Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Các quy định về giảm trừ gia cảnh trong luật thuế thu nhập cá nhân...

Tài liệu Các quy định về giảm trừ gia cảnh trong luật thuế thu nhập cá nhân

.DOC
15
151
130

Mô tả:

A. LỜI MỞ ĐẦU Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, đối với đời sống xã hội , thuế đóng vai trò là công cụ quan trọng của Nhà nước để quản lý, điều tiết sản xuất cũng như phân phối tiêu dùng, thúc đẩy kinh tế phát triển. Hiện nay, có loại thuế được nhà nước áp dụng, mỗi loại thế có những đối tượng nộp khác nhau để nhằm đảm bảo nguyên tắc không đánh trùng thuế và một trong số đó là thuế thu nhập cá nhân. Là loại thuế chủ yếu đánh vào thu nhập của cá nhân, thuế thu nhập cá nhân hiện nay có vai trò tương đối quan trọng nhằm thực hiện việc công bằng xã hội nhằm thực hiện công bằng xã hội, động viên một phần thu nhập của cá nhân vào ngân sách nhà nước và có thể được sử dụng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua việc khuyến khích làm việc hay nghỉ ngơi, thông qua việc thu hay không thu thuế đối với các khoản thu nhập từ kinh doanh, đầu tư. Tuy nhiên, không phải bất cứ cá nhân nào có thu nhập cao đều được tính thuế như nhau mà nhà nước còn dựa trên hoàn cảnh, điều kiện của người đó mà có mức giảm trừ gia cảnh cũng như mức thuế suất khác nhau. Đây có thể coi là một quy định hợp lý của luật thuế thu nhập cá nhân. Tuy nhiên, trong thực tiễn thi hành luật thuế TNCN, một số quy định về mức giảm trừ gia cảnh đã nảy sinh một số bất cập hạn chế, cần được khắc phục kịp thời. B. NỘI DUNG CHI TIẾT I. KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN VÀ CÁC QUY ĐỊNH VỀ GIẢM TRỪ GIA CẢNH. 1. Khái quát về pháp luật thuế thu nhập cá nhân  Khái niệm thuế thu nhập cá nhân: Thuế thu nhập cá nhân có thể được hiểu là loại thuế điều tiết vào phần thu nhập hợp pháp của cá nhân có được theo quy định của pháp luật.  Đặc điểm của thuế thu nhập cá nhân: - Thứ nhất: Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân là cá nhân có thu nhập chịu thuế. không phân biệt cá nhân đó có tư cách chủ thể, tức là độ tuổi hay xác định năng lực trách nhiệm pháp luật… 1 - Thứ hai: : Mức độ điều tiết phần thu nhập cao là rất lớn theo mức thuế suất tỷ lệ lũy tiến từng phần. - Thứ ba: Quy định về chế độ miễn giảm linh hoạt.  Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân: Được quy định tại điều 2 của Luật Thuế thu nhập cá nhân 2007 bao gồm: cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật này phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật này phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam. Cá nhân cư trú là người đáp ứng một trong các điều kiện sau đây: a) Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc tính theo 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam; b) Có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn. Cá nhân không cư trú là người không đáp ứng điều kiện quy định tại khoản 2 Điều này.  Thu nhập chịu thuế Là tất cả các khoản thu nhập hợp pháp của cá nhân (Điều 3 Luật). Với cách quy định như vậy đồng nghĩa với việc xác định đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân là tất cả các khoản thu nhập tính từ đồng thu nhập đầu tiên, bao gồm: Thu nhập từ kinh doanh; Thu nhập từ tiền lương, tiền công, Thu nhập từ đầu tư vốn, Thu nhập từ chuyển nhượng vốn, Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, Thu nhập từ trúng thưởng, Thu nhập từ bản quyền, Thu nhập từ nhượng quyền thương mại; Thu nhập từ nhận thừa kế; Thu nhập từ nhận quà tặng 2. Các quy định về giảm trừ gia cảnh theo quy định pháp luật hiện hành. Theo khoản 1, Điều 19, Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 thì: Giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú. 2.1. Điều kiện giảm trừ: 2 Với quy định trên thì cá nhân là đối tượng chịu thuế chỉ được giảm trừ gia cảnh khi hỏa mãn đồng thời 2 điều kiện: - Thu nhập được xác định để giảm trừ gia cảnh là thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế. - Áp dụng đối với cá nhân cư trú. 2.2. Mức giảm trừ: Theo điểm a, b, khoản 1 điều 19 Luật thuế thu nhập cá nhân và điều 12 Nghị định 100/2008/NĐ – CP ngày 8/9/2008 của Chính phủ hướng dẫn Luật thuế thu nhập cá nhân, đề cập đến khoản giảm trừ gia cảnh gồm: - Mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng (48 triệu đồng/năm). Ở đây, mức 4 triệu đồng/tháng là mức tính bình quân cho cả năm, không phân biệt một số tháng trong năm tính thuế không có thu nhập hoặc thu nhập dưới 4 triệu đồng/tháng. - Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc mà người nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng là 1,6 triệu đồng/tháng, kể từ tháng phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng. 2.3. Nguyên tắc giảm trừ: Khoản 2 điều 19 quy định: “Việc xác định mức giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc thực hiện theo nguyên tắc mỗi người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ một lần vào một đối tượng nộp thuế”. Người phụ thuộc mà đối tượng nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng phát sinh tháng nào thì được tính giảm trừ tháng đó. Trường hợp nhiều đối tượng nộp thuế có chung người phụ thuộc phải nuôi dưỡng thì các đối tượng nộp thuế phải tự thoả thuận để đăng ký giảm trừ gia cảnh vào một đối tượng nộp thuế. Trường hợp cá nhân cư trú vừa có thu nhập từ kinh doanh, vừa có thu nhập từ tiền lương, tiền công thì sẽ tính giảm trừ gia cảnh một lần vào tổng thu nhập từ kinh doanh và từ tiền lương, tiền công. Về nguyên tắc, Bộ Tài chính quy định đối tượng nộp thuế chỉ được tính giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc nếu đối tượng nộp thuế đã đăng ký thuế 3 và được cấp mã số thuế và phải có đủ hồ sơ chứng minh người phụ thuộc theo quy định. 2.4. Xác định người phụ thuộc Người phụ thuộc là người mà đối tượng nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng, bao gồm: a) Con chưa thành niên; con bị tàn tật, không có khả năng lao động; b) Các cá nhân không có thu nhập hoặc có thu nhập không vượt quá mức quy định, bao gồm con thành niên đang học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hoặc học nghề; vợ hoặc chồng không có khả năng lao động; bố, mẹ đã hết tuổi lao động hoặc không có khả năng lao động; những người khác không nơi nương tựa mà người nộp thuế phải trực tiếp nuôi dưỡng. Trong quy định này của Luật nhiều điểm vẫn còn chưa được rõ ràng. Vì thế Nghị định 100/2008/NĐ – CP ngày 8/9/2008 của Chính phủ hướng dẫn Luật thuế thu nhập cá nhân hay Thông tư số 84/2008/TT-BTC của Bộ tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn thi hành Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày 08/9/2008 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân, đã có những quy định cụ thể hơn về đối tượng phụ thuộc bao gồm: a) Con dưới 18 tuổi (được tính đủ theo tháng) Ví dụ: Con anh Nguyễn Văn A sinh tháng 7 năm 1992. Trường hợp này con anh Nguyễn Văn A được tính là người phụ thuộc đến hết tháng 6 năm 2010. b) Con trên 18 tuổi bị tàn tật, không có khả năng lao động; c) Con đang theo học tại các trường: đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, không có thu nhập hoặc mức thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 500.000 đồng. d) Người ngoài độ tuổi lao động hoặc người trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật nhưng bị tàn tật, không có khả năng lao động, không có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng mức thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 500.000 đồng, bao gồm: - Vợ hoặc chồng của người nộp thuế; 4 - Cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ, mẹ vợ (hoặc cha chồng, mẹ chồng) của người nộp thuế - Các cá nhân khác là người ngoài độ tuổi lao động hoặc trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật nhưng bị tàn tật, không có khả năng lao động, không nơi nương tựa, không có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng không vượt quá mức quy định tại điểm 3.1.5 dưới đây mà đối tượng nộp thuế đang phải trực tiếp nuôi dưỡng, bao gồm: - Anh ruột, chị ruột, em ruột của đối tượng nộp thuế. - Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cô ruột, dì ruột, cậu ruột, chú ruột, bác ruột của đối tượng nộp thuế. - Cháu ruột của đối tượng nộp thuế (bao gồm con của anh ruột, chị ruột, em ruột). - Người phải trực tiếp nuôi dưỡng khác theo quy định của pháp luật. Ở đây, người tàn tật, không có khả năng lao động theo quy định nêu trên được hiểu là người bị tàn tật, giảm thiểu chức năng không thể trực tiếp sản xuất, kinh doanh hoặc người bị khuyết tật, dị tật bẩm sinh không có khả năng tự phục vụ bản thân được cơ quan y tế từ cấp huyện trở lên xác nhận hoặc bản tự khai có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã về mức độ tàn tật không có khả năng lao động. 2.5. Thủ tục kê khai người phụ thuộc được giảm trừ gia cảnh. 2.5.1. Hồ sơ chứng minh người phụ thuộc. Theo khoản 5, điều 12 Nghị định 100/2008/NĐ – CP ngày 8/9/2008 của Chính phủ hướng dẫn Luật thuế thu nhập cá nhân thì người nộp thuế tự kê khai số lượng người phụ thuộc kèm theo giấy tờ hợp pháp và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác của việc kê khai. Hồ sơ chứng minh người phụ thuộc được Bộ tài chính quy định tại Thông tư số 84/2008/TT-BTC như sau: a) Đối với con: - Con dưới 18 tuổi cần một trong các giấy tờ sau: bản sao Giấy khai sinh hoặc bản sao sổ hộ khẩu. - Con trên 18 tuổi bị tàn tật, không có khả năng lao động cần có các giấy 5 tờ sau: + Bản sao Giấy khai sinh hoặc bản sao sổ hộ khẩu. + Bản sao xác nhận của cơ quan y tế từ cấp huyện trở lên hoặc bản khai có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã về mức độ tàn tật không có khả năng lao động. - Con đang theo học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hoặc học nghề (kể cả con đang học ở nước ngoài) cần có các giấy tờ sau: + Bản sao Giấy khai sinh hoặc bản sao sổ hộ khẩu. + Bản sao Thẻ sinh viên hoặc bản khai có xác nhận của nhà trường hoặc các giấy tờ khác chứng minh đang theo học tại các trường học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hoặc học nghề. Trường hợp là con nuôi, con ngoài giá thú thì ngoài Giấy khai sinh cần có bản sao quyết định công nhận việc nuôi con nuôi, quyết định công nhận việc nhận cha, mẹ, con của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. b) Đối với vợ hoặc chồng: - Vợ hoặc chồng đã hết tuổi lao động cần một trong các giấy tờ sau: bản sao sổ hộ khẩu hoặc bản sao Giấy chứng nhận kết hôn. - Vợ hoặc chồng trong độ tuổi lao động thì ngoài các giấy tờ nêu trên phải có thêm bản sao xác nhận của cơ quan y tế từ cấp huyện trở lên hoặc bản khai có xác nhận của Uỷ ban nhân cấp xã về mức độ tàn tật không có khả năng lao động. c) Đối với cha, mẹ, anh chị em ruột: - Trường hợp đã hết tuổi lao động cần có: bản sao sổ hộ khẩu hoặc giấy tờ liên quan khác để xác định rõ mối quan hệ của người phụ thuộc với đối tượng nộp thuế (là cha, mẹ, anh, chị, em ruột). - Trường hợp trong độ tuổi lao động thì ngoài các giấy tờ nêu trên, cần có thêm bản sao xác nhận của cơ quan y tế từ cấp huyện trở lên hoặc bản khai có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã về mức độ tàn tật không có khả năng lao động. d) Đối với ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cô, dì, chú, bác, cậu, 6 cháu ruột cần có: các giấy tờ hợp pháp để xác định mối quan hệ của người phụ thuộc với đối tượng nộp thuế (là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cô, dì, chú, bác, cậu ruột, cháu ruột) và bản tự khai có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi đối tượng nộp thuế cư trú về trách nhiệm nuôi dưỡng của đối tượng nộp thuế với người phụ thuộc. Các giấy tờ hợp pháp nêu ở đây là bất kỳ giấy tờ pháp lý nào xác định được mối quan hệ của đối tượng nộp thuế đối với người phụ thuộc như: bản sao sổ hộ khẩu (nếu có cùng sổ hộ khẩu), bản sao Giấy khai sinh thể hiện được quan hệ này. Trường hợp người phụ thuộc trong độ tuổi lao động ngoài các giấy tờ nêu trên thì phải có thêm bản sao xác nhận của cơ quan y tế từ cấp huyện trở lên hoặc bản khai có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã về mức độ tàn tật không có khả năng lao động. đ) Các giấy tờ trong các hồ sơ theo hướng dẫn nêu trên, nếu là bản sao thì phải có công chứng hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp xã. Nếu không có công chứng hoặc chứng thực thì phải xuất trình bản chính cùng với bản sao để cơ quan thuế kiểm tra đối chiếu. e) Cá nhân cư trú là người nước ngoài, nếu không có hồ sơ theo hướng dẫn đối với từng trường hợp cụ thể nêu trên thì phải có các tài liệu pháp lý tương tự để làm căn cứ chứng minh người phụ thuộc. Đối tượng nộp thuế chỉ phải nộp hồ sơ chứng minh cho một người phụ thuộc một lần trong suốt thời gian được tính giảm trừ kể cả trường hợp đối tượng nộp thuế thay đổi nơi làm việc, thay đổi nơi kinh doanh. 2.5.2. Việc kê khai giảm trừ đối với người phụ thuộc được quy định cụ thể như sau: Đối tượng nộp thuế có thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công từ 4 triệu đồng/tháng trở xuống không phải kê khai người phụ thuộc. Đối tượng nộp thuế có thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công trên 4 triệu đồng/tháng có nuôi dưỡng người phụ thuộc, để được giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc cần kê khai theo hướng dẫn dưới đây: 7 a) Đối với đối tượng nộp thuế có thu nhập từ tiền lương, tiền công: - Đầu năm, chậm nhất là ngày 30 tháng 1, đối tượng nộp thuế lập 02 bản đăng ký người phụ thuộc được giảm trừ gia cảnh theo mẫu số 16/ĐK-TNCN ban hành kèm theo Thông tư này gửi cho cơ quan trả thu nhập. Trong năm nếu có sự thay đổi về người phụ thuộc so với đăng ký đầu năm thì chậm nhất là sau 30 ngày kể từ ngày có thay đổi (tăng, giảm), đối tượng nộp thuế cần khai 02 bản đăng ký điều chỉnh người phụ thuộc theo mẫu số 16/ĐK-TNCN ban hành kèm theo Thông tư này gửi cho cơ quan trả thu nhập. Trường hợp đối tượng nộp thuế ký hợp đồng lao động (hoặc có quyết định tuyển dụng) sau ngày 30 tháng 1 thì thời hạn đăng ký người phụ thuộc chậm nhất là ngày cuối cùng của tháng ký hợp đồng lao động hoặc quyết định tuyển dụng. - Đối tượng nộp thuế đăng ký giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc phải có đủ hồ sơ chứng minh về người phụ thuộc theo hướng dẫn tại điểm 3.1.7 nêu trên và phải nộp cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý đơn vị trả thu nhập. - Thời hạn nộp hồ sơ chứng minh người phụ thuộc như sau: + Đối với các trường hợp đã đăng ký giảm trừ gia cảnh từ đầu năm 2009 thì thời hạn nộp hồ sơ chậm nhất là ngày 30 tháng 6 năm 2009. + Đối với các trường hợp đăng ký giảm trừ gia cảnh sau ngày 30 tháng 1 năm 2009 thì thời hạn nộp hồ sơ chậm nhất là sau 03 tháng kể từ ngày đăng ký giảm trừ. + Trường hợp có phát sinh tăng, giảm về người phụ thuộc so với đăng ký thì thời hạn nộp hồ sơ chậm nhất là sau 03 tháng kể từ ngày đăng ký điều chỉnh tăng, giảm người phụ thuộc. Quá thời hạn nộp hồ sơ nêu trên, nếu đối tượng nộp thuế không nộp hồ sơ chứng minh người phụ thuộc sẽ không được giảm trừ cho người phụ thuộc và phải điều chỉnh lại số thuế phải nộp. - Cơ quan trả thu nhập có trách nhiệm: + Tiếp nhận bản đăng ký người phụ thuộc được giảm trừ của đối tượng nộp thuế. 8 + Hàng tháng, thực hiện tạm giảm trừ gia cảnh cho số người phụ thuộc theo đúng bản đăng ký người phụ thuộc của đối tượng nộp thuế trước khi tính số thuế tạm khấu trừ. + Chuyển 01 bản đăng ký giảm trừ người phụ thuộc của đối tượng nộp thuế cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý cơ quan trả thu nhập. Thời hạn chuyển chậm nhất là ngày 20 tháng 2 của năm thực hiện. Trường hợp đăng ký giảm trừ sau ngày 30 tháng 1 của năm thực hiện hoặc đăng ký điều chỉnh người phụ thuộc, thời hạn chuyển cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý là ngày 20 của tháng sau tháng nhận được bản đăng ký. b) Đối với đối tượng nộp thuế có thu nhập từ kinh doanh - Đối tượng nộp thuế có thu nhập từ kinh doanh khai giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc cùng với tờ khai tạm nộp thuế dành cho cá nhân kinh doanh nộp thuế theo kê khai hoặc tờ khai thuế dành cho cá nhân kinh doanh nộp theo phương pháp khoán. - Đối tượng nộp thuế khai giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc tại các tờ khai nêu trên vào đầu năm 2009 phải có đủ hồ sơ chứng minh về người phụ thuộc theo hướng dẫn tại điểm 3.1.7 khoản 3 mục I phần B Thông tư này và nộp cho Chi cục Thuế trực tiếp quản lý cá nhân kinh doanh chậm nhất là ngày 30 tháng 6 năm 2009. - Trường hợp có phát sinh tăng, giảm người phụ thuộc hoặc mới ra kinh doanh thì hồ sơ chứng minh người phụ thuộc phải nộp chậm nhất là sau 03 tháng kể từ ngày khai người phụ thuộc tại tờ khai thuế. - Quá thời hạn nộp hồ sơ nêu trên, nếu đối tượng nộp thuế không nộp hồ sơ chứng minh người phụ thuộc sẽ không được giảm trừ cho người phụ thuộc và phải điều chỉnh lại số thuế phải nộp. Đối với cá nhân kinh doanh nộp thuế khoán phải điều chỉnh lại mức thuế đã khoán. Đối tượng nộp thuế chỉ phải nộp hồ sơ chứng minh cho một người phụ thuộc một lần trong suốt thời gian được tính giảm trừ kể cả trường hợp đối tượng nộp thuế thay đổi nơi làm việc, thay đổi nơi kinh doanh. Đối tượng nộp thuế vừa có thu nhập từ kinh doanh, vừa có thu nhập từ 9 tiền lương, tiền công thì việc tạm giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc vào loại thu nhập nào là do đối tượng nộp thuế lựa chọn và đăng ký theo hướng dẫn nêu trên. Trường hợp có nhiều người phụ thuộc nhưng kê khai tạm giảm trừ không hết vào một loại thu nhập thì được tạm giảm trừ vào cả hai loại thu nhập. Đối tượng nộp thuế vừa có thu nhập từ kinh doanh, vừa có thu nhập từ tiền lương, tiền công thì việc tạm giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc vào loại thu nhập nào là do đối tượng nộp thuế lựa chọn và đăng ký theo hướng dẫn nêu trên. Trường hợp có nhiều người phụ thuộc nhưng kê khai tạm giảm trừ không hết vào một loại thu nhập thì được tạm giảm trừ vào cả hai loại thu nhập II. HẠN CHẾ TRONG QUY ĐỊNH GIẢM TRỪ GIA CẢNH Thứ nhất, cách tính mức giảm trừ gia cảnh còn mang nặng tính chủ quan, chưa tính đến tình hình biến động kinh tế sau này. Các khoản giảm trừ gia cảnh không phải chịu thuế bao gồm phần giảm trừ đối với cá nhân là đối tượng nộp thuế và phần giảm trừ cho người phụ thuộc (người mà đối tượng nộp thuế phải nuôi dưỡng, cấp dưỡng theo quy định của pháp luật). Xác định mức giảm trừ gia cảnh là việc phức tạp bởi lẽ nhà làm luật cần phải tính toán, cân nhắc đồng thời các vấn đề: khả năng nộp thuế, khoản tiền cần thiết để đảm bảo mức sống tối thiểu của người nộp thuế và cách tính đơn giản.Trước đây, trong quá trình soạn thảo Luật thuế TNCN đã có nhiều phương án được đưa ra nhưng ban soạn thảo chọn mức giảm trừ 4 triệu đồng đối với người chịu thuế do mức lương tối thiểu lúc đó là 450.000 đồng/tháng. Giả sử mỗi năm Nhà nước tăng thêm 20% thì mức lương tối thiểu đến năm 2009 là 650.000 đồng/tháng. Mức lương trung bình tương đương với người hưởng lương hệ số 3 (người có trình độ đại học sau 10 năm làm việc) thì ở năm 2009 khoảng 1,95 triệu đồng/tháng. Thu nhập quốc dân bình quân đầu người năm 2009-2010 khoảng 1.000 USD/năm, tương đương 1,6 triệu đồng/người/tháng. Cách tính trên mang tính chủ quan, nhìn vấn đề ở trạng thái tĩnh của Ban soạn thảo. Khi đó có lẽ ban soạn thảo quên rằng, sau năm 2009 tình hình kinh tế-xã hội sẽ thay đổi và không giống với những dự đoán vào đầu năm 2009 và không ai có thể biết được mức trượt giá sẽ như thế nào và với 4 triệu đồng có đủ cho 10 đối tượng nộp thuế đảm bảo cho cuộc sống tối thiểu của mình hay không. Và rõ ràng hiện nay mức lương tối thiểu đã là 730.000 đồng và 4.000.000 đồng thì khó có thể đảm bảo mức sống bình thường cho người nộp thuế, bởi lẽ thu nhập cao thì chi phí càng nhiều. Thứ hai, việc quy định cụ thể mức giảm trừ gia cảnh như hiện nay có nguy cơ không đảm bảo nguyên tắc công bằng trong phân phối thu nhập của thuế TNCN. Thuế TNCN ra đời bắt nguồn từ yêu cầu và nguyên tắc đảm bảo sự công bằng trong phân phối thu nhập. Người có thu nhập cá nhân cao phải nộp thuế nhiều hơn người có thu nhập trung bình, có thu nhập như nhau nhưng người có hoàn cảnh khó khăn hơn thì phải nộp thuế ít hơn. Tinh thần này luôn được quán triệt khi xây dựng luật thuế TNCN, trước hết thong qua các quy định về đối tượng nộp thuế. Cá nhân dù là người nước ngoài hay trong nước, dù là kinh doanh hay không kinh doanh đều phải chịu sự điều chỉnh của cùng đạo luật thuế. Hơn nữa, đạo luật khi có hiệu lực sẽ dẫn đến việc bãi bỏ các quy định về thuế chuyển quyền sử dụng đất đối với cá nhân tại Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất. Ngoài ra, theo điều 19 Luật thuế TNCN, chỉ những người có thu nhập lớn hơn tổng số tiền được giảm trừ gia cảnh mới phải chịu thuế. Mức giảm trừ với người nộp thuế là 4 triệu đồng/ tháng, với mỗi đối tượng phụ thuộc người nộp thuế sẽ được trừ thêm 1,6 triệu đồng/tháng. Quy định này nhằm đem lại sự công bằng cho các đối tượng nộp thuế nhưng trên thực tế lại có thể tạo ra một số vấn đề cần phải xem xét lại vì nó tạo ra sự “phản cảm” cho chính những đối tượng này và nhiều khi tạo tâm lý muốn trốn thuế. Ví dụ: Hai gia đình đều nuôi một con nhỏ dưới 18 tuổi, có tổng thu nhập như nhau (10 triệu đồng/tháng), mức thuế thu nhập cá nhân phải nộp có giống nhau không? - Giả sử gia đình 1: chồng thu nhập 4triệu/tháng, vợ 6 triệu/tháng. Theo luật thuế TNCN, đứa con sẽ giảm trừ cho người vợ. Thu nhập tính thuế của người vợ là 400.000 đồng, mức thuế thu nhập gia đình này phải đóng mỗi tháng là 20.000 đồng. - Giả sử gia đình 2: chồng thu nhập 9 triệu/tháng, vợ 1 triệu/tháng. Theo luật, đứa con sẽ giảm trừ cho người chồng. Thu nhập tính thuế của chồng sau khi 11 giảm trừ gia cảnh sẽ là 3,4 triệu/tháng. Khi đó, mức thuế thu nhập gia đình này phải đóng mỗi tháng là 170.000 đồng, gấp 8,5 lần gia đình 1. Như vậy, với thu nhập như nhau, hoàn cảnh như nhau nhưng trong trường hợp trên các mức thuế TNCN phải nộp lại vênh nhau quá lớn. Về vấn đề này, pháp luật các nước thường quy định cho phép người nộp thuế lựa chọn, tính thu nhập chung cho cả vợ lẫn chồng hay tính riêng cho từng người. Mỗi trường hợp sẽ có mức thuế suất khác nhau để đảm bảo công bằng. Hơn nữa, cần phân biệt mức giảm trừ đối với người phụ thuộc có sức khỏe bình thường với người bị mắc bệnh hiểm nghèo, từ đó sẽ giảm được sự bất công khi xác định thu nhập tính thuế. Thứ ba, quy định giảm trừ gia cảnh hiện nay vẫn còn chưa rõ ràng gây khó khăn cho việc áp dụng. Theo điểm a, khoản 1, điều 19: Mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 4 triệu đồng/ tháng(48 triệu/năm). Quy định này vô hình chung đã vô hình đánh đồng tất cả các đối tượng nộp thuế dù là mới thuộc diện nộp thuế trong mấy tháng cuối năm hay là thuộc diện nộp thuế từ đầu năm. Theo điều này, cá nhân có thể không phải nộp thuế thu nhập thậm chí họ có thu nhập bình quân hơn 4 triệu/tháng nhưng nhỏ hơn 48 triệu/năm. Đây có thể coi là kẽ hở của Luật, gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Hoặc Luật quy định: Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc mà người nộp thuế có nghĩa vụ nuôi dưỡng là 1,6 triệu/tháng. Tuy nhiên, thời điểm phát sinh và thời điểm chấm dứt của nghĩa vụ nuôi dưỡng là khi nào?có cần phải có sự xác nhận của cơ quan chính quyền hay không?Nếu cần thì do cơ quan nào, cấp nào xác nhận. Đây là vấn đề tương đối nan giải, bởi lẽ sẽ phát sinh rất nhiều trong trường hợp kê khai, gian lận thuế khi người nuôi dưỡng đã mất hoặc đã chuyển đi nơi khác sinh sống nhưng vẫn thuộc diện giảm trừ gia cảnh. Thứ tư, mức giảm trừ gia cảnh so với tình hình giá cả biến động như hiện nay vẫn là còn quá thấp. Trở lại với thời điểm xây dựng Luật Thuế TNCN vào năm 2007 để thấy sau 4 năm, tốc độ tăng giá (hay chỉ số giá tiêu dùng - CPI) đã tăng trên 50%. Riêng trong 2 năm từ khi Luật Thuế TNCN có hiệu lực thi hành thì CPI đã tăng trên 30%. Như vậy cũng đủ thấy, với tốc độ trượt giá hiện 12 nay, mức thu nhập 4 triệu đồng/tháng chỉ đủ để trang trải chi phí sinh hoạt cho một người ở mức hết sức tằn tiện. Đó là chưa kể đến trường hợp những gia đình hay cá nhân cán bộ, công chức phải còn ở nhà thuê, chung cư thuê thì lại càng bội phần khó khăn. Nếu xét theo đà trượt giá trong 4 năm qua, đặc biệt là những tháng cuối năm giáp Tết âm lịch thì áp lực lạm phát những tháng còn lại của năm 2011 sẽ còn khá cao, nhất là giá lương thực, thực phẩm và y tế, cũng như xăng dầu, điện, nước... còn tiếp tục gia tăng. Mặc dù Chính phủ đã điều chỉnh tăng lương tối thiểu lên 650.000 đồng vào tháng 1-2009, 730.000 đồng vào tháng 5-2010 và tiếp tục điều chỉnh lên mức 830.000 đồng kể từ 1-5-2011, nhưng mức lương này chỉ đáp ứng được khoảng hơn nửa nhu cầu cơ bản của một cá nhân. Đó là chưa kể bài toán lạm phát luôn đi kèm sau mỗi kỳ tăng lương. Trong bối cảnh lạm phát tăng cao, các mặt hàng không ngừng tăng giá khiến cuộc sống của người dân thêm khó khăn. Điều mà hầu hết những người làm công ăn lương chờ đợi từ cơ quan soạn thảo là điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh cho cả cá nhân đóng thuế và người phụ thuộc cho phù hợp với diễn biến lạm phát thực tế hiện nay. Đặc biệt, là mức giảm trừ gia cảnh 1,6 triệu đồng cho mỗi cá nhân phụ thuộc (cha mẹ, người tàn tật, vợ hay con nhỏ dưới 18 tuổi) này được cho là lạc hậu so với thực tế, nhất là khi giá cả nhiều mặt hàng tăng cao như hiện nay ảnh hưởng đến đời sống những người làm công ăn lương. Trong khi đó, Luật Thuế TNCN còn bộc lộ những bất cập cụ thể như: Mức giảm trừ gia cảnh chưa tính đến khu vực. Vùng nông thôn, thành thị, đồng bằng hay miền núi đều áp dụng như nhau, nhưng trên thực tế, mức chi tiêu cho sinh hoạt hằng ngày của một cá nhân ở thành thị lớn hơn rất nhiều so với nông thôn và miền núi. Mặt khác, cần sớm thể chế hóa lại mức khởi điểm tính thuế theo hướng vừa tăng mức tính khởi điểm, vừa tạo linh hoạt trong áp dụng của đơn vị, đối tượng chịu thuế và cơ quan thuế. Đáng chú ý là rất nhiều người có thu nhập ở mức 500.000 - 700.000 đồng/tháng đang chịu thiệt thòi vì không được tính là người phụ thuộc trong khi vẫn phải sống vào sự chu cấp của người thân. Bên cạnh vấn đề nêu trên, việc xác định mức giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc, thực hiện theo nguyên tắc mỗi người phụ thuộc chỉ được tính 13 giảm trừ một lần vào một đối tượng nộp thuế (khoản 2, điều 19). Điều này có nghĩa là khi các đối tượng nộp thuế có chung người nuôi dưỡng thì nguyên tắc thỏa thuận được áp dụng để xác định đăng kí giảm trừ gia cảnh cho một đối tượng nộp thuế. Vậy có thể xảy ra trường hợp một cá nhân trong gia đình có thu nhập đến hơn chục triệu/tháng – cao hơn hẳn người khác (mức thu nhập chỉ hơn 4 triệu/tháng 1 chút) nhưng hai người thỏa thuận dồn hết số người phải nuôi dưỡng cho người thứ nhất để được đăng kí xét giảm trừ gia cảnh thì có thể người này không phải nộp thuế thu nhập. Tổng cộng gia đình đó phải nộp rất ít thuế cho Nhà nước. Vì vậy, đòi hỏi quy định phải thật chặt chẽ, tránh tình trạng chung chung, nếu không mục tiêu của đạo luật là tạo nguồn thu và công bằng xã hội sẽ không đạt được. III. GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC Thứ nhất, Với các bất cập hạn chế nêu trên, hiện nay nhiều chuyên gia đã đề xuất tính giảm trừ gia cảnh theo mức trượt giá và mức độ tăng trưởng kinh tếxã hội, tương ứng với mức lương tối thiểu do nhà nước quy định và điều chỉnh qua từng thời kỳ, nếu không luật sẽ trở nên lạc hậu. Do đó, việc sửa đổi luật thuế thu nhập cá nhân hiện nay là công việc phức tạp, tuy nhiên việc đảm bảo thực thi còn phức tạp hơn nhiều lần. Để đảm bảo luật được thực thi, Chính phủ cần phải có cơ chế chặt chẽ cho phép giám sát được các khoản thu nhập chịu thuế của cá nhân. Làm được điều này cần phải có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước liên quan. Trong bối cảnh khi nền kinh tế chưa có sự ổn định, lương chưa tăng mà giá đã tăng thì không nên quy định một mức cụ thể mà nên căn cứ vào mức lương tối thiểu để xác định mức miễn trừ gia cảnh cho đối tượng nộp thuế như kinh nghiệm của một số nước có nền kinh tế chuyển đổi, chưa có sự ổn định như Việt Nam. Kết hợp hai ý kiến nói trên và điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay thì có lẽ luật nên quy định: 1- Mức miễn trừ gia cảnh cho đối tượng nộp thuế gấp 10 lần mức lương tối thiểu 2- Khoản giảm trừ cho người phụ thuộc gấp 4 lần mức lương tối thiểu. 14 Thứ hai, Về mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc, không nên quy định tất cả các khoản thu nhập của người phụ thuộc mà chỉ nên quy định khoản thu nhập có tính chất ổn định đều đặn hàng tháng như thu nhập từ tiền lương, thu nhập kinh doanh, thu nhập từ đầu tư vốn... Ngoài ra, mức xác định thu nhập để tính là người phụ thuộc 500.000 đồng/tháng tức 6.000.000 đồng/năm so với tình hình hiện nay là thấp đề nghị điều chỉnh tăng lên. Ngoài ra, Quốc hội có thể ban hành khung quy định về mức giảm trừ gia cảnh- có thể tính tối đa là 5 lần mức lương tối thiểu nhưng mức giảm trừ gia cảnh cụ thể nên để Bộ Tài chính quyết định dựa trên tình hình thực tế, được xác định bằng một con số nhất định và việc áp dụng nên được quy định theo năm tính thuế - bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 để thuận tiện cho công tác quản lý. C. KẾT LUẬN Tóm lại, các quy định về giảm trừ gia cảnh trong Luật thuế TNCN là một điều cần thiết để đảm bảo nguyên tắc công bằng cũng như hợp lý trong việc nộp thuế. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm của mình thì những quy định này vẫn còn nhiều hạn chế như chưa tính được đến sự biến động của giá cả nên mức giảm trừ gia cảnh vẫn còn thấp, quy định về người phụ thuộc vẫn còn một số điểm chưa rõ ràng. Hi vọng rằng, sang năm sau khi việc sửa đổi luật thuế TNCN được đưa vào chương trình sửa đổi luật của Quốc hội, các nhà làm luật không chỉ có những điều chỉnh phù hợp hơn với hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam hiện tại mà còn phải dự liệu được tình hình biến động kinh tế để có được những quy định về mức giảm trừ gia cảnh hợp lý sau này, tránh tình trạng phải sửa đổi nhiều lần. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan