 1.1: Số lƣợng trẻ em làm con nuôi qua các năm 2000 1860 1584 1500 1695 1576 1474 1233 1392 1229 1127 1000 807 500 SL con nuôi 432 181 0 1991 1992 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Nguồn: Bộ Tư pháp, 2004 Qua biểu đồ trên cho thấy, số lượng trẻ em làm con nuôi cho người nước ngoài có sự chuyển biến tích cực về số lượng trong thập kỷ 90. Sau đó, số lượng có phần thuyên giảm do nhiều nguyên nhân mà một trong những nguyên nhân là Việt Nam quy định chặt hơn việc xin con nuôi. Nghị định 68/2002/NĐ-CP ra đời đã khắc phục được những bất cập của Nghị định 184/1994/NĐ-CP, đảm bảo tốt hơn quyền lợi của các băn trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, hoạt động xin và cho con nuôi bước đầu đã đi vào nề nếp. Tuy nhiên, sau hơn một năm áp dụng Nghị định 68/CP cũng đã bộc lộ những điểm vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế của hoạt động này. Chẳng hạn như:  Vai trò, thẩm quyền của Cục con nuôi quốc tế đã xứng tầm với Cơ quan TW về con nuôi hay chưa?  Sự phối hợp giữa Cục nuôi con nuôi quốc tế và các Sở tư pháp, UBND tỉnh; 2  Đối tượng trẻ em được cho làm con nuôi đã thực sự là phù hợp với yêu cầu chưa?  Tại sao lại có rất nhiều hồ sơ còn tồn đọng chưa giải quyết được?  Các Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi quốc tế được ký kết giữa Việt Nam và các nước đã đem lại những kết quả gì trong việc giải quyết các vấn đề nuôi con nuôi?  Việt Nam có nên gia nhập Công ước La Hay 1993 hay không? Vào khi nào? Tất cả những vấn đề này đang thực sự là những thách thức lớn đối với Việt Nam khi mà chúng ta đã và đang tiếp tục đàm phán, ký kết hàng loạt các hiệp định song vỡi với các nước về vấn đề này. Và quan trọng hơn là trong giai đoạn hiện nay Việt Nam đang xem xét quá trình gia nhập Công ước Lahay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia trong lĩnh vực này, cũng như xác định rõ cơ chế điều chỉnh mối quan hệ này trở thành vấn đề cấp thiết. Với những căn cứ thực tiễn và khoa học nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành Luật quốc tế. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Thực ra vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đã được khá nhiều nhà lý luận và hoạt động thực tiễn nghiên cứu ở những góc độ khác nhau. Có những luận án tiến sĩ luật học, chẳng hạn như luận án “Pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài” của tác giả Nguyễn Công Khanh hoặc luận án tiến sĩ “Pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài” của tác giả Nguyễn Hồng Bắc. Luận văn thạc sĩ chẳng hạn như luận văn của tác giả Nguyễn Phương Lan nghiên 3 cứu về “ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật Việt Nam”; luận văn “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài hướng tới gia nhập Công ước La Hay 1993” của tác giả Đào Thị Thu Hường. Gần đây nhất, Bộ Tư pháp đã nghiệm thu đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trước yêu cầu gia nhập công ước La Hay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế”. Ngoài ra, Bộ Tư pháp, Cục con nuôi quốc tế còn tổ chức các cuộc hội thảo xoay quanh vấn đề này như Hội thảo hoàn thiện pháp luật Việt Nam hướng tới gia nhập Công ước La Hay; Hội thảo Gia nhập Công ước La Hay với việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi (tháng 9/2006). Một số bài báo chuyên khảo của các tác giả đăng trên các tạp chí như Dân chủ và pháp luật, Luật học, Nghiên cứu lập pháp… Mặc dù các công trình trên cũng đề cập tới vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nhưng ở những góc độ khác nhau, chẳng hạn như luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Công Khanh thì vấn đề con nuôi có yếu tố nước ngoài chỉ là một phần nhỏ; hoặc các tác giả có thiên hướng so sánh pháp luật Việt Nam với Công ước La Hay nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam để gia nhập Công ước. Chính vì vậy, khi nghiên cứu lĩnh vực này, tác giả đã cố gắng chọn lọc, kế thừa những kết quả nghiên cứu nêu trên đồng thời nghiên cứu làm rõ vấn đề con nuôi có yếu tố nước ngoài dưới góc độ là một Chế định pháp lý. Tác giả đã cố gắng làm rõ quá trình phát triển của Chế định này và tập trung phân tích sâu những kết quả đạt được cũng như những hạn chế, tồn tại khi thực hiện chính sách mới về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài để từ đó đưa ra những kiến nghị về giải pháp nhằm hoàn thiện chế định về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam. 3. MỤC ĐÍCH VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 3.1 Mục đích nghiên cứu Bản luận văn này là một nghiên cứu về thực trạng quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Bản luận văn này cũng mong muốn đóng góp một phần nhỏ ý kiến trong việc hoàn thiện pháp luật Việt 4 Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong giai đoạn hội nhập quốc tế. Chính vì vậy, mục đích của nghiên cứu có thể tóm tắt như sau: - Đánh giá tổng quan pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; - Tìm hiểu những khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết con nuôi có yếu tố nước ngoài; - So sánh với pháp luật các nước về con nuôi có yếu tố nước ngoài; - Đưa ra một số gợi ý, ý kiến đóng góp trong việc hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trước xu thế hội nhập. 3.2 Phạm vi nghiên cứu -Tìm hiểu lịch sử hình thành vấn đề con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam; - Nêu và phân tích một số khái niệm về con nuôi có yếu tố nước ngoài; - So sánh, đánh giá, phân tích pháp luật của một số nước trên thế giới về con nuôi có yếu tố nước ngoài; - Phân tích, đánh giá tình hình thực tiễn và pháp luật hiện hành trong vấn đề con nuôi có yếu tố nước ngoài; - Đề xuất giải pháp, đóng góp ý kiến về việc hoàn thiện pháp luật con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam. 4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4.1 Cơ sở lý luận - Đường lối, chủ chương chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề con nuôi có yếu tố nước ngoài - Các văn bản pháp luật về con nuôi có yếu tố nước ngoài: Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nghị định 68/2002/NĐ-CP - Các vụ việc thực tiễn về con nuôi có yếu tố nước ngoài 4.2 Phƣơng pháp nghiên cứu 5 * Phương pháp luận: Đề tài dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng * Phương pháp nghiên cứu cụ thể: - Phương pháp so sánh: Đề tài tìm hiểu và so sánh các vấn đề liên quan với pháp luật một số nước để khẳng định những điểm chung, những điểm khác biệt và tìm kiếm những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật của Việt Nam - Phương pháp điều tra xã hội học (PRA): Để đánh giá được toàn diện, khách quan và trung thực, đề tài cũng sẽ tiến hành phỏng vấn, thu thập số liệu tại một số tỉnh có trẻ em làm con nuôi người nước ngoài - Phân tích tổng hợp số liệu: trên cơ sở điều tra, khảo sát và nghiên cứu các tài liệu có sẵn, tác giả sẽ phân tích, tổng hợp và phác thảo ra một bức tranh tổng quát về vấn đề con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, để có một bức tranh tổng thể và toàn diện về vấn đề này thì cần đầu tư thời gian và công sức hơn nữa để thu thập số liệu và phân tích sâu. 5. Ý NGHĨA THỰC TIỄN VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN Những kết quả nghiên cứu của luận văn là những bổ sung vào lý luận về pháp luật điều chỉnh quan hệ con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong hoàn cảnh hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay. Những đề xuất, giải pháp của luận văn có thể đóng góp một phần nhỏ vào việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài – lĩnh vực đang được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. 6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN Không kể phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm các chương sau: Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài Chƣơng 2: Thực tiễn giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam Chƣơng 3: Kiến nghị và giải pháp về việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài 6 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI 1. Lƣợc sử phát triển vấn đề con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài trong pháp luật Việt Nam Từ trước cho đến nay, chúng ta cũng chưa có một nghiên cứu cụ thể nào về sự hình thành chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong pháp luật Việt Nam cho nên thật khó xác định chế định nài lần đầu tiên xuất hiện trong cổ luật Việt Nam từ khi nào. Tuy nhiên, khi xem xét trong các đạo luật của thời phong kiến thì vấn đề nuôi con cũng đã được đề cập đến, tuy không phải là phổ biến. Trong Bộ luật Hồng Đức ban hành dưới triều Lê, trong tập luật lệ mang tên Hồng Đức Thiện Chính Thư, cũng được ban hành dưới triều Lê thì vấn đề nuôi con nuôi đã được quy định tại điều 290, 380 và 381 Bộ luật Hồng Đức và các đoạn 92, 110, 254, 057, 70 và 271 Hồng Đức Thiện Chính Thư. Khi xem xét bác chính sách cũng như các văn bản pháp luật của Việt Nam, dường như chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài mới được nói đến trong thời gian gần đây. Cụ thể có thể chia thành các giai đoạn như sau: - Giai đoạn 1: trước năm 1986, đây là giai đoạn trước khi ban hành Luật hôn nhân và gia đình (HNGĐ) năm 1986 - Giai đoạn 2: từ năm 1986 đến năm 2003, đây là giai đoạn ban hành Luật HNGĐ 2000, thay thế luật HNGĐ năm 1986 với những quy định chi tiết và rõ ràng hơn về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài - Giai đoạn 3: từ năm 2003 đến nay. Việc lựa chọn thời điểm năm 2003 là thời điểm Nghị định 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật HNGĐ về quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài chính thức có hiệu lực. Trong giai đoạn này, chính sách về vấn đề con nuôi có yếu tố nước ngoài có những thay đổi so với giai đoạn trước (Hộp số 1.1). 7 Hộp số: 1.1 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CHẾ ĐỊNH NUÔI CON NUÔI NHỮNG MỐC VĂN BẢN PHÁP LUẬT QUAN TRỌNG Ban hành Nghị định 68/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật HNGĐ năm 2000 về quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài (2002) Ban hành Luật Hôn nhân và gia đình (2000) Ban hành thông tư liên bộ số 503/TT-LB hướng dẫn chi tiết thi hành Nghị định 184/CP của Chính phủ (1995) Ban hành Nghị định số 184/CP quy định về thủ tục kết hôn, nhận con ngoài giá thú, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài (1994) Ban hành pháp lệnh HNGĐ giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài (1993) Ban hành Quyết định số 145/HĐBT quy định tạm thời về việc cho người nước ngoài nhận con nuôi là trẻ em Việt Nam bị bỏ rơi, mồ côi, bị tàn tật ở các cơ sở nuôi dưỡng (1992) Ban hành Luật hôn nhân và gia đình (1986) Ban hành Luật HNGĐ (1959) 1940 1950 1960 1970 1980 8 1990 2000 2005 1.1 Giai đoạn trƣớc năm 1986 Luật HNGĐ năm 1959 đã được Quốc hội khoá 1, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 29/12/1959, đây là văn bản pháp lừ đầu tiên có những quy định về chế độ nuôi con nuôi, còn trước đó vấn đề này chưa được quy đ^nh cụ thể ở bất kỳ một văn bản pháp lý nào mà hầu như chỉ được thừa nhận như một quyền công dân nói chung và khằng định trẻ em có quyền chăm sóc và bảo vệ. Chẳng hạn như Hiến pháp 1946 quy định: “... Trẻ em được chăm sóc về mặt giáo dưỡng” (Điều thứ 14); hoặc Hiến pháp 1959 quy định: “... Nhà nước bảo hộ quyền lợi của người mẹ và của trẻ em, bảo đảm phát triển các nhà đỡ trẻ, nhà giữ trẻ và vườn trẻ” (Điều 24). Sắc lệnh số 97-SL ngày 22/5/1950 về dân luật và hôn nhân và gia đình cũng chỉ có một điều khoản quy định: “cho phép con hoang được tự mình xin truy nhận cha hoặc mẹ”. Như vậy, có thể nhận thấy rằng những quy định này mới chỉ mang tính “tuyên ngôn” chứ chưa được quy định cụ thể vấn đề cho trẻ em làm con nuôi nói chung và trẻ em làm con nuôi người nước ngoài nói riêng được tiến hành như thế nào? Như đã nói ở trên, Luật HNGĐ 1959 được Quốc hội thông qua được đánh giá và khẳng định là: “công cụ pháp lý của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vì lợi ích của việc xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình mới đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của toàn dân” [30]. Tuy nhiên, chế định nuôi con nuôi không quy định tập trung vào một chương riêng và đặc biệt là không có quy định về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Những quy định về vấn đề con nuôi được quy định tại các điều 9, 18 và điều 24 Luật HNGĐ 1959. Xét trên bình diện tổng thể có thể thấy rằng tư tưởng, quan điểm của nhà làm luật thời kỳ này mong muốn xoá bỏ những tàn tích của chế độ hôn nhân và gia đình cũ vẫn còn tồn tại khá sâu rộng trong đại bộ phận tầng lớp nhân dân. Chính vì vậy những quy định về con nuôi cũng bị ảnh hưởng nhiều từ tư tưởng chỉ đạo đó, khi phân tích những quy định trong luật chúng ta nhận thấy rằng những quy định này đã không thừa nhận quan điểm nhận con nuôi xuất phát từ lợi của cha mẹ như để thừa kế, thờ tự, chăm sóc... mà dần tiếp cận với quan điểm của pháp luật hiện đại là việc 9 nhận con nuôi hay chấm dứt con nuôi đều xuất phát từ lợi ích của người được nhận làm con nuôi. Cấm kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa cha mẹ nuôi và con nuôi (Điều 9) Cha mẹ không được hành hạ con cái, không được đối xử tàn tệ với con dâu, con nuôi, con riêng (Điều 18) Con nuôi có quyền lợi và nghĩa vụ như con đẻ. Việc nhận nuôi con nuôi phải được Uỷ ban hành chính cơ sở nơi trú quán của người nuôi hoặc của đứa trẻ công nhận và ghi vào sổ hộ tịch. Toà án nhân dân có thể huỷ bỏ việc công nhận ấy, khi bản thân người con nuôi hoặc bất cứ người nào, tổ chức nào yêu cầu, vì lợi ích của người con nuôi (Điều 24) Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng trong giai đoạn này, khi cả nước đang dồn sức cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và ngay sau đó toàn Đảng, toàn dân lại hướng tới một mục tiêu vô cùng to lớn đó là: “giai đoạn cả nước độc lập thống nhất và làm nhiệm vụ chiến lược duy nhất là tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” (Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 4 của Đảng) cho nên vấn đề con nuôi, đặc biệt là con nuôi có yếu tố nước ngoài chưa được quan tâm đúng mức, mặc dù lúc bấy giờ trong xã hội nhu cầu không phải là không có. Luật HNGĐ năm 1959 nói riêng và những văn bản quy phạm pháp luật có liên quan cũng chưa đề cập một cách cụ thể, chi tiết tới vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. 1.2. Giai đoạn sau năm 1986 – 2003 Do có sự tác động khách quan và chủ quan, trong giai đoạn này Việt Nam đã có những bước tiến bộ vượt bậc trong công tác xây dựng khung pháp luật về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Cụ thể là: Luật HNGĐ năm 1986, Luật bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em, Hiến pháp năm 1992, Pháp lệnh HNGĐ giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài 1993, Nghị định 184/CP năm 1994 quy định thủ tục kết hôn, nhận con ngoài giá thú, nhận đỡ đầu công dân Việt Nam với người nước ngoài, Bộ luật dân sự năm 1995... 10 * Từ năm 1986 đến năm 1992: Sau năm 1986, Việt Nam bước vào giai đoạn đổi mới, mở cửa phát triển kinh tế theo nền kinh tế hàng hoá thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Về quan hệ đối ngoại, Việt Nam mong muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, hợp tác, đôi bên cùng có lợi. Chính vì vậy, các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài có những biến đổi nhất định cả về chất và lượng. Trước kia, các quan hệ dân sự giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài chỉ bó hẹp trong quan hệ giữa công dân Việt Nam với công dân các nước xã hội chủ nghĩa, sau khi mở cửa thì những quan hệ này mở rộng đối với người nước ngoài thuộc nhiều quốc gia với chế độ chính trị khác nhau. Trong các quan hệ dân sự thì quan hệ hôn nhân với người nước ngoài và quan hệ nuôi con nuôi với người nước ngoài ngày càng phát triển. Như chúng ta đã biết, trong giai đoạn trước đó, pháp luật Việt Nam chưa quy định cụ thể việc cho và nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài, cho đến ngày 29/12/1986 Luật HNGĐ mới được Quốc hội thông qua thay thế Luật HNGĐ năm 1959. Lần đầu tiên có một chương riêng quy định về việc nuôi con nuôi và đưa ra những nguyên tắc chung nhất về nuôi con nuôi như mục đích của việc nuôi con nuôi, điều kiện nhận nuôi con Hộp số: 1.2 nuôi, thẩm quyền đăng ký Khó khăn khi xin trẻ em Việt Nam làm con nuôi việc nuôi con nuôi... Tuy Trước năm 1998, việc cho trẻ em mồ côi Việt Nam có nhiên, Luật HNGĐ năm 1986 hoàn cảnh đặc biệt khó khăn đi làm con nuôi người chưa có quy định cụ thể về nước ngoài là những trường hợp hết sức hãn hữu với số quan hệ hôn nhân gia đình có lượng hàng năm có thể đếm trên đầu ngón tay. yếu tố nước ngoài nói chung Khi đó, ông Đại sứ Thuỵ Sỹ tại Việt Nam, một người và quan hệ nuôi con nuôi có sống độc thân, sau khi đi thăm một cơ sở nuôi dưỡng yếu tố nước ngoài nói riêng, trẻ em mồ côi, được biết một cháu bé trai và xin làm mà dành thẩm quyền quy con nuôi nhưng đã phải theo đuổi mất 2 năm mà không có kết quả. Khi ông Đại sứ đến chào từ biệt Thủ tướng Chính phủ cũng đã trình bày vấn đề này, nhưng khi lên đường về nước vẫn chưa được giải quyết (Nghiêm Xuân Tuệ, tham luận việc cho trẻ em VN làm con nuôi người nước ngoài, hội thảo ngày 2/11/2001) 11 định những vấn đề này cho Hội đồng Nhà nước (nay là Chính phủ). Chính vì vậy, mặc dù đã có những quy định chi tiết rõ ràng hơn so với trước đây nhưng việc giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài gặp không ít khó khăn và bất cập (xem hộp số: 1.2) ví dụ : - sự áp dụng và đường hướng giải quyết của các địa phương về vấn đề cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài là rất khác nhau; - do không quản lý và không quản lý chặt chẽ được nên hiện tượng cò mồi, môi giới nhằm mục đích kiến lời bắt đầu xuất hiện; - một số tổ chức nuôi con nuôi quốc tế muốn mở văn phòng tại Việt Nam nhưng chưa có cơ sở pháp lý cho phép hoạt động. Chính sự phát triển của xã hội đã khiến cho các nhà hoạch định chính sách cần phải xem xét sửa đổi, bổ sung chính sách và pháp luật cho phù hợp và đáp ứng nhu cầu của cuộc sống. Ngày 2 tháng 4 năm 1992 HĐBT (nay là Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 145/HĐBT quy định tạm thời về việc cho người nước ngoài nhận con nuôi là trẻ em Việt Nam bị bỏ rơi, mồ côi, bị tàn tật ở các cơ sở nuôi dưỡng do ngành lao động thương binh và xã hội quản lý. Theo đó, lần đầu tiên tại Việt Nam có một văn bản pháp luật – mặc dù là tạm thời - quy định chi tiết trình tự, thủ tục, đối tượng được nhận trẻ và cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài. Trong văn bản này, một lần nữa quan điểm vì lợi ích của trẻ em luôn được đặt lên hàng đầu và cũng là tư tưởng xuyên xuốt trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật về nuôi con nuôi sau này. Việc cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam bị mồ côi, bị bỏ rơi, bị tàn tật làm con nuôi phải xuất phát từ tình cảm giữa người nuôi với trẻ được nhận làm con nuôi trong quan hệ cha mẹ và con cái, bảo đảm trẻ được nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục đầy đủ (Điều 1, Quyết định tạm thời 145). Cần phải khẳng định rằng Quyết định tạm thời 145 đã đặt viên gạch đầu tiên cho việc hình thành chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, trên thực tế, Quyết định này cũng đã đóng góp phần không nhỏ trong việc giải quyết tình hình hhện tại, giúp cho rất nhiều trẻ em tìm được nơi nuôi dưỡng đầy đủ cả vật chất lẫn tinh thần, giúp cho chúng có được mái ấm tình thương và được học hành. Tuy 12 nhiên, việc thực hiện quyết định này cũng để lại không ít những hiệu quả phức tạp, tạo dư luận không tốt cả trong vào ngoài nước. * Từ năm 1993 đến năm 2003 Từ những kết quả đạt được cũng như những tồn tại khi thực hiện Quyết định tạm thời 145, ngày 2 tháng 12 năm 1993, HĐNN (nay là Chính phủ) đã ban hành pháp lệnh HNGĐ giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Pháp lệnh đã quy định các điều kiện cụ thể đối với người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, quy định nghĩa vụ của người) nuôi con nuôi phải cung cấp thông tin về tình trạng phát triển của con nuôi; thẩm quyền quyết định cho con nuôi; thủ tục xin con nuôi... Tiếp sau đó, ngày 30/11/1994 Chính phủ (CP) ban hành Nghị định số 184/CP quy định về thủ tục kết hôn, nhận con ngoài giá thú, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, đã tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho công tác giải quyết trẻ em làm con nuôi nước ngoài. Để hỗ trợ cho các địa phương trong việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ Nội Vụ (nay là Bộ Công an) đã ban hành thông tư liên bộ số 503/TT-LB ngày 25/5/1995 hướng dẫn chi tiết thi hành Nghị định 184/CP của Chính phủ. Bên cạnh đó, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20 tháng 1 năm 1998 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HNGĐ năm 1986, trong đó giải thích việc áp dụng đồng nhất chế độ pháp lý của con nuôi như chế độ pháp lý của con đẻ, liên quan đến quyền thừa kế của con nuôi. Trong giai đoạn này việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam trong lĩnh vực HNGĐ nói chung và vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng đã đạt được những bước tiến dài. Từ năm 1993 đến năm 1995 Việt Nam liên tục ban hành những văn bản pháp lý quan trọng về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Có thể nói rằng, giai đoạn này đánh dấu sự hoàn thiện của chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Sự hoàn thiện và phát triển này bởi các lý do sau : 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan